Matsuo Bashō (1644 - 1694) nhà thơ
haiku Nhật bổn
Bashō là bút hiệu của
Matsuo Munefusa (1644-1694),
một nhà thơ Nhật bổn, được xem là người viết haiku
Nhật bản thanh lịch nhất trong lúc khởi đầu
loại thơ này. Sinh ra trong gia đình hiệp sĩ đạo nổi
tiếng trong giới quý tộc, Bashō từ bỏ thế giới đó và
trở thành kẻ du mục, học thiền, sử và thơ cổ Trung
hoa, sống hạnh phúc nhờ sự bảo trợ khiêm nhường và
những tặng phẩm của nhiều học trò của ông. Từ 1667,
ông sống tại Edo (bây giờ là Tokyo), nơi ông
bắt đầu sáng tác thơ (Vietsciences)
Sau năm 1600 không bao lâu, những hỗn loạn do nội
chiến kéo dài qua hàng nhiều thế kỷ đã đi đến kết
thúc; Tokugawa Ieyasu thiết lập Shogunate, một chính
phủ quân phiệt không chấp nhận có đối thủ và, trước
Hoàng Đế, chỉ là thuộc hạ trên danh nghĩa. Năm 1638,
dưới nền shogun đệ tam, một nước Nhật hoàn toàn bình
định đã chính thức tách rời khỏi thế giới, và năm
1644, Matsuo Bashō ra đời.
Có thể ở một tuổi đời nào đó, Bashō đã là thi sĩ;
nhưng ông chỉ thực sự khám phá tự thân trong khả
năng thuận lợi dị thường cho sức phát triển và nhãn
thức thiên tài của ông. Với mọi người, cuộc sống một
lần nữa trở nên an ổn hơn, tầng lớp bourgeoisie (tư
sản) giàu có và nhàn rỗi đang sinh thành; và samurai
- những người thuộc tầng lớp chiến binh - không thể
hướng năng lực của mình vào thuật chiến tranh lâu
hơn nữa, có khuyng hướng chuyển dịch chúng vào các
nghệ thuật của hoà bình, trong đó thi ca trở thành
phổ biến nhất.
Có vẻ như Bashō đã khởi sự sáng tác vào năm lên
chín. Nhưng bài thơ được ghi chép đầu tiên của ông -
thật ra, cũng khó có thể xem đây là thơ cho dù theo
bất kỳ tiêu chuẩn nào - lại chỉ có lúc ông ở vào
khoảng ba mươi tuổi. Bài thơ viết cho năm Dậu, là
một thứ jeu d'esprit (lời dí dỏm), mừng năm mới rơi
vào giữa hai năm Tuất và Thân theo như cách sắp xếp
địa chi của lịch Nhật Bản :
Bầy bạn
Của chó và khỉ
Năm Dậu
Nỗ lực này, trong thể thức của nó, hầu như là một
biếm họa về thi ca đương thời, vì nó phụ thuộc lối
nói bóng gió "văn chương" để gây hiệu quả. Duy
trường hợp này ám chỉ một cổ tích mà trẻ em Nhật nào
cũng biết : truyện kể về Momotaro, một cậu bé đã
diệt trừ nhiều ma qủy nhờ sự hỗ trợ của đám tùy tùng
gồm một con chó, một con gà lôi và một con khỉ.
Năm 1666, Lord Sengin đột ngột từ trần. Không đầy
hai tháng sau; Bashō vào tu viện ở Koyasan, ông "
xuất gia đi tu ". Nơi đây, không nghi ngờ gì ông đã
suy sụp hoàn toàn vì cái chết của người chủ thân
yêu, và ấn tượng do cái chết để lại sẽ ảnh hưởng lên
toàn bột cuộc đời ông. Hơn hai mươi năm sau, ông trở
lại Iga giữa mùa xuân, đứng dưới những cội anh đào,
nơi Sengin và ông từng học hành và nô đùa suốt một
thời gian dài đến thế, với trái tim ngập tràn cảm
xúc để làm một bài thơ bình thường, tất cả những gì
ông có thể nói là :
Hoa đào hoa đào
Trong tâm tưởng gieo rắc
Biết bao điều
Tuy nhiên, cho dù Bashō đã khước từ " thế sự " thì
điều này cũng không có nghĩa ông tự hãm mình trong
tu viện : sau đó người ta được biết ông đã có mặt ở
Kyoto, đang nghiên cứu hài cú dưới sự hướng dẫn của
Kigin và bắt đầu nổi tiếng. Khi Kigin đi Edo (Tokyo), Bashō đi theo. Và hai năm sau, vào cái tuổi tam
thập, Bashō tách riêng một trường phái, nhận một
người con trai của một thương gia giàu có làm môn đệ
đầu tiên, một chàng trai về sau sẽ nổi tiếng với bút
hiệu Kikaku.
Vào thời kỳ này, Bashō chưa đạt tới đỉnh điểm tài
năng của ông, nhưng có một giai thoại đã minh họa
quan điểm của ông về thi ca. Một hôm, lúc Kikaku và
ông băng qua cánh đồng, trông thấy những con chuồn
chuồn đang lao vụt, chàng trẻ tuổi đã làm một bài
thơ mười-bảy-âm-tiết :
Hỡi chuồn chuồn đỏ
Đôi cánh rứt
Ồ những trái ớt
"Không !" Bashō nói. " Đó không phải là hài cú. Nếu
muốn làm một bài hài cú về đề tài này, con phải nói
:
Những trái ớt son
Đôi cánh chắp
Tung toé lũ chuồn chuồn
Dần dần, trường phái Bashō tăng trưởng về số lượng
thơ và tiếng tăm, và ít năm sau, thêm vào hài cú,
Bashō đã góp phần mình trong nhiều thiên sách về
renga (thơ liên hoàn). Vào năm 1679, ông viết bài
thơ đầu tiên theo phong cách mới vẫn làm liên tưởng
đến tên tuổi ông và được nhiều nhà thơ hài cú đi sau
xem là mẫu mực :
Trên tiều tụy cành
Bóng qụa
Rũ chiều thu
Có ít nhất hai trọng điểm kỹ thuật làm cho bài thơ
trở thành mẫu mực. Một, cả tâm cảnh hay niềm cảm xúc
được biểu hiện bởi miêu tả dung dị - một trình bày
đơn sơ về sự vật đã hoàn thành bức tranh. Hai, hai
phần đã cấu thành cái toàn thể được đối chiếu với
nhau, không bằng các biện pháp tu từ so sánh hoặc ẩn
dụ, mà như hai hiện tượng đơn lập. Có thể gọi đây là
"nguyên lý đối chiếu nội tại" trong đó những biệt dị
thì cũng hệ trọng như những tương đồng. Ở đây, không
đơn thuần là "trên cái héo hắt tàn tạ của cảnh vật
chiều thu, hoàng hôn rũ xuống tựa hồ ủ rũ một bóng
quạ", đó là sự tương phản giữa hình hài đen đủi nhỏ
nhoi của con quạ với cái âm u của mộ cảnh, và bất kỳ
những gì người đọc có thể tìm thấy trong đó. Qủa là
dễ hiểu được làm thế nào việc xử dụng kỹ thuật này
đã khiến cho hài cú trở nên sâu thẳm, biến nó thành
điểm khởi cho tư lự và tưởng tượng.
Bản thân Bashō cũng không luôn luôn đi theo mẫu mực
này, nhưng trong hài cú về sau của ông - cả những
bài không hoàn toàn khách quan đến thế - ít ra thì
phép "đối chiếu nội tại" vẫn được nội hàm. Trừ phi
ẩn ý này được nhận thấy, phần nhiều hiệu quả của thơ
đều thất lạc. Một minh họa cho nhận định này là hài
cú " Hoa Đào " đã dẫn ở trên, với hình tượng anh đào
(biểu tượng của cái đẹp mong manh) được xử dụng vừa
như một phông cảnh, vừa có mục đích đối chiếu với
những gì mà ,"trong tâm tưởng", hoa đã "gieo rắc".
Vào thời kỳ viết bài thơ "Con Qụa, Bashō đang tìm
kiếm một cách có ý thức cái đẹp thi ca phải được tìm
thấy trong những gì tự nó không đặc biệt đẹp. Ông
còn đang khai thác kỹ thuật viết đồng thời phát
triển sức thấu thị của thơ. Hai năm sau, vào năm
1681, một biến cố nào đó đã đột ngột xảy đến với
ông. Ông tuyên bố rằng cuộc đời ông, thuần phác là
vậy, vẫn có tính chất "quá thời lưu", và ông khởi sự
nghiên cứu nghiêm mật về Thiền - một tông phái Phật
giáo chuyên chú vào sự chiêm nghiệm. Sau biến cố đó,
trong mười năm cuối đời, chừng như tất cả thơ hay
nhất của ông được viết ra.
Khoảng đầu năm 1686, Bashō viết một hài cú có lẽ
được biết đến nhiều nhất trong Nhật văn và cũng được
chính ông xem như đã đánh dấu bước ngoặt hệ trọng
trong đời thơ của ông. Bài thơ tự nó có vẻ dễ gây
ngộ nhận là mộc mạc :
Ao hoang
Ếch nhảy vào
Tiếng nước
Nhiều nhà phê bình có thẩm quyền đã khám phá trong
hài cú này một ảo nghĩa bí truyền; những người khác
lại xem nó như quá u huyền để có thể cảm thức được
gì. Tuy nhiên, do sự kiện hai dòng cuối lại được
sáng tác trước, một nguồn sáng nào đó đã soi vào tác
phẩm. Trường hợp này chừng như đã được chứng thực.
Bashō đang ngồi với bằng hữu và môn đệ trong khu
vườn của ngôi nhà nhỏ của ông ở Edo thì, chắc hẳn
sau một quãng trầm mặc dài, bất chợt nghe một tiếng
động. Không nghĩ ngợi trước, Bashō ngước mặt nói : "
Kawazu tobikomu mizu no oto ". ( ếch-nhảy-vào
tiếng-nước). Ngay lập tức lời nói được nghe ra như
là phần kết khả dung của một hài cú. Và sau nhiều
gợi ý của bằng hữu và môn đệ, Bashō đã hoàn thành
bài thơ với dòng đầu : " Ao hoang ".
hài cú này, về hình thức, có lẽ hoàn toàn giống bài
thơ "Con Quạ", nhưng chắc chắn sự "đối chiếu nội
tại" giữa ao hoang và tiếng động bất chợt thì ẩn áo
vi diệu hơn nhiều so với giữa con qụa và chiều thu.
Và tâm cảnh do bài thơ biểu hiệu chắc hẳn phản ảnh
một nhân sinh quan đã sai biệt.
Chỉ là tương đối khi một ít thơ Bashō hiển nhiên có
tính chất tôn giáo dù cho nhiều hài cú lại có vẻ là
ghi chép về những kinh nghiệm gần như huyền nhiệm
của ông. Trong Hành Trình Sarashina chẳng hạn, Bashō
chép rằng trong khi đi qua rặng Kiso, ông và Etsujin
- môn đệ của ông - chợt nhận ra họ đang trèo ngược
lên một ngọn đèo dựng đứng hiểm ác. Bên trái, hun
hút một hẻm núi, và dưới lòng vực cách chỗ họ đứng
hàng ngàn bộ, một con lũ đang tuôn túa cuộn trào.
Hai người bước từng bước khiếp hãi, cho tới khi đến
một chiếc cấu treo ràng rịt loài dây leo thường xuân
bắt lắt léo ngang hẻm núi mà họ phải vượt qua. Bashō
không cho biết chi tiết về cảm giác của ông, ông chỉ
viết thêm một hài cú :
Lắt lẻo cầu treo giăng bắc
Sợi tồn sinh
Quấn quít lũ thường xuân
Cũng có những hài cú mặc nhiên có tính chất tôn giáo
đối với bất kỳ một Phật tử Nhật Bản nào :
Đêm chăng bẫy loài mực phủ
Trăng hè bóng dõi
Mộng phù sinh
Bẫy bắt mực phủ (bạch tuộc) là những hũ đất nung đặt
giăng ngang chỗ nước cạn. Trong đêm, loài vật này
bơi giật lùi vào trong bẫy như thể đó là kẽ đá và,
khi trời sáng, không thoát ra được nữa. Trong nguyên
ngữ, với đề từ "xuống thuyền", hiệu quả của wo là
biến mặt trăng thành chủ thể, ám thị con trăng vẫn
thâu đêm soi dõi xuống trập trùng đại dương, xuống
chiêm bao bào ảnh. Ở đây dù người đọc không đi sâu
vào những biếu tượng Phật giáo như con thuyền và mặt
trăng, ý đạo vẫn hiển lộ. Tuy nhiên, đáng chú ý là
khi nào dùng từ "mộng", dường như Bashō cũng liên
tưởng đến kiếp người. Và có lẽ lại càng đáng chú ý
hơn là, đối với Bashō, "ảo ảnh" thế giới dường như
không có dụng nghĩa, thế giới chỉ trú ngụ trong cái
phi thực nào, nhưng đúng hơn, tương tự đối với St.
Thomas Aquinas, nó còn thực hữu hơn như có vẻ thế.
Phần lớn hài cú còn lại của Bashō là những miêu tả
đơn sơ về cảnh vật, sự việc có thực với chi tiết vừa
đủ cho phép người đọc tự đặt mình vào vị trí của tác
giả, chia xẻ cảm xúc với ông. Tiếc thay, có những
khác biệt nào đó trong hài cú - mặc dù hoàn toàn
minh bạch đối với đề tài Bashō viết - lại vô nghĩa
với hấu hết người nước ngoài, nên chi ở đây phải
được lược bỏ. Dù sao, chúng tôi cũng không cưỡng lại
nổi việc dẫn ra đây một hài cú đặc biệt đáng ưa
chuộng :
Mưa tháng Năm khuất lấp
Vịnh Seta
Tràng Kiều u hiển bóng qua
"Tràng Kiều" ở Seta là một trong tám kỳ quan của hồ
Omi lừng danh được hầu hết người Nhật và, qua ảnh
chụp của Hiroshighe, ít nhất cũng có một số người
nước ngoài biết đến . Cầu xây trên những trụ đỡ, bắc
qua phần cuối phía Bắc của hồ Omi, ở đó hồ thắt lại
thành một vịnh nhỏ, nước tràn qua một dòng sông con.
Khi viết bài thơ này, có lẽ Bashō đã đứng trên cùng
"quan điểm" với Hiroshighe ( và như chúng tôi cũng
có được may mắn đó ), thấy cây cầu bắc từ bờ sông
vượt qua cả một vùng nước rộng. Tuy nhiên, cây cầu
thì dài đến nỗi, trong cơn mưa lớn, dù được nhìn từ
vị trí nào thì cũng chỉ thấy nổi mỗi một đầu cầu mà
thôi; và tất nhiên, bên kia cầu, bảy kỳ quan khác đã
là vô ảnh.
Có thể hài cú này đã khởi hứng cho một giai thoại
chừng như hoàn toàn ngụy tác : một lần, người ta hý
lộng yêu cầu Bashō sáng tác một hài cú về tất cả tám
kỳ quan. Điểm then chốt của trò đùa là trong một
tanka (ba muơi mốt âm tiết) rất nổi tiếng, với hàng
loạt lối chơi chữ, tám kỳ quan đã thực sự được đề
cập bằng tên gọi. Tuyệt đối không thể phô diễn nội
dung này trong mười bảy âm tiết, nhưng giai thoại
cho biết Bashō đã thoát bẫy bằng cách trả lời :
Đền Mii
Bội âm chuông
Bảy kỳ quan lịm sương
"Tiếng chuông đền Mii" được nghe ra đã nện trầm một
thiện âm siêu việt, là một trong những gì gọi là "kỳ
quan".
Thêm vào Sarashiko Kikô, Bashō viết nhiều tản văn
khác. Nổi tiếng nhất là Oku No Hosomichi (Nẻo về
Oku) góp nhặt những ghi chép về cuộc hành trình sáu
tháng khởi đi từ Edo vào mùa xuân 1689, qua các vùng
Bắc Nhật, rồi kết thúc tại ngôi đền thiêng Thái
Dương Thần Nữ ở Ise. Tác phẩm rất ngắn với khoảng
năm mươi hài cú. Tuy vậy, không thể nghi ngời gì,
đây là một trong những tác phẩm lớn của văn học Nhật
Bản, và có lẽ nó được chú giải nhiều hơn bất kỳ một
tác phẩm nào cùng tầm cỡ trên thế giới.
Tản văn Bashō, tương tự hài cú của ông, hết sức cô
đọng; ngôn ngữ ám thị theo phong cách Bashō không hề
vướng mắc trong thời đại của ông, nhưng ngày nay lại
như hoá ra mơ hồ. Ngay nhan đề của tác phẩm cũng đã
là một đề tài tranh luận : một phần, vì michii
(đường, đạo) có thể hoặc là số ít, hoặc là số nhiều;
phần khác, do từ oku là một tinh ngữ gắn liền với
các tỉnh Bắc Nhật, có ý nghĩa nền tảng tựa hồ "nội
tâm". Điểm quan trọng tương tự cũng nêu ra trong một
hài cú khác, ở đó khúc ca về "oku thì tương phản với
nghệ thuật công phu phức tạp của các đô thị (füryù)
Bashō thuật lại mẩu đối thoại sau khi ông vào miền
"oku" :
"Chủ nhân của lữ quán hỏi
trước : "Khi đi qua cổng Shirakawa, ông có sáng tác
bài thơ nào không ?"
Nỗi nhọc nhằn của hành trình dài ngày đã làm cho
tinh thần và thể xác tôi mệt mỏi, hơn nữa, tôi bị
cuốn hút vì phong cảnh, bị thổi bạt đi bởi niềm cảm
khái về thời quá vãng do cảnh vật gợi dậy, nên lúc
đó tôi không có được tâm thái thích hợp để làm thơ.
Tuy nhiên, nghĩ rằng thật là đáng tiếc nếu như cứ im
lặng đi qua, tôi đã làm hài cú sau :
Khúc ca mùa gieo cấy
Trên thắm biệt xứ miền
Nghệ thuật khởi nguyên
"Tôi đưa cho người chủ quán khách hài cú ấy như là
một câu trả lời, và chúng tôi đã thêm một bài thứ
hai, rồi một bài thứ ba, và thế là bài thơ hoá thành
renga (thơ liên hoàn).
Về bài thơ này, nhiều trang bình luận đã viết ra,
nhiều cách giải thích cũng đã trình bày. Một, trực
chỉ oku từ một Edo rất mực hoa lệ, Bashō có ấn tượng
về một lẽ thật là, trên phương diện tài chánh, chỉ
có việc trồng lúa mới làm cho đời sống xa hoa trở
thành khả hữu. Hai, ông chỉ ra mối tương quan thiết
yếu giữa cái đẹp tự nhiên và tính chất giản dị tự
nhiên. Ba, Bashō chỉ muốn khen tặng người chủ quán
khách. Bài thơ muốn nói những điều riêng biệt với
nhiều người khác nhau, và người đọc có thể tự chọn
lấy (...)
Ở một đoạn khác, Bashō thuật lại ông đã lên
Takadata, tòa-lâu-đài-trên-ngất-ngọn, nơi người anh
hùng dân tộc Nhật Bản Yoshisune và những kẻ tùy tùng
trung nghĩa cuối cùng đã bị sát hại. Từ trên cao,
ông có thể nhìn thấy đồng bằng Haraizumi với những
đồng cỏ ngan ngắt một mầu lục diệp, nơi các thị tộc
Fujiwara xưa kia từng sống một thời huy hoàng. Bashō
cho biết ông đã lên tận lâu đài, tư lự về những vàng
son đã quá và, khi chợt nhận ra tất cả chỉ còn là
một vùng cỏ dại xanh rì, ông đã ngồi xuống thở than
như thế nào :
Natsu - gusa ya
tsuwamono - domo ga
yume no ato
Hầu như không thể nào làm sống dậy bài thơ qua bản
dịch, vì không tìm ra nổi từ ngữ thích đáng . Natsu
- gusa có nghĩa là tất cả những loài cỏ dại mùa hè,
phát triển rất nhanh ; tsuwamono theo nghĩa chữ là
"tráng sĩ", một danh hiệu dành cho kẻ chinh chiến
thời trung đại vẫn còn khá cổ đối với cả thời đại
Bashō; -domo , một tiếp ngữ số nhiều; yume "mộng",
với hai nghĩa phụ : "huy hoàng, rực rỡ", "nhân sinh
nhược đại mộng"; và ato, một từ có nghĩa nền tảng là
"sau", nội hàm các khái niệm : thành tích, dấu vết,
hậu qũa, những gì bỏ lại đàng sau...
Dấu xưa xanh cỏ tháng hè
Tráng sĩ tráng sĩ hề
Mộng lữ
Trong nguyên ngữ, bài thơ dẫn truyền một cảm xúc
tiếc thương dữ dội, ít nhất một phần do triền âm
cuồn cuộn tsuwamono - domo , và sau đó, tiếng răng
rắc rạn gãy của ato . Mặc cho tính cách hoà nhã và
Thiền, Bashō vẫn là người thuộc dòng dõi samurai, và
ông chỉ đang sống trong một thời kỳ mà samurai không
còn làm nên nổi bao nhiêu kỳ tích vẻ vang nữa.
Trên phương diện nào đó, sau hài cú "Cỏ Hè " là một
bài thơ đối nghịch bổ sung cho nó; bài thơ có vẻ hy
vọng tràn đến tương lai thay vì u hoài trở về dĩ
vãng :
Chập chùng
Mưa tháng Sáu
Sừng sững lầu Dương Quang
Lầu Dương Quang là một trong những Kim Các Tự của
Chùsonji, một trong những chứng tích sau cùng còn
lại từ thời đại vàng son của các nam tước Bắc
Fujiwara - những ông hoàng một mình một cõi trong
thế kỷ thứ XII . Oka - no - Hosomichi , sau khi miêu
tả cảnh tượng tàn phá của gió và thời tiết, Bashō
thuật lại rằng trước khi ông đến đó không bao lâu,
lầu Dương Quang đã được xây bọc trong một kiến trúc
kiểu mới để bảo tồn nó thành một đài kỷ niệm " cho
ngàn năm sau ". Có lẽ ước vọng này đã trở thành hiện
thực, vì cho đến ngày nay, cũng như vào thế kỷ IX,
lầu Dương Quang vẫn sừng sững (...)
Vào năm 1694, Bashō tạ thế. Và đúng như ước nguyện,
ông đã qua đời trên nửa đường của một chuyến vân du
đẹp nhất, giữa bằng hữu và môn đệ.
Suốt trận đau cuối cùng, ông không ngớt đàm luận về
Đạo, Triết lý và Thi ca (thật ra, đối với Bashō, cả
ba hầu như chỉ là một). Và khi biết rõ Bashō đang
hấp hối, bằng hữu của ông yêu cầu ông cho họ một bài
" tử thi " ( từ thế chi ca, jisei no uta ) với nội
dung tổng quát về triết lý của ông, Bashō từ chối
với lý do thơ trong mười năm cuối đời của ông, khởi
đầu từ hài cú "ao hoang" , tất cả đã được sáng tác
như thể đó là một bài thơ cốt tử. Nhưng sáng ngày
hôm sau, ông gọi một người đến một bên, trối rằng
trong đêm hôm trước ông đã nằm mộng, và khi tỉnh
thức, một hài cú chợt đến với ông.
Không nghi ngời gì, đó là lời từ trần hoàn thiện mà
chưa một thi sĩ nào đã có thể gửi lại nhân gian :
Nửa đường ngả bệnh
Mộng còn ngao du
Đồng không mông quạnh
http://vietart.site.voila.fr |