Nikos Kazantzaki

Vietsciences-Từ Vũ (Pháp)       12/03/2005  

 


Nikos Kazantzaki (1883-1957) nhà văn thơ lớn Hy lạp

Tôi chẳng hy vọng gì. Tôi chẳng sợ hãi gì.Tôi tự do.(Nikos Kazantzaki)


I - Tiểu sử

 
Nikos Kazantzaki là người Crète, hòn đảo lớn nhất của Hy Lạp. Sinh ngày 18 tháng 2 năm 1883 tại Iraklion (Héraklion). Thân phụ ông, Mihalis, là một nhà buôn các nông phẩm và rượu tại Varvari - hiện nay là viện bảo tàng Nikos Kazantzaki - sau này hình ảnh phụ thân ông chính là Kapetan Mihalis trong truyện Freedom or Death - La Liberté ou la Mort - "Tự Do hay Chết".

- 1889 : Trong cuộc nổi dậy giành độc lập của người đảo Crète chống lại sự đô hộ của Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả gia đình ông phải rời khỏi Crète tỵ nạn 6 tháng tại đảo Naxos.

- 1897 và 1898 : Nổi dậy giành độc lập lần thứ hai của người Crète, lần này họ đã thành công. Vì sự an toàn của cậu con trai nên Nikos được cha mẹ gởi sang học tại Ecole Commerciale Ste Croix, Naxos cũng chính tại đây ông đã được học các ngôn ngữ như tiếng Pháp, tiếng Ý với các tu sĩ người Pháp.

- 1902 đến 1906 : Theo học tại trường đại học luật khoa ở Athènes - thủ đô nước Hy Lạp.

- 1906 : Ngay trước khi tốt nghiệp đại học luật, Kazantzaki cho xuất bản tiểu luận The Sickness of the Century - La maladie du siècle - "căn bệnh của thế kỷ " và tập truyện Lily and Serpent - Le Lys et le Serpent - "Hoa huệRắn"; và viết vở kịch Day is Breaking - Le jour luit - Ngày đang tỏa sáng.

- 1907 : "Day is Breaking" được giải thưởng nghệ thuật kịch và được trình diễn tại Athènes tạo ra nhiều cuộc bút chiến sôi nổi. Tức khắc, chàng trẻ Kazantzaki trở thành nổi tiếng, khởi đầu cho sự nghiệp báo chí của chàng. Tháng 10 năm này, Nikos Kazantzaki đến Paris, thủ đô Pháp , tiếp tục đường học vấn. Tại Paris, Nikos đã theo các lớp học của triết gia Bergson , đọc Nietzsche và hoàn tất truyện Broken Souls - Âmes brisées "Những linh hồn vỡ ".

- 1909 : Hoàn thành luận án về Nietzsche và viết vở kịch Protomastoras - The Master Builder . Trở lại Crète qua ngả Ý, Nikos xuất bản luận án của ông, vở kịch một màn Comedy - "Kịch vui" và tiểu luận "Has Science Gone Bankrupt?"- La science a-t-elle fait faillite? Trong vai trò chủ tịch hiệp hội Solomos tại Iraklion, vận động cho việc thừa nhận ngôn ngữ bình dân sử dụng hàng ngày trong trường học để thay thế cho ngôn ngữ thuần túy chủ nghĩa "katharevusa", Nikos Kazantzaki viết một bản tuyên ngôn dài về sự cải tổ ngôn ngữ và cho xuất hiện trong tờ Athenian periodical.

- 1910 : Bài tiểu luận For Our Youth, những lời chào đón nồng hậu với Ion Dragoumis (1878-1920), một người theo chủ nghiã bình dân khác, đã đề xướng để hướng dẫn Hy Lạp trên bước đường về vinh quang mới . Kazantzaki và Galatea Alexiou, một nữ tác giả trí thức của Iraklion khởi sự sống chung với nhau không cưới hỏi, tại Athènes. Nikos mưu sinh bằng việc phiên dịch tiếng Pháp, Đức, Anh và cổ ngữ Hy Lạp. Ông cũng là một sáng lập viên của hiệp hội sư phạm, một tổ chức quan trọng nhất của những người tranh đấu cho sự bình dân hoá nền giáo dục của Hy Lạp.

- 1911 : Nikos Kazantzaki và Galatea chính thức thành hôn tại Crète sau đó hai người trở lại Athènes.

- 1912 : Giới thiệu triết học của Bergson với giới trí thức Hy Lạp qua những bài thuyết trình hoặc những bài viết trong tạp san cuả hiệp hội giáo dục.

Khi cuộc chiến tại vùng Balkan bộc phát, Nikos tình nguyện gia nhập quân đội Hy Lạp và được ủy thác phục vụ bên cạnh Thủ Tướng Hy Lạp Venizelos.

- 1914 Ông và nhà thơ Angelos Sikelianos cùng đến núi Athos nơi đó họ ở lại 40 ngày. Mont Athos (rặng núi thánh nằm trong bán đảo Athos - Hy Lạp nơi đã diễn ra huyền thoại của thần Apollon và nữ thần Daphne người yêu hoăc trận đánh giữa những người khổng lồ và người Olympia. Tại Mont Athos có 20 tu viện lớn của giáo hội chính thống giáo Hy Lạp ) cùng với nhà thơ Angelos Sikelianos (một trong các nhà thơ lớn của Hy Lạp - sinh năm 1884 mất năm 1951) hai người đã viếng thăm tất cả những tu viện . Trong dịp này, Nikos nghiên cứu Dant, Phúc Âm,và Phật học. Cũng cùng với Sikelianos, Nikos ước mơ thành lập một tôn giáo mới.
Để sinh sống, ông cộng tác với Galatea viết sách thiếu nhi.
 
-1915 : Trên núi thánh, trong một tu viện, Nikos hoàn tất một quyển sách (nay đã thất lạc), rất có thể để đề cập đến núi thánh. Cũng trong nhật ký, ông đã ghi đó là phương châm của ông "come l’uom s’eterna" (làm thế nào con người cứu vớt được chính mình - từ Inferno 15.85 của Dante). Ông đã cống hiến thời gian để cấu tạo những bi kịch "Christ" và "Odisseas" và bản phác thảo đầu tiên của bi kịch Nikiforos Fokas. Trong mục đích ký kết một hợp đồng khai thác gỗ từ đỉnh Athos.
Tháng 10-1915, Nikos làm một chuyến du hành đến Thessaloniki (thành phố hải cảng cổ nhất Âu châu và là một thành phố lớn hàng thứ hai của Hy Lạp do vua xứ Macédoine, Kassandros, thiết lập vào năm 315 TCN) tại đây ông đã được chứng kiến cảnh đổ bộ của lực lượng Anh và Pháp để chiến đấu tại mặt trận Salonica trong Đệ Nhất Thế Chiến. Thời gian này, Nikos đọc Tolstoy .
Cũng trong năm 1915 , thêm một lần nữa cũng với Sikelianos, Nikos Kazantzaki thực hiện một vòng nước Hy Lạp. Trong nhật ký ông đã viết : "Những người thầy lớn nhất của tôi là Homer, Dante, Bergson."(sau này còn thêm Zorbas).

- 1917 : Vì sự cần thiết của than đá cho thời chiến tranh, trong việc khai thác mỏ than tại Peloponnesus, Nikos Kazantzaki tuyển mộ một người công nhân có tên là Georges Zorbas. Qua kinh nghiệm với G. Zorbas và phối hợp với những dữ kiện trong kế hoạch khai thác gỗ năm 1915, Nikos Kazantzaki khai triển kinh nghiệm sống này trong truyện Life and Times of Alexis Zorbas hay là Zorba the Greek - Zorba người Hy Lạp.
Vào tháng 9 , Nikos du lịch tại Thụy Sĩ theo lời mời của Yannis Stavridakis, lãnh sự Hy Lạp tại Zurich.

- 1918 : Nikos Kazantzaki thực hiện một chuyến hành hương tại Thụy Sĩ qua những địa điểm mà Nietzsche đã từng đặt chân đến lúc còn sinh thời. Cũng trong dịp này, Nikos đã gắn bó với một nữ trí thức hy lạp khác, Elli Lambridi.

- 1919 : Thủ tướng Hy Lạp Venizelos chỉ định Nikos Kazantzaki đảm nhận trách vụ tổng giám đốc bộ phúc lợi đặc nhiệm công việc hồi hương cho 150.000 người Hy Lạp đang bị bức chế bởi những người bônsévíc trong vùng Caucase.Tháng 7 năm này, Nikos lên đường cùng với Stavridakis và Zorbas.Tháng 8 ông đến Versailles báo cáo công việc với Venizelos rồi tham dự vào những cuộc đàm phán hiệp ước hoà bình. Sau đó, Nikos Kazantzaki đi thanh tra việc định cư của những người tỵ nạn tại vùng Macédoine và Thrace. Ông đã sử dụng những kinh nghiệm trong thời kỳ này để viết trong quyển Christ Recrucified (The Greek Passion) - Le Christ recrucifié.

- 1920 : Vụ ám sát Dragoumis vào ngày 31 tháng 7 làm cho Kazantzaki xuống tinh thần. Sau khi đảng Tự Do của Venizelos bị thất bại trong cuộc bầu cử vào tháng 11-1920, Nikos từ nhiệm và đi Paris - Pháp.

- 1921 : Thực hiện một chuyến du lịch nước Đức, sau đó vào tháng hai Nikos Kazantzaki trở lại Hy Lạp.

- 1922 : Giao kèo ký kết với một nhà xuất bản tại Athènes về một số sách giáo khoa đã cho phép Nikos Kazantzaki rời khỏi Hy Lạp một lần nữa.
Ông có mặt tại Vienne ( thủ đô Áo Quốc) từ ngày 19 tháng 5 cho đến cuối tháng 8. Tại đây Nikos nghiên cứu Freud, phác thảo Ascèse - Askititi - và học hỏi về những lời giảng của trong kinh Phật (Phật Giáo) cũng như khởi sự viết một kịch bản về cuộc đời Đức Phật. Vào tháng 9 người ta bắt gặp ông tại Bá Linh (Đức), tại đây ông nhận được tin tức về một chiến bại hoàn toàn của Hy Lạp trong cuộc chiến đấu chống lại Thổ Nhĩ Kỳ . Từ bỏ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đang có, Nikos ngả theo cộng sản chủ nghĩa. Bị ảnh hường đặc biệt bởi Rahel Lipstein và chi bộ thanh nữ cực đoan của cô ta. Hủy bỏ kịch bản "Bouddha" chưa hoàn tất, Nikos lại viết lại dưới hình thức mới. Nikos cũng khởi sự cho Askititi (The Saviours of God: Spiritual Exercises)- Ascèse, Salvatores Dei - sự khổ hạnh , và cố gắng giữ được sự quân bình giữa bạo động của chủ nghĩa cộng sản và sự nhẫn nhục chịu đựng của đạo Phật. Giấc mơ của ông lúc này là được định cư tại Liên Sô; Nikos khởi sự học tiếng Nga.

- 1923 : Những tài liệu hoạt động của Nikos Kazantzakis trong thời gian có mặt tại Vienne và Bá Linh được biết đầy đủ vì nhờ vào những bức thư của Nikos đã viết gởi cho Galatea, trong thời gian này bà vẫn lưu ngự tại Athènes. Kazantzaki hoàn thành Askititi - Ascèse, Salvatores Dei - vào tháng 4 và lại tiếp tục công việc của ông về Đức Phật.
Tháng 6, Nikos hành hương tại Naumburg, nơi sinh quán của Nietzsche.

- 1924 : 3 tháng có mặt tại Ý Đại Lợi , Kazantzaki viếng thăm Pompéi, địa điểm này như một trong những biểu tượng ám ảnh mà Nikos có; sau đó Nikos tạm cư tại Assisi, hoàn tất "Bouddha" , và , khởi sự công việc về Saint Francis rồi quay về Athènes gặp Eleni Samiou.
Trở lại Iraklion, Nikos trở thành "guru" một chi bộ cộng sản của những người tỵ nạn căm phẫn và những cựu chiến binh trong chiến dịch Tiểu Á. Ông khởi sự biên thảo Odyssée - Odyssée và cũng rất có thể đã viết Symposium.

- 1925 : Nikos bị bắt giữ vì những dính líu về chính trị, tuy nhiên ông chỉ bị giam giữ 24 giờ đồng hồ. Ông viết phần thơ 1-6 của Odyssée - Odyssée . Sự liên lạc với Eleni Samiou ngày càng sâu đậm thêm. Tháng 10, Nikos rời Athènes đi Liên Sô trong vai trò phóng viên cho một tờ báo tại Athènes với loạt dài những bài viết về cảm giác của ông tại Liên Sô.

- 1926 : Nikos Kazantzaki và Galatea ly dị; tuy nhiên Galatea vẫn hành nghề dưới tên gọi là Galatea Kazantzaki ngay cả sau khi đã lấy chồng khác.
Nikos du hành đến Palestine và Chypre, một lần nữa với tư cách là phóng viên báo chí. Tháng 8, Nikos có mặt tại Tây Ban Nha và phỏng vấn tướng Miguel Primo de Rivera, một nhà độc tài Tây Ban Nha (thiết lập chế độ độc tài từ năm 1923 đến 1930 sau một cuộc đảo chính vào ngày 13 -9-1923).
Tháng 10, Nikos Kazantzaki có mặt tại Rome để phỏng vấn Mussolini (nhà độc tài Ý cầm quyền từ năm 1922 đến 1943).
Tháng 11, Nikos gặp Pandelis Prevelakis, đệ tử tương lai của ông, phụ trách văn chương, thân tín và người viết tiểu sử của Nikos Kazantzaki sau này.

- 1927 : Kazantzaki viếng thăm Ai Cập và bán đảo Sinai cũng vẫn với tư cách phóng viên.
Tháng 5 ông tự giam mình tại Aegina - Egine - để hoàn thành Odyssée . Ngay sau đó, ông sưu tầm và tập trung các bài du ký mà ông viết trong bộ sách đầu tiên của Taksidevondas (Hành Trình). Trong tạp chí định kỳ Anayennisi (Phục Hưng) của Dimitrios Glinos in ra Askitiki. Cuối tháng 10, Kazantzaki lại sang Liên Sô một lần nữa nhưng lần này theo lời mời của chính quyền Liên Sô nhân dịp ngày kỷ niệm năm thứ 10 cuộc cách mạng đỏ. Nikos thi tài với Henri Barbusse. Nikos phát biểu một bài diễn văn hiếu chiến trong một cuộc hội nghị chuyên đề về hoà bình (Peace Symposium).
Tháng 11, ông gặp Panait Istrati, một nhà văn hy lạp gốc ý lúc đó đang rất được hâm mộ tại Pháp, cùng với Istrati và một số người khác Nikos thực hiện một vòng tham quan vùng Caucase.
Tháng 12, Kazantzaki rủ Istrati về Athènes và giới thiệu ông này với quần chúng Hy lạp qua một bài viết trong một tờ báo.

- Ngày 11 tháng Giêng năm 1928 , Kazantzaki và Istrati nói chuyện trước một cử toạ đông đảo tại rạp hát Alhambra về kinh nghiệm của Liên Sô.

Tháng 4, Istrati và Kazantzaki trở lại Nga, tại Kiev, nơi đây Kazantzaki viết một truyện phim nói về cuộc cách mạng Nga.

Tại Moscow vào tháng 6, Kazanytzaki và Istrati gặp gỡ Gorki (văn hào Nga sinh năm 1966 mất năm 1936). Kazantzaki thay đổi phần cuối của Askititi và thêm vào "Silence" - Sự im lặng-. Nikos cũng viết nhiều bài cho tờ Pravda (nhật báo chính thức của đảng cộng sản Nga) về những điều kiện xã hội tại Hy Lạp, sau đó Nikos đảm trách viết một truyện phim về cuộc đời Lenine .
Du hành cùng với Istrati đến Murmansk, ghé qua Leningrad để gặp Victor Serge ( nhà văn sinh năm1890 và mất năm 1947).
Tháng 7, trong tờ Monde của Barbusse xuất hiện bài tiểu sử sơ lược của Kazantzaki viết bởi Istrati. Đây là lần đầu tiên Kazantzaki được giới thiệu với độc giả Âu Châu.
Cuối tháng 8, Kazantzaki, Istrati tháp tùng bởi Eleni Samiou và một người bạn của Istrati, Bilili Baud-Bovy, thực hiện một chuyến hành trình dài trong vùng nam Nga sô với mục đích hợp tác viết một loạt bài với tựa đề Following the Red Star - noi theo ngôi sao đỏ . Nhưng hai người bạn càng lúc càng xa rời vì những bất đồng xảy ra từ tháng 12 sau "vấn đề Roussakov" trong đó s khủng bố mà Victor Serge và người cha vợ, Roussakov, một thành viên phe Trosky, phải hứng chịu. Tại Athènes, một nhà xuất bản đã cho phát hành hai bộ sách về những chuyến đi của Kazantzaki tại nước Nga.

- 1929 : Chia tay với Istrati, Nikos Kazantzaki một mình tiếp tục du hành khắp nước Nga.
Tháng 4 năm đó, ông đến Bá Linh - Đức để thuyết trình về Liên Sô và cho đăng tải trên báo chí với người đọc tại Đức nhiều bài viết.
Tháng 5, Nikos định cư tại một nông trại hẻo lánh tại Tiệp Khắc để viết bằng Pháp ngữ truyện Moscou a crié - sau này đổi tựa đề là Toda-Raba . Đây là một tường thuật chi tiết về những thăng trầm mới xảy ra của ông tại Nga Sô. Ông cũng hoàn tất một truyện khác viết bằng tiếng Pháp , truyện Kapetan Elia - tiền thân của Kapetan Mihalis - La Liberté ou la mort - sau này. Cùng lúc , Nikos Kazantzaki thực hiện việc duyệt xét lại căn bản của Odyssée theo phản ảnh biến chuyển của ông qua nhận xét tại Liên Sô.

- 1930 : Để có tiền, Nikos cho xuất bản tại Athènes bộ sách hai tập History of Russian Literature -Histoire de la littérature russe- Lịch sử về Văn chương Nga . Chính quyền Hy Lạp đe doạ truy tố Nikos ra toà về tội vô thần chiếu theo sách Askititi của ông. Nikos Kazantzaki rời Hy Lạp, đầu tiên ông đến Paris, sau đó là Nice, tại đây việc làm của ông là chuyển dịch những sách trẻ em bằng tiếng Pháp cho những nhà xuất bản tại Athènes.

- 1931 : Trở lại Hy Lạp, Nikos Kazantzakis định cư một lần nữa tại Aegina - Egine . Tháng 6, ông có mặt ở Paris, viếng thăm hội chợ thuộc địa (đấu xảo)- Colonial Exhibition ; nơi đây cũng cho ông những ý nghĩ mới về cảnh trí của bộ thi hùng ca Odyssée

- 1932 : Một chương trình có dính líu đến chuyện viết truyện phim và dịch thuật được thiết lập giữa Kazantzaki và Prevelakis trong ý đồ thu nhập tài chánh , nhưng chương trình này hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên trong số các công việc làm, Kanzantzaki đã cũng dịch hoàn toàn Divine Comedy - La Divine Comédie - của Dante sang tiếng Hy Lạp chỉ trong vòng 45 ngày. Sau đó, Nikos đi Tây Ban Nha với dự tính phát triển sự nghiệp của ông tại đây bằng cách khởi đầu việc dịch thuật thơ Tây Ban Nha.

- 1933 : Nikos viết những ấn tượng của ông về nước Tây Ban Nha và khởi đầu viết căn bản cho tự truyện của ông sau này, Report to Greco - Rapport au Greco ,sau đó quay về lại Aegina - Hy Lạp để thực hiện bốn biên thảo cho Odyssée .

- 1934 : Để kiếm tiền, Nikos viết 3 quyến sách giáo khoa và được bộ giáo dục Hy Lạp chấp nhận, nhờ thế vấn đề hạn hẹp tài chánh của ông cũng được tạm thời giải quyết.

- 1935 : Sau khi hoàn tất biên thaỏ thứ 5 cuả Odyssée, Nikos xuống tầu đi Nhật Bản và Trung Quốc.

- 1936 : Vẫn trong ý định thiết lập sự nghiệp văn chương tại các quốc gia hải ngoại, Kazantzaki viết bằng Pháp ngữ truyện Le Jardin des rochers (The Rock Garden) theo kinh nghiệm vừa qua của ông tại vùng Viễn Đông. Nikos cũng hoàn tất thuật bản mới cho Kapetan Mihalis và đặt tên là Mon père. Để có tiền, Nikos cũng dịch Questa sera si recita a soggetto (Đêm nay chúng ta phải ứng biến) của Luigi Pirandello (nhà văn Ý, sinh năm 1867 và mất năm 1936, một trong 3 tác giả quyết định cho nghệ thuật soạn kịch của thế kỷ thứ 20 , giải thường Nobel văn chương năm 1934) cho Royal Théater - nhà hát hoàng gia - Athènes. Sau đó, dịch Faust, phần I của Goethe. Suốt tháng 10 và tháng 11 Nikos có mặt tại Tây Ban Nha trong cuộc sâu xé tại Tây Ban Nha như một thông tín viên chiến trường; ông đã thành công khi phỏng vấn được cả hai đối thủ - Franco và Unamuno. Ngôi nhà của Nikos đã hoàn tất tại Aegina - Egine - . Đây là lần đầu tiên ông có được một biệt thự thường trực.

- 1937 : Tại Aegina - Egine - , Kazantzaki hoàn tất phần thứ 6 của tập Odyssée . Tập bút ký du hành của ông về Tây Ban Nha cũng được xuất bản.
Tháng 9 ông thực hiện một chuyến đi khắp vùng Peloponnesus. Những ấn tượng mà ông có được xuất hiện bằng các bài báo sau này đã biến thành Journey to the Morea. Ông cũng sáng tác bi kịch Melissa - cho nhà hát Royal Théâtre.

- 1938 : Sau khi hoàn tất phần thứ 8 và phần cuối dự thảo của bộ Odyssée - Odyssée , Nikos Kazantzaki giám sát việc ấn loát bộ thiên hùng ca Odyssée với những ấn bản thật lộng lãy. Công việc xuất bản Odyssée hoàn tất vào cuối tháng 12 - 1938. Nikos cũng chịu nhiều đau đớn vì bị hành hạ bởi chứng sần đỏ Eczema nổi lên mặt xuất hiện tại Vienne từ năm 1922.

- 1939 : Kazantzaki dàn ý cho một thi hùng ca mới gồm 33.333 câu thơ được gọi là Akritas. Từ tháng 7 cho đến tháng 11 ông đến Anh quốc theo lời mời của chính quyền nước này. Trong lúc tạm ngụ tại Stratford-on-Avon ông sáng tác bi kịch Julian the Apostate - Julian kẻ bội đạo.

- 1940 : Nikos viết England, tiếp tục phác thảo Akritas và duyệt lại Cha Tôi - Mon père. Cuối tháng 10 - 1940, Moussolini xâm lăng Hy Lạp đặt Nikoskazantzaki đối diện một lần nữa với sự mâu thuẫn tư tưởng của ông về chủ nghĩa quốc gia hy lạp.

- 1941 : Khi quân đội Đức Quốc Xã tràn sang lãnh thổ Hy Lạp rồi sau đó đảo Crète, Kazantzaki an ủi nỗi đau buồn của ông bằng sự làm việc không ngừng nghỉ . Ông hoàn tất phần thứ nhất của vở kịch Bouddha, duyệt lại bản dịch Dante của ông và khởi đầu viết một truyện với tựa đề trước tiên là The Saint's Life of Zorbas - Cuộc sống thánh thiện của Zorbas.

- 1942 : Bị giam lỏng tại Aegina trong suốt thời kỳ chiến tranh. Chính quyền xâm lăng Đức tại Hy Lạp chấp thuận cho ông đến Athènes mấy ngày, nơi đây Nikos Kazantzaki gặp gỡ giáo sư Yannis Kakridis; cả hai thoả thuận hợp tác với nhau cho một dịch thuật Illiad mới của Homer. Kazantzaki hoàn tất phần biên thảo thứ 1 vào tháng 9,10 sau đó dàn ý cho một truyện mới về Jésus : Christ's Memoirs - truyện ký của Christ, mầm mống để nảy sinh truyện Last Temptation of Christ - O teleutaios peirasmos - La dernière tentation - Cám dỗ cuối cùng của Chúa Cứu Thế.

- 1943 : Hăng hái làm việc bất kể đến những thiếu thốn, khó khăn gây nên bởi sự chiếm đóng của lính Đức Quốc Xã, Kazantzaki hoàn thành phần thứ hai kịch bản Bouddha, Alexis Zorbas và dịch bản Illiad. Sau đó ông tiếp tục viết một bản mới bi kịch bộ ba Prometheus của Aeschylus (nhà soạn bi kịch Hy Lạp sinh khoảng 525 mất khoảng 456 BC)- Prométhée : Couros - Ulysse và Melissa .

- 1944 : Mùa xuân và mùa hè năm này Nikos Kazantzaki viết vở kịch Capodistria và Constantine Palaiologos- Constantin Paléologue . Cùng với bi kịch bộ ba Promotheus, những vở kịch này bao trùm tính cách cổ điển Byzantine và cận đại Hy Lạp. Sau khi Đức rút ra khỏi Hy Lạp, Kazantzaki di chuyển ngay về Athènes, nơi đây ông đã được Tea Anemoyanni tiếp đãi. Ông đã chứng kiến giai đoạn của cuộc nội chiến qua Dekemvriana - những sự kiện của tháng 12.

- 1945 : Để thực hiện nguyện vọng của mình trong việc tái nhập chính trường, Nikos Kazantzaki trở thành người lãnh đạo một đảng xã hội nhỏ với mục tiêu kết hợp tất cả những nhóm tả phái nhỏ không cộng sản. Trong một cuộc bỏ phiếu vào viện hàn lâm Athènes, Nikos đã bị thất cử chỉ với duy nhất thiếu 2 phiếu thuận. Chính phủ Hy Lạp ủy thác cho ông nhiệm vụ điều tra sự thực về những hành động tàn ác của Đức Quốc Xã khi chiếm đóng tại đảo Crète.

Tháng 11-1945, Nikos Kazantzaki thành hôn với Eleni Samiou người nữ đồng hành đã từ lâu của ông và ông cũng tuyên thệ nhậm chức vụ bộ trưởng không bộ nào trong chính phủ liên hiệp của Sofoulis.

- 1946 : Sự kết hợp các thành phần dân chủ xã hội đã diễn ra, Kazantzaki từ chức bộ trưởng. Ngày 25 tháng 10, nhân dịp kỷ niện lễ độc lập hy lạp, kịch bản Capodistria của Nikos được khai diễn tại nhà hát Royal Théâtre - Athènes. Cuộc trình diễn đã gây nhiều náo động kể cả sự đe doạ đốt nhà hát của cánh cực hữu những người theo chủ nghĩa dân tộc. Hiệp hội những nhà văn hy lạp tiến cử Nikos Kazantzaki và nhà thơ Sikelianos tranh giải Nobel văn chương. Vào tháng 6, Nikos khởi sự cho một cuộc tạm trú ở nước ngoài : Tại Anh quốc Nikos cố gắng thuyết phục giới trí thức người Anh tiếp tay với ông để thành lập tổ chức "Internationale of the Spirit" nhưng lời kêu gọi của ông không được đáp ứng. Chính quyền Anh đã dành cho ông một nơi tạm trú tại Cambridge, nơi đây trong suốt mùa hè năm này, Nikos viết tác phẩm The Accent - trọng âm - thêm một tiền thân của Kapetan Mihalis sau này. Tháng 9, Nikos về Paris với tư cách là một người khách được chính quyền Pháp mời. Những điều nkiện chính trị diễn ra tại Hy Lạp không cho phép ông trở về nước. Và Alexis Zorbas - Vios kai politeia tou Alexi Zorba , sau này được chuyển dịch sang Pháp ngữ.

- 1947 : Borje Knos, một trí thức Thụy Điển và là một nhân viên trong chính phủ xứ này , phiên dịch Alexis Zorbas của Kazantzaki, sau nhiều vận động để cuối cùng Nikos được bổ nhiệm chức vụ cố vấn văn hoá Unesco. Tại cơ quan quốc tế này, Nikos phụ trách công việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc phiên dịch các tác phẩm cổ điển của thế giới trong mục tiêu bắc nhịp cầu văn hóa đặc biệt giữa Đông và Tây. Chính ông cũng phiên dịch kịch bản Julian the Apostate- Julien l’Apostat .
Alexis Zorbas được phát hành tại Paris.

1948 : Kazantzaki tiếp tục phiên dịch những kịch bản ông đã viết. Tháng 3 năm này, ông từ chức rời khỏi Unesco để cống hiến hoàn toàn cho việc sáng tác. Julian the Apostate được trình diễn tại Paris và Nikos cùng vơí vợ, Eleni dời nhà xuống vùng Antibes - miền Nam nước Pháp, tại đây ông bắt tay ngay vào việc soạn thảo Sodom and Gomorrah - Sodome et Gomorrhe.
Alexis Zorbas được xuất bản tại Anh, Hoa Kỳ và Tiệp Khắc.
Kazantzaki viết phần đầu của Christ Recrucified - Le Christ recrucifié - chúa cứu thế bị đóng đinh một lần nữa - trong vòng 3 tháng, và dành 2 tháng cho việc hoàn chỉnh tu sửa lại.

- 1949 : Ông bắt đầu cho một truyện mới, The Fratricides - tương tàn, nói về cuộc nội chiến dữ dội ở Hy Lạp. Sau đó là 2 kịch bản : Kouros - Couros và Christopher Columbus. Bệnh Eczema mặt lại tái hiện, Nikos phải đi điều dưỡng ở Vichy. Tháng 12 ông lại bắt tay viết Kapetan Mihalis.

- 1950 : Tiếp tục truyện Capetan Mihalis đến cuối tháng 6. Tháng 11, Nikos quay lại với The Last Temptation, cùng thời gian này, Zorbas và Christ Recrucified được xuất bản tại Thụy Điển.

- 1951 : Nikos Kazantzaki hoàn tất phần đầu của The Last Temptation sau đó tu chỉnh lại Constantine Palaiologos. Truyện Christ Recrucified được xuất bản tại Na Uy và Đức.

- 1952 : Thành công cũng tạo nhiều vấn đề : Nikos thấy rằng càng ngày càng phải vừa lo việc phiên dịch , vừa lo việc xuất bản tại nhiều quốc gia khác nhau thêm vào đó phiền não vì bệnh ở mặt, ông và vợ quyết định nghỉ ngơi suốt mùa hè tại Ý, nơi ông ấp ủ tình thương yêu của ông với Saint Francis của thành phố Assisi.
Một nhiễm độc nghiêm trọng nơi mắt đã bắt buộc ông phải đi điều dưỡng tại Hoà Lan, trong thời gian chờ được bình phục ông nghiên cứu về cuộc đời của Saint Francis. Trong cùng thời gian này những bộ truyện của ông tiếp tục được xuất bản tại Anh, Na Uy, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Hoà Lan, Phần Lan, Đức nhưng không có tại Hy Lạp.

- 1953 : Nikos Kazantzakis nằm điều trị tại Paris vẫn với chứng nhiễm trùng mắt (cuối cùng mắt phải của ông đã không còn sử dụng được nữa). Bác sĩ điều trị khám phá ra được bệnh rối loạn mạch bạch huyết gây ra triệu chứng nơi mặt ông đã nhiều năm. Trở lại Antibes, Kazantzaki cùng với giáo sư Kakridis hoàn chỉnh bản dịch về Illad. Nikos viết tập truyện mới - Saint Francis. Tại Hy Lạp, giáo hội chính thống giáo cố tìm ra được cớ để truy tố Kazantzaki về tội xúc phạm thần thánh nhờ vào một vài trang trong truyện Kapetan Mihalis và nguyên bộ truyện The Last Temptation mặc dù sách không xuất bản tại Hy Lạp đi chăng nữa. Zorba the Greek - Zorba người Hy lạp - xuất bản tại Nữu Ước.

- 1954 : Giáo Hoàng đặt The Last Temptation - Dernière Tentation - vào Roman Catholic Index of Forbidden Books - bảng mục lục những sách cấm đọc .

Kazantzaki gởi một điện văn cho toà thánh Vatican bằng câu : "Ad tuum, Domine, tribunal appello" (I lodge my appeal at your tribunal, Lord). Ông cũng nói câu này với giáo hội chính thống giáo (Orthodox) Hy Lạp và thêm : "You gave me your curse, holy Fathers. I give you a blessing: May your conscience be as clear as mine, and may you be as moral and religious as I am."
Mùa hè, Kazantzaki khởi sự cộng tác với Kimon Friar(**), người chuyển ngữ thiên hùng ca Odyssée sang Anh ngữ. Tháng 12 Kazantzaki tham dự buổi ra mắt lần đầu tiên của Sodom and Gomorrah - Sodome et Gomorrhe - tại Mannheim - Đức, sau đó ông nhập viện tại bệnh viện Freigurg im Breisgau. Bệnh trạng ông được chẩn đoán như bệnh mạch bạch huyết cầu.

- 1955 : Kazanzaki và Eleni nghỉ ngơi một tháng tại Lugano - Thụy Sĩ. Cũng tại đây, Nikos khởi sự viết về tự truyện tâm linh của ông ta, Report to Greco - Lettre au Gréco - Thư cho Gréco.
Tháng 8, Nikos và Eleni đến thăm Albert Schweitzer (Triết Gia, Bác Sĩ, nhà Nhân Đạo Pháp sinh năm 1975 mất năm 1965) tại Gunsbach sau đó trở về Antibes, Kazantzaki tham khảo với đạo diễn Jules Dassin về phim bản trong việc thực hiện cuốn phim Christ Recrucified. Rồi thì tác phẩm của Kazantzaki cũng được xuất hiện tại Hy Lạp : bộ tuyển kịch đầu tiên của Kazantzaki được ấn hành bởi Emmanuel Kasdaglis, Odyssée ấn bản đã được tu chính và The Last Temptation, sau một cuộc can thiệp long trọng của một "nhân vật hoàng tộc quan trọng" với chính quyền hy lạp.

- 1956 : Tháng 6, Kazantsaki được trao Giải Hoà Bình - International Peace Award - tại Vienne thủ đô Áo. Ông tiếp tục công tác với Kimon Friar. Nikos Kazantzaki mất giải thưởng Nobel vào phút chót vì Juan Ramon Jimenez (thi sĩ Tây Ban Nha). Dassin hoàn tất phim Christ Recrucified, và đạt tên là Celui qui doit mourir (He Who Must Die) - Người phải chết . Tập hợp những bài viết vẫn tiến hành; trong những bộ thu thập này được kể vào đó hai bộ kịch bản, vài bộ về những bút ký du hành, Toda-Raba cũng được chuyển ngữ từ Pháp văn sang Hy Lạp, và cả Saint Francis nữa.

- 1957 : Kazantzaki tiếp tục công việc với Kimon Friar. Trả lời một cuộc phỏng vấn dài 6 phần thực hiện bởi Pierre Sipriot phát thanh trên Radio Paris . Kazantzaki tham dự vào buổi trình diễn phim Celui qui doit mourrir tại đại hội phim ảnh quốc tế Cannes. Nhà xuất bản Plon tại Paris thoả thuận cho xuất bản bộ sách tập hợp của ông qua dịch bản Pháp ngữ.
Kazantzaki và Eleni đi Trung Quốc theo lời mời của chính quyền nước này. Vì chuyến bay trở về Âu châu phải qua Nhật Bản nên ông đã bị bắt buộc phải chủng ngừa tại Canton - Quảng Đông. Khi bay ngay vùng Bắc Cực nơi chích ngừa của ông đã bị sưng vù lên và cánh tay biến thành chứng hoại thư. Lập tức ông được đưa vào bệnh viện tại Freiburg im Breisgau - Đức. Cơn khủng hoảng đi qua. Albert Schweitzer đến ủy lạo, nhưng rồi bệnh dịch cúm Á châu đến với ông thật nhanh trong lúc ông đã thật yếu sức để có thể đối kháng được.

Nikos Kazantzaki qua đời vào ngày 26 tháng 10 năm 1957, hưởng thọ 74 tuổi.

Đưa về Athènes nhưng giáo hội chính thống giáo đã trục xuất ông ra khỏi đạo, thi hài ông lại được di chuyển về Iraklion, Crète. Tại giáo đường Agios Minas nghi lễ được cử hành trọng thể,sau đó như một đám rước vĩ đại đám đông những người Crète hay không Crète... đã tiễn đưa ông đến địa điểm mai táng nơi thành lũy Venetian cũ , phía trên cao của Iraklion . Lăng mộ nơi ông yên nghỉ không ghi khắc tên tuổi hay ngày tháng mà duy nhất chỉ một bức mộ chí với hàng chữ mà ông đã căn dặn trước khi nhắm mắt :



Den elpizo tipota. Den fovumai tipota. Eimai eleftheros.

(Tôi chẳng hy vọng gì. Tôi chẳng sợ hãi gì.Tôi tự do.)


II- TÁC PHẨM CỦA NIKOS KAZANTZAKI


Giầu, phức tạp, gắn bó và sống động. Thực vậy, Nikos Kazantzaki đã sáng tác bằng tất cả các thể loại văn chương : thơ, kịch, tiểu thuyết, du ký, sách trẻ, dịch thuật, thư tín, truyện phim...Người ta thật khó lòng để có thể kể tên một tác giả, người Hy Lạp hay không phải Hy Lạp, sáng tác ngần đó tác phẩm và vượt khỏi biên giới của quê hương mình một cách bền bỉ và phổ biến rộng rãi như Kazantzaki.

1.- Thơ :

Kazantzaki luôn luôn tự nhận là một thi sĩ. Chúng ta đừng quên rằng tác phẩm mơ mộng của ông thuộc về những năm sau cùng của ông. Vài tháng trước ngày nhắm mắt, Kazantzaki đã viết trong cuốn sổ vàng tại một nhà sách ở Antibes- Pháp (nơi ông sống từ 1948 đến 1957) :
«Thơ là những hạt muối ngăn trở thế giới này không bị thối rữa.»
Và những giây phút trước khi từ trần, Kazantzaki đã nói với các bác sĩ : «Các ông biết không, những nhà thơ không bao giờ chết, gần như không bao giờ...».

Kazantzaki đã sáng tác 3 thi tập lớn :

      1.1- L'Odyssée :
 
Một thi hùng ca vĩ đại với 33.333 câu thơ 17 âm tiết, 7 biên tập liên tiếp. Đây là tác phẩm cơ bản của Kazantzaki trong đó ông miêu tả cuộc phiêu lưu của Ulysse, hay chính cuộc phiêu lưu của ông và của những người hiện đại, bằng chuyến du hành từ Ithaque đến Bắc Cực qua ngả Sparte, Crète và Châu Phi.

     
1.2- Tertsines - tác phẩm ít người biết. Gồm 21 bài thơ đề tặng mà Kazantzaki viết để cho "những linh hồn đã nuôi dưỡng linh hồn ông ".

      
1.3 - Soneta.

2. - Tiểu luận

Ít khi được chú ý đến nhưng đây lại là một phương diện quan trọng trong toàn bộ tác phảm cuả Nikos Kazantzaki với 7 tác phầm được xuất bản :

.
La maladie du siècle - La science a-t-elle fait faillite? - Bergson - Symposium - Histoire de la littérature russe - Frédéric Nietzsche dans la philosophie du Droit et la Cité - Ascèse, Salvatores Dei. - một cuốn sách tuyệt vời nếu muốn hiểu Kazantzaki.

3.- Kịch nghệ :

Lãnh vực này được người ta biết một cách khái quát nhưng không hoàn toàn. Gồm có 20 tác phẩm phản ảnh qua những chủ đề về lịch sử, tôn giáo, triết lý và chính trị :

3.1- Chủ đề thời cổ đại :
.
Prométhée : 3 tác phẩm đó là : Couros - Ulysse và Melissa

3.2- Chủ đề Cơ Đốc giáo và byzantin

.
Christ - Nicéphore Phocas - Julien l’Apostat - Constantin Paléologue

3.3- Những chủ đề khác :

-
Jusqu’à quand ? - Fasga - Le jour luit - Comédie - Le Maître Maçon - Capodistria -Sodome et Gomorrhe - Othelo revient - Bouddha - Christophe Colomb .

4.- Tiểu thuyết :

Kazantzaki viết 11 quyển truyện gồm :
-
Âmes brisées - Le Lys et le Serpent -Toda-Raba, Moscou a crié.- Le Jardin des rochers - Vie et aventures d’Alexis Zorba. ( 2 cuốn này viết bằng tiếng Pháp ) - Le Christ recrucifié - Capétan Mihalis - Les frères ennemis - La dernière tentation - Le pauvre d’Assise - Rapport au Greco .

5.- Du ký :

Du lịch và những giấc mơ đối với Kazantzaki là chỉ nam cho cuộc sống của ông. Kazantzaki đi Phi châu, Á châu, và Â châu. Ông cũng ước ao được đến Mỹ châu nhưng chính quyền Hy Lạp đã không cấp hộ chiếu cho ông.
"Đi" với ông không có nghĩa là "tourisme đám đông". Ông phản đối sự du lịch "kỹ nghệ" làm huỷ hoại hoặc biến dạng phong cảnh cũng như làm mất "linh hồn" những sắc dân tại đó. Ông muốn biết thế giới, biết con người, văn minh, thiên nhiên...Cũng như Kazantzaki đã viết : « Hy vọng lớn của một người du lịch là tìm được ở những vùng đất xa sôi những hình ảnh phản chiếu linh hồn họ, giúp họ cứu và tự cứu. Càng đi du lịch tôi càng thấy rằng đối với tôi là một nhu cầu của sự tự do. »

Nkos Kazantzaki đã viết hàng chục bài báo hoặc phóng sự về những chuyến đi của ông , tập trung hầu hết trong 5 bộ sách : .
Ce que j’ai vu en Russie - Espagne, Italie, Egypte, Sinaï - Chine-Japon - Angleterre - Italie, Égypte, Sinaï, Jérusalem, Chypre.

6.- SÁCH CHO TUỔI TRẺ :

.
Alexandre le Grand - Dans le Palais de Minos, và một số sách giáo khoa.

7.- TRUYỆN PHIM :

Đây là phần rất ít người biết đến, gồm tất cả 9 truyện phim (sénarios), nhưng không một truyện nào được thực hiện thành phim :

-
Le foulard rouge - Saint Pacôme et Cie Mohammed - Une éclipse de soleil - Lénine - Bouddha - Don Quichotte - Décameron - Grèce éternelle -

8.- Thư tín:

Hàng trăm nghìn bức thư trao đổi giữa ông và gia đình, bè bạn, văn giới, các nhà khoa học, chính trị, giáo sĩ...qua đó khám phá được nhân cách của Kazantzaki và tính cách rộng rãi các tác phẩm của ông .

9.- Xã luận, biên khảo, nghiên cứu:

Kazantzaki đã viết hàng trăm bài xã luận hoặc nghiên cứu, đăng tải trên các tạp chí văn chương và trong bộ bách khoa toàn thư lớn Eleftheroudakis (Hy Lạp) về những nhân vật lịch sử, những nhà thông thái, những nhà bác học, văn chương khắp thế giới qua đó biểu lộ một sự hiểu biết rộng rãi của Kazantzaki.

10.- Dịch thuật bằng tiếng Hy Lạp:

Mặc dù trong địa hạt này ít người lưu ý nhưng nhờ vào kiến thức ngôn ngữ : Pháp, Anh, Đức, Ý, Catalan (Tây ban Nha) nên Kazantzaki đã chuyển ngữ toàn bộ tác phẩm cuả Jules Verne, Alphonse Daudet, William James, Nietzsche, Maeterlinck, Bergson, Machiavel, Dante, Jiménez, Pirandello, Cocteau, Hauptmann, Gœthe, Shakespeare, Platon, Homère, Dickens, etc. sang tiếng Hy Lạp.

11. - Phim đã được thực hiện phỏng theo tiểu thuyết của NIKOS KAZANTZAKI :

.
Le Christ recrucifié, "Celui qui doit mourir ", do Jules Dassin thực hiện,1957

.
Alexis Zorba,  "Zorba le Grec" , do Michael Cacoyannis thực hiện, 1964
.
La Dernière Tentation, "La dernière tentation du Christ", do Martin Scorsese thực hiện , 1988



TỪ VŨ

Pháp,ngày 06-3-2005


Nikos Kazantzaki.
Bibliographie des ouvrages traduits en français
Romans :
Alexis Zorba, trad. d'Yvonne Gauthier, en coll. avec Gisèle Prassinos et Pierre Fridas, Ed. Chêne, 1947 ; Plon, 1954, 1986.
Bilan d'une vie, Lettre au Gréco, trad. de Pierre Saunier, Plon, 1961 ; Presses Pocket, 1983.
La Dernière Tentation, trad. de Michel Saunier, Plon, 1959 ; Presses Pocket, 1982.
La Liberté ou la mort (Capétan Michalis), trad. de Gisèle Prassinos et Pierre Fridas, Plon, 1956 . 1987 . Presses Pocket, 1979.
Le Christ recrucifié, trad. de Pierre Amandry, Plon, 1955 ; 1987 ; Presses Pocket, 1977.
Le Lys et le serpent, trad. Jacqueline Moatti-Fine, Le Rocher, 1990.
Le Jardin des Rochers, Préface de Aziz Izzet, Plon, 1959 ; Le Rocher, 1991.
Le Pauvre d'Assise, trad. de Gisèle Prassinos et Pierre Fridas, Plon, 1957 ; Presses Pocket 1984.
Les Frères ennemis, trad de Pierre Aellic, Plon, 1965 ; Presses Pocket, 1978.
Toda Raba, (Moscou a crié), (écrit en français), Plon, 1962.
Essais:
Ascèse, Salvatores Dei, trad. O. Merlier, IFA, 1951 ; trad. Aziz Izzet, Plon, 1959 ; Le temps qu'il fait, 1988

Poésie épique:
L'Odyssée, trad. de Jacqueline Moatti-Fine, Plon, 1971.
Théâtre
Tome I: Melissa, Kouros, Christophe Colomb, adaptation française de Liliale Princet et Nikos Athanassiou, Plon, 1974.
Tome II : Bouddha, trad. de Jacqueline Moatti-Fine, Plon, 1982.
Mélissa, Thésée, trad. Ch. Guillemeau, Monaco, Le Rocher, 1953.
Le Maître-Maçon, trad. R. Jacquin et D. Filias, A. Die, 1994.
Voyages:
Du mont Sinaï à l'île de Vénus, trad. de Pierre Fridas et Gisèle, Prassinos, Plon, 1958.
Tome I : Chine, Japon, trad. de Liliane Princet et Nikos Athanassiou, Plon, 1971.
Tome II : Russie, trad. de Liliane Princet, Plon, 1977.
Tome III : Espagne, trad. de Mary Vriakos, Plon, 1
Livres pour les jeunes:
Dans le Palais de Minos, trad. de Jacqueline Moatti-Fine, Plon, 1984.
Entretiens:
Entretiens avec P. Sipriot, Le Rocher, 1990.
Adaptations:
Cinéma.
Le Christ recrucifié, " Celui qui doit mourir ", de Jules Dassin, 1957.
Alexis Zorba, " Zorba le Grec ", de Michael Cacoyannis, 1964.
La Dernière Tentation, " La dernière tentation du Christ ", de Martin Scorsese, 1988.
Opéra.
The Greek Passion, d'après " le Christ recrucifié ", Bohuslav Martinu,Supraphon, opéra en quatre actes, 1959, 1981

© http://vietsciences.free.fr Từ Vũ