Freire Paulo

Vietsciences- Dien Tran     28/12/2007

 

Paulo Freire (1921-1997), nhà giáo dục Brésil xóa nạn mù chữ 

I. Cuộc đời

Paulo Freire sinh năm 1921, tại Recife, một thành phố cảng ở miền Ðông Bắc xứ Ba Tây (Brésil), trong một gia đình trung lưu.  Ông học luật nhưng rất thích triết lý và môn tâm lý ngôn ngữ học.  Ông lập gia đình với bà Elza Maria Costa Olivera vào năm 1944, hai ông bà có ba gái và hai trai.   Sau khi có gia đình, ông không hành nghề luật mà làm việc cho Bộ Xã hội với chức vụ chánh sở giáo dục và văn hóa. Trong khi làm việc, ông vẫn tiếp tục theo học và đạt học vị tiến sĩ do Viện đại học Recife cấp năm 1959.  Năm sau đó ông cùng nhiều bạn hữu thành lập Phong trào Văn hóa Bình dân (Mouvement de Culture Populaire viết tắt là MCP) và năm sau tổ chức các lớp học nhằm xóa nạn mù chữ ở Natal (Ba Tây) trong chương trình "Những người đi chân đất cũng học đọc,"  và Phong trào Giáo dục căn bản (Mouvement d'Éducation de Base, dịch từ chữ Movimento de Educação de Base, viết tắt là MEB).   Qua phương pháp làm việc của ông , Paulo Freire đã có một ảnh hưởng đáng kể trong các phong trào này.

 

Bản đồ Ba Tây

            Năm 1962, Paulo Freire thành lập Sở Phát triển Văn hóa (Service d'Extension Culturel viết tắt là SEC) ngay trong Viện đại học Recife (giờ là UFPE).  Phong trào MCP đã có kinh nghiệm sử dụng phương pháp dạy học của Paulo Freire này vào tháng 5, 1961 tại trung tâm văn hóa Dona Olegarinha, ở Recife và rất nhiệt tình hỗ trợ phương pháp này.  Tại SEC, một số cộng sự viên của ông, có trình độ đại học,  đã thực tập lý thuyết căn bản của phương pháp và lấy tên "hệ thống Paulo Freire" đặt cho toàn bộ phương pháp này.  Nhiều nơi khác cũng áp dụng hệ thống giáo dục mới này, nhất là ở João Pessoa (tiểu bang Paraíba, Ba tây) và ở Angicos (tiểu bang Rio Grande do Norte, Ba Tây).

            Sự thành công vượt bực của phương pháp Paulo Freire tại Angicos đã được chính quyền nhìn nhận, và Bộ trưởng Giáo dục và Văn hóa Ba Tây, ông Paulo de Tarso Santos đã mời Paulo Freire đứng ra điều hợp "Chương trình Quốc gia xóa nạn mù chữ" ứng dụng phương pháp dạy học của ông trong hai năm 1963-64.  Năm 1964, phe quân nhân đảo chánh, và Paulo Freire, sau khi bị giam giữ một thời gian ngắn, đã phải rời nước, lưu vong sang Chí lợi (Chili, Chile).  Ông đã làm việc 5 năm ở Viện Cải tiến canh nông nước này.  Trong thời gian này, ông đã kiện toàn phương pháp "conscientization," (viết theo tiếng Anh) và đưa ra làm quốc sách cho chính phủ đảng Dân chủ Thiên chúa giáo của Chí lợi.  Quyển Pedagogy of the oppressed (Pedagogía del oprimodo = Nền giáo dục của những người bị kềm kẹp = Pédagogie des opprimés) viết vào năm 1969 (bản tiếng Anh được xuất bản năm 1970) là kết quả của những năm làm việc tại Chí lợi.  Trong thời gian này, vào năm 1968, ông có nhận làm tham vấn viên cho tổ chức UNESCO, nhưng ông không chia sẻ quan điểm về cách xóa nạn mù chữ của tổ chức này.

            Paulo Freire sang dạy ở Ðại học Harvard năm 1969, và phương pháp của ông đã được nhiều giới chức đại học cùng các nhóm dân thiểu số ở Hoa kỳ hưởng ứng.  Sau đó ông làm Giám đốc Sở giáo dục của Hội đồng các giáo hội ở Genève, áp dụng phương pháp "conscientization"  trong giáo dục cũng như trong các thay đổi xã hội.   Ông cũng tham gia nhiều công tác giáo dục ở Pháp, tuy các sách khảo cứu về giáo dục viết ở Pháp ít khi nhắc đến tên ông. 1

            Sau năm 1975, Paulo Freire cố gắng áp dụng phương pháp của ông trong các chương trình xóa nạn mù chữ ở Guinée-Bissau,  São Tomé và Principe, Nicaragua, Angola, và Mozambique.  Ðến năm 1989, khi đảng Lao động thắng cử ở Ba tây, ông chấm dứt quãng đời lưu vong, và trở về nước, làm Ủy viên giáo dục thành phố São Paulo.  Viện nghiên cứu Paulo Freire được thành lập vào năm 1991 ở São Paulo và trở thành nơi gặp gỡ của những nhà chuyên môn về giáo dục.  Ông mất năm 1997, để lại cho hậu thế một số tác phẩm về giáo dục rất có giá trị (Phụ bản 1). 

 

 

II.  Lý thuyết của Paulo Freire

a) Nền "văn hóa thầm lặng"

Paulo Freire dựa vào các quan sát của ông trên chính sách thuộc địa mà Tây ban nha và Bồ đào nha đã áp đặt tại Châu Mỹ La-tinh, để đưa ra những điểm chính trong thuyết của ông.  Cách đối xử bất công của các đại điền chủ đối với nông dân đã lưu lại nhiều vết hằn sâu đậm trong xã hội Ba tây.  Nông dân bị chà đạp và đè nén liên tục trong nhiều thế kỷ, qua bao nhiêu đời nên cuối cùng đã cúi đầu cam chịu số phận của mình và mặc nhiên công nhận sự thống trị của giai cấp giàu có.  Nông dân đã chấp nhận sống lặng lẽ với lương tri và lương tâm của người bị trị  ("conscience de dominé". 2)

            Nông dân tiêm nhiễm lần lần các huyền thoại do giai cấp thống trị tạo nên, và bị nhồi nhét mãi, mà đâm ra tin một cách tuyệt đối vào sức mạnh của giai cấp giàu có, và đưa đến việc cam chịu số phận cũng như nhìn nhận trật tự xã hội do giai cấp thống trị tạo dựng ra.   Nông dân nghèo không nhận thức được các bất công của sự bóc lột mà tự an ủi là "chuyện đương nhiên phải như thế," hay nói một cách khác "Chúa đã định như vậy." 3    Rồi nông dân trở nên thụ động, ép mình vào cái trật tự xã hội đó và mất đi sức đề kháng, không thấy được các bất công xã hội.  Họ còn cho rằng việc họ bị bóc lột, không ngóc đầu lên được, chỉ là số phận mà Thiên chúa đã dành cho họ.  Tuy là người công giáo, Paulo Freire vẫn nói một cách tách bạch điều này, và viết là nông dân chịu chấp nhận ý thức huyền bí (magical consciousness) mà không có tầm nhìn khái quát hay một tổng quan thực tế.

Under the sway of magic and myth, the oppressed (especially the peasants, who are almost submerged in nature) see their suffering, the fruit of exploitation, as the will of God--as if God was the creator of this "organised disorder."  (Freire 1970, trang 48)

Dưới ảnh hưởng của ma thuật và thần thoại, những người bị đàn áp (nhất là nông dân, lúc nào cũng đẫm mình trong thiên nhiên) thấy nỗi đau khổ của họ, kết tinh của sự bóc lột, như là ý muốn của Thiên Chúa, như Chúa chính là đấng đã tạo nên sự "mất trật tự có tổ chức này."

 

b) Bình luận về nền giáo dục theo quy ước xã hội thời đó

Một nền giáo dục đã có truyền thống thường là nền giáo dục của giai cấp thống trị.  Giai cấp này đã đặc biệt dùng giáo dục để làm công cụ gìn giữ hệ thống đã được xây dựng, và để duy trì quyền lợi cho giai cấp của họ.  Thành ra họ tạo dựng nền giáo dục này nhằm làm cho giai cấp nông dân cảm thấy rõ rệt hơn sự yếu kém về tri thức và hiểu biết của nông dân hay của những người cùng khổ.  Từ đó họ làm cho giới nông dân phải chấp nhận các hiểu biết của giới lãnh đạo và phục tùng sự chỉ huy của giai cấp thống trị.  Cho nên bất cứ chương trình giáo dục nào mà không đề cập đến các vấn đề kỳ thị chủng tộc, kỳ thị phái tính, các vấn đề khai thác và bóc lột nông dân, hay các bất công khác đều nhằm bảo vệ và duy trì tình trạng đương thời.

            Trong cách giảng dạy (giáo dục) cổ điển, sự hiểu biết được truyền từ trên xuống dưới.  Người chuyển giao sự hiểu biết (cô hay thầy giáo, người dạy học) có đầy quyền lực, là kho chứa tri thức, và là người ban bố, phân phối số vốn hiểu biết của mình cho người theo học.  Giáo dục theo lối này dựa trên căn bản xem con người là một sinh vật có thể uốn nắn được và cần được duy trì trong trạng thái "tâm thức thần linh" hay trong "tâm thức ngây thơ."

( a ) the teacher teaches and the students are taught;

( b ) the teacher knows everything and the students know nothing;

...

( j ) the teacher is the Subject of the learning process, while the pupils are mere objects.

(Freire, 1970, trang 59)

(a) nhà giáo dạy dỗ và học trò được dạy dỗ;

(b) nhà giáo biết tất cả và học trò không biết gì cả

...

(j) nhà giáo là người Chủ động trong phương thức học tập, trong khi học trò chỉ thuần là thụ động.

 

c) Nền giáo dục mới dựa trên sự khai phóng và trao trả tự do lại cho con người

Thành ra khi nền giáo dục cũ xem con người là sinh vật có thể thích ứng và uốn nắn được (men as adaptable and manageable beings - Freire 1970, trang 60),  Freire lại xem mỗi người là một bản thể tự do, có khả năng tinh tiến, đi lên, và có sức tái tạo thế giới quanh mình.  Theo Freire, việc giáo dục những người bị áp bức phải do chính họ tự khởi xướng, phát động, chứ không thể do bên ngoài áp đặt lên họ.  Chính những người bị áp bức phải nhận thức là họ có khả năng đi tìm tri thức, và có khả năng hành động để thay đổi cuộc đời và môi trường họ đang sinh sống.

            Nền giáo dục này sẽ giúp cho người học biết cách tự giải thoát mình ra khỏi tình trạng nô lệ tâm trí, và tự tạo lấy một quan niệm nhân bản và khai phóng của giáo dục.   Xóa nạn mù chữ, giúp cho những người chưa được học, biết đọc, biết viết đương nhiên trở thành một hành động chính trị cần thiết.  Vì để cho một người phải bị mù chữ là tước đoạt đi một trong những nhân quyền căn bản của người đó, và ngăn chận không cho người đó hòa nhập một cách trọn vẹn vào thế giới xung quanh. 

            Dạy cho người mù chữ biết đọc là một một bước tiến đưa đến việc hòa nhập trọn vẹn vào xã hội, một xã hội mới, công bằng và hiểu biết, một xã hội trong đó mọi thành viên đều "biết chữ".   Ðiều này rất quan trọng đối với Freire, vì khi trong xã hội có người không biết chữ, bất công sẽ nảy sinh, và mọi sinh hoạt xã hội, dù có ý hướng tốt đẹp cũng có thể trở thành áp bức đối với những người không biết chữ.  Giúp cho mọi người trong xã hội đều biết chữ là giúp cho xã hội trở nên công bằng và bình đẳng hơn, là giúp cho mọi người đều có cơ hội thăng tiến, đi lên, và có cơ hội đồng đều để đóng góp công sức trong việc xây dựng một xã hội nhân bản.  Giáo dục do đó trở thành công cụ khai phóng và trao trả lại nhân tính cho mọi người trong xã hội.

            Người phụ trách việc giáo dục trong một xã hội như thế sẽ là người điều hợp, hướng dẫn, không còn là người ban phát hay phân phối sự hiểu biết như là một ân huệ.  Chính họ, qua những quan hệ hỗ tương với người học, cũng trở thành học viên.  Trong lớp, không còn ai hơn, ai kém, không có ai chỉ huy, áp đặt hay ban bố mệnh lệnh, mà mọi người đều tham gia vào việc học, trao đổi hiểu biết để cùng đi lên.  Khi đó mọi người sẽ đạt được "ý thức (của thời) trưởng thành" (mature consciousness), biết suy nghĩ, biết phân biệt, và nhất là biết lựa chọn.  Như thế, những người trước đây bị áp bức sẽ thấy rõ các bất công xã hội, và biết rõ là họ chính là những nhân tố có khả năng phá bỏ các bất công đó và tự khai phóng để mình không còn là những người bị áp bức nữa (conscientization).  Việc học và việc dạy học sẽ mất đi tính cách ban phát cũ (có cách biệt trên dưới giữa người cho và người nhận) mà thay tính cách đó bằng sự trao đổi bình đẳng và hợp lý giữa những người ngang hàng với nhau. 

            Mahatma Gandhi cũng có những ý nghĩ tương tự khi ông giảng về thuyết bất bạo động.  Ðối với Gandhi, chánh quyền luôn luôn muốn duy trì sự ổn định xã hội (mà họ thường hiểu là duy trì sự kiểm soát của chánh quyền trên toàn bộ xã hội) vì thế mà những người bị áp bức luôn luôn bị giữ trong những vòng rào do chánh quyền đặt ra nhằm kiểm soát họ.  Do đó, muốn xóa bỏ bất công, phải tạo điều kiện để những người bị áp bức hòa nhập vào việc tự giải phóng họ.  Ðiều này chỉ có thể xảy ra khi nền giáo dục tốt đẹp nhất nghĩa là : "... the best education is practical, with understanding motivated by a determination to reform effectively."  Ray, 1994, trang 31  (nền giáo dục hay nhất vừa thực tiễn, vừa khuyến khích sự hiểu biết với quyết tâm thực hiện các thay đổi một cách có hiệu quả).   

III. Phương pháp của Paulo Freire

a) "Ðánh thức Ý thức"

Từ 1945 người ta đã áp dụng những cách thức giảng dạy đôi khi còn rời rạc, nhưng đã  được thực hành có kết quả ở thành thị cũng như thôn quê Nam Mỹ.   Paulo Freire đã hệ thống hóa và kết hợp những phương pháp này theo một thứ tự tự nhiên, và chứng tỏ là cách giảng dạy như thế là hợp lý và sẽ giúp đạt được kết quả mong muốn.  Phương pháp dạy đọc và viết để xóa nạn mù chữ của Paulo Freire đáp ứng được nhu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn của những người không biết chữ, đồng thời giúp họ nhận thức được khả năng cải thiện xã hội của chính họ, để họ ý thức được con người của họ trong sự tự do trọn vẹn.  

            Phương pháp này đòi hỏi phải tổ chức các nhóm học thành những trung tâm văn hóa, và dành cho những người theo học quyền quyết định lựa chọn những gì cần học, dựa trên nhu cầu địa phương và dựa trên thực tế của chính họ.   Nhờ đó, người học cũng như người phụ trách lớp học, đều tận dụng được kinh nghiệm sống của nhau.  Trong lịch sử giáo dục các nước, tại nhiều nơi, người ta cũng có tổ chức những nhóm văn hóa tương tự, năm 1820 ở Anh, 1887 ở Nga (Saint Petersbourg), 1900 ở Thụy điển và 1927 ở Hoa kỳ.  ( Taylor, 1993)  

            Paulo Freire đã khéo léo thay đổi và cải tiến cách thức hoạt động của các trung tâm này, và uyển chuyển áp dụng các mô hình theo nhu cầu và trình độ ở Nam Mỹ.  Ðiều quan trọng trong phương pháp của Paulo Freire là tạo điều kiện thuận lợi để người học "ý thức được" hoàn cảnh bị bóc lột của họ cùng khả năng của chính họ để tự giúp cho họ thoát ra khỏi hoàn cảnh bị bóc lột đó.

 

b) "Giải mã các chữ tạo nghĩa"

Tại các "trung tâm văn hóa" theo lối Paulo Freire, khóa học thường bắt đầu bằng vài cuộc họp mặt giữa những người học và các người phụ trách lớp, mỗi lớp như một nhóm.  Qua các buổi họp này, tất cả thành viên trong nhóm trao đổi quan điễm và nhờ đó tất cả sẽ hiểu rõ hơn nhu cầu thực tế của người học, và số vốn ngôn ngữ sẵn có của họ.  Dựa trên số vốn này,  các người phụ trách lớp học sẽ tìm ra những từ mới, các chữ tạo nghĩa, có liên quan đến các chữ mà người học đã biết dùng để làm tăng thêm ngữ vựng.   Với số ngữ vựng mới tạo được, cả nhóm văn hoá sẽ tập đọc, tập viết và tập cách làm câu, để hiểu rõ nghĩa hơn, và để biết cách cấu tạo những câu thông thường.   Những chữ tạo nghĩa sẽ được chọn để giúp cả nhóm biết rõ hơn về xã hội của họ, và giúp họ thâu nhận được được dữ kiện để đánh thức ý thức của họ.

            Các người phụ trách lớp sẽ tượng hình các chữ tạo nghĩa (dùng tranh, hình vẽ, âm bản ...) rồi đưa ra cho cả nhóm tìm cách "giải mã" các hình ảnh đó.   Việc tìm kiếm, và tìm hiểu ý nghĩa thực tế của các hình tượng trưng cho chữ tạo nghĩa giúp cả nhóm tập trao đổi ý kiến, và cho thấy khả năng sáng tạo thiên phú của mỗi người.  Thành quả đạt được là việc tạo lập không khí đối thoại tự do và cỡi mở trong nhóm,  các người phụ trách thường như là những người quản trò, đặt câu hỏi, hay lái cuộc đối thoại về đúng trọng tâm các chữ tạo nghĩa.  Các câu hỏi cũng nhằm nhắc nhở cả nhóm đi sâu hơn vào thực tế hiện tại, thấy xa hơn bề mặt của sự kiện, nghĩa là giúp cho nhóm thực hiện một sự đối thoại có suy nghĩ và có phân tách đúng đắn.  Người học sẽ cảm nhận được vì sao "người ta" đã kềm giữ họ trong sự mù chữ (để họ không thấy được mặt thật các bất công xã hội).   Họ sẽ ý thức được sự cần thiết của việc biết đọc, biết viết, và nhất là họ sẽ  ý thức được khả năng có thể cải tạo hay cải tiến xã hội của chính họ.   (Vì lẽ này mà khi phe quân nhân độc tài, độc đảng lên cầm quyền ở Ba tây, Paulo Freire đã bị bắt giam ngay).

            Phương pháp này đặc biệt ở chỗ, là theo Paulo Freire, chỉ cần "17 chữ tạo nghĩa" là có thể dạy người mù chữ biết đọc và biết viết tiếng Bồ đào nha, hay tiếng Tây ban nha.   Chỉ cần độ ba mươi  giờ đồng hồ để hướng dẫn một nhóm văn hóa từ hai mươi  đến hai mươi lăm người từ mù chữ đến biết đọc và biết viết, như trong chiến dịch xóa nạn mù chữ ở Cuba. (Brown, 1975)

            Paulo Freire dùng thí dụ chữ favela (khu nhà lá, khu nhà nghèo, tiếng Anh là slump).  Hình vẽ khu nhà nghèo, được diễn tả,  định nghĩa, và phân tách.   Ðối thoại sẽ xoay quanh vấn đề nhà ở, nước uống, sức khỏe ... Sau đó chữ tạo nghĩa được chia ra thành âm, rồi thay đổi mỗi âm bằng cách thay thế nguyên âm trong đó để làm thành một nhóm âm tương tự.   Ba âm của chữ  fa - ve - la  sẽ cho các âm   fa fe fi fo fu;   va ve vi vo vu;  la le li lo lu.   Sau đó cả nhóm học sẽ kết hợp những âm tương tự để tạo thành những chữ mới, có nghĩa, và đưa các chữ này vào cuộc đàm thoại, tập đặt câu, tập diễn đạt ý nghĩ.  (Phương pháp này tiếng Anh còn gọi là Snowballing, giống như cho một nắm tuyết lăn đi sẽ nối với tuyết khác, tăng lượng lên rất nhanh và nhiều). 4

 

IV. Các giới hạn

a) Chưa thực sự phơi trần sự bóc lột

Paulo Freire chịu ảnh hưởng tư tưởng Karl Marx khi đề nghị khai phóng những người bị áp bức bằng cách xóa nạn mù chữ.  Paulo Freire tin là có một sự áp bức nguyên thủy (oppression originelle), nên ông đã không tìm hiểu cặn kẽ sự áp bức này, mà chỉ nói theo những nhận định tổng quát và thông thường.   Thành ra trong những sách của ông, ông chỉ nói đến sự trực diện giữa những người bóc lột và những người bị bóc lột, một sự trực diện hơi đơn giản trong tình hình thế giới ngày nay.

            Ông không để ý đến những bất công khác đã có ở trong giai cấp những người bóc lột, và ở trong giai cấp những người bị bóc lột.  Mãi về gần cuối đời, ông mới nói đến sự bất công vì phái tính (nam/nữ) trong cùng một giai cấp.  Cho đến lúc đó, ông vẫn nghĩ là giai cấp bị bóc lột là thuần nhất (homogène) và những người trong giai cấp này chỉ phải chống chọi với giai cấp bóc lột để tự khai phóng.   Ông không thấy (giống như nhiều lý thuyết gia khác theo chủ nghĩa xã hội cũng không thấy) cái bản tính căn bản của con người đã không hề thay đổi, từ trước đến giờ.  Thành ra trong giai cấp cầm quyền, bóc lột cũng có thành phần bị kèn cựa, bị bóc lột, và trong giai cấp những người bị bóc lột, vẫn có những người, bằng cách này, cách nọ, áp bức và bóc lột thẳng tay người cùng giai cấp với mình.5  

            Ông hơn được các lý thuyết gia phe tả trước ông khi ông nhắc nhở những người bị áp bức phải tránh tự biến mình thành người đi áp bức sau khi khai phóng.  Ông viết "... the oppressed, instead of striving for liberation, tend themselves to become oppressors."  (Freire, 1970, trang 29)  ... những người bị áp bức, thay vì cố gắng để tự khai phóng, lại muốn biến mình thành những kẻ áp bức.

b) Một phương pháp đòi hỏi quá nhiều nơi những người phụ trách giảng dạy

Khó mà thấy được sự bình đẳng chân thật, không gượng ép trong mối liên hệ giữa người học và người phụ trách lớp hay khóa học.  Paulo Freire đòi hỏi người đi học phải ý thức được là họ thật sự bình đẳng với người phụ trách lớp học.  Ðiều này rất khó có thể xảy ra trong các xã hội vốn có sự trọng nễ người có học.  Khi người ta xóa bỏ sự trọng nễ cố hữu đó (và chỉ có thể làm được bằng cách hạ phẩm giá những người có học) thì người ta cũng xóa luôn lòng ham học của mọi người trong xã hội.

            Trong khi đó Paulo Freire lại đòi hỏi những người phụ trách các lớp, khóa học, một lý tưởng thật cao.  Theo ông

"... the task of the teacher, who is also a learner, is both joyful and rigorous.  It demands seriousness and scientific, physical, emotional, and affective preparation.  It is a task that requires that those who commit themselves to teaching develop a certain love not only of others but also of the very process implied in teaching."  (Freire, 1998a, trang 3)

(... phận sự của người dạy học, và người đó cũng là một người học, vừa vui vẻ, vừa rất chính xác.  Cần phải có một sự nghiêm chỉnh, một sự chuẩn bị vừa có tính cách khoa học, vừa bao gồm cả thể chất, cảm xúc và tình nhân ái.  Ðó là một phận sự đòi hỏi những người dấn thân  dạy học phải có được một sự yêu thương không phải chỉ dành riêng cho người khác, mà phải bao gồm đến cả phương thức ẩn tàng trong việc dạy học.)

            Paulo Freire còn muốn các sinh viên chọn khoa sư phạm phải thấu rõ chức năng của mình, một chức năng vừa có khuynh hướng xã hội, vừa có khuynh hướng chính trị.  Theo ông, nếu sinh viên chọn ngành sư phạm chỉ vì lương bổng cao, hay vì không còn ngành nào khá hơn, họ sẽ không có lý do gì để dấn thân trong việc cải tạo xã hội hay cải tiến giáo dục.  Nhưng Paulo Freire không có nói đến sự đãi ngộ thích đáng dành cho những người yêu nghề dạy học và tận tâm với chức năng của họ.  Không hiểu những người trẻ có chia sẻ quan niệm dấn thân và hầu như bất vụ lợi đó không ?

 

c. Cái khó khi đọc Paulo Freire

Phần lớn các tác phẩm của Paulo Freire được viết bằng tiếng Bồ đào nha. Những bản dịch tác phẩm của ông ra tiếng Anh hoặc tiếng Tây ban nha, rất chính xác, đầy đủ, kỹ lưỡng và rõ nghĩa.  Ðôi khi, những người dịch hiểu tác phẩm rất rõ đến độ họ có thể dịch tựa sách không theo nguyên tác mà theo ý chính của sách.  Như nguyên tác A sombra desta mangueira, theo nguyên văn phải là "Dưới bóng cây xoài này" đã được dịch là Pedagogy of the Heart có nghĩa là "Nền giáo dục của trái tim," hay là của tấm lòng.  Phần đầu tựa sách Professora Sim, Tia Não: Cartas a Quem Ousa Ensinar có nghĩa "Cô giáo, không phải là Cô, Dì"  theo tiếng Anh phải là (Professor, not Aunt: Letters to those who dare teach) thì được đổi lại là  Teachers as cultural workers  (Cô, thầy giáo như những công nhân viên  văn hóa)

            Nhưng đôi khi cách dùng chữ Anh trong các bản dịch cũng có thể gây ra hiểu lầm.  Paulo Freire xem người đi học là "subject" không phải là "object."   Theo ý của ông, subject phải được dịch và hiểu là chủ từ hay là người chủ động và chữ object là người bị động hay là người thụ động.  Subject của Paulo Freire không thể hiểu là thần dân, công dân một nước, và object không thể hiểu là vật thể.

            Ngoài ra, các thí dụ trong sách của ông viết theo tiếng Bồ đào nha, nên chỉ thích hợp khi áp dụng trong tiếng đó.  Dịch và đem qua áp dụng trong tiếng Anh, hay tiếng Việt, các thí dụ đó sẽ không còn rõ ràng, hay không tạo được hiệu quả của phương pháp giảng dạy.  Như trong thí dụ giảng những chữ cận kề nhau, Paulo Freire ghi ra cặp chữ   "tijolo" (gạch) và "tirania" (độc tài), vốn có thể ở chung trong một trang của tự điển Bồ Ðào nha, nhưng sẽ ở hai phần khác nhau (một thuộc vần đ và một, vần g)  trong tự điển Việt. 6   Trong tiếng Anh lại còn cách xa nhau hơn nữa (brick và tyranny).   Paulo Freire có thấy được những điều đó, nên đã ân cần dặn dò:

".. Donaldo, I don't want to be imported or exported.   It is impossible to export pedagogical practices without reinventing them.   Please tell your fellow American educators not to import me.   Ask them to re-create and rewrite my ideas. "(Freire, 1998a, XI)

(Donaldo, tôi không muốn người ta chỉ xuất hay nhập tư tưởng của tôi.  Không thể nào nhập các phương thức giáo dục mà không chế biến chúng lại.  Xin hãy nhắc các nhà giáo dục ở Hoa kỳ của anh là không nên chỉ du nhập các phương thức đó.  Xin họ hãy tân tạo và viết lại các tư tưởng của tôi.)

            Ngoài các điều trên, đôi lúc Paulo Freire cũng dường như đi ngược lại những gì ông giảng.   Taylor, (1993) cho biết trong thực tế, phương pháp của Paulo Freire cũng nặng về phần trang bị kiến thức cho người học, thành ra chỉ khác phần nào về mức độ đối với hệ thống giáo dục "nhồi nhét" (Banking System of education) mà Freire đã cố tình loại bỏ.

 

d)   Tính cách khả thi của phương pháp do Paulo Freire đề xướng

Khi đã ghi nhận phương pháp của Paulo Freire có ba điểm khó khăn trên, những nhà giáo dục đều đồng ý là phương pháp này rất có hiệu lực để giúp người lớn học đọc, học viết.   Paulo Freire đã nhấn mạnh đến sự tôn trọng người học và phải tận dụng những kiến thức thực tế mà  người học đã thu đạt được.   Theo ông, việc xóa nạn mù chữ phải hướng về người học, để đáp ứng nhu cầu thực tế của họ.   Khi người học thấy được là việc học này hoàn toàn nhắm vào phúc lợi của họ, họ sẽ tận lực học và không tiếc đóng góp công sức vào việc học.   Sau đó, người học sẽ có thể áp dụng ngay những gì vừa học vào đời sống hằng ngày của họ.   Họ sẽ dễ nhớ hơn, và sẽ lâu quên hơn.   Và điều người phụ trách lớp hay khóa học cần nhớ, là giữ cái căn bản thực tế, không nhắm vào những hiểu biết mông lung, phù phiếm, hay quá trừu tượng, hoặc giáo điều.

            Áp dụng phương pháp của Paulo Freire không đòi hỏi những người phụ trách lớp hay khóa học phải giữ đúng từng phần của hệ thống, hay phải theo sát từng bước một của phương pháp.  Trái lại, Paulo Freire luôn luôn nhắc nhở là phải thay đổi, phải sáng tạo để phương pháp dạy phù hợp và nhất là thích ứng với thực tế, thích hợp với môi trường của người học.  Thành ra người muốn áp dụng phương pháp của Paulo Freire phải hiểu thật rõ các nguyên tắc của phương pháp, rồi sửa đổi chi tiết để khi áp dụng đáp ứng được nhu cầu của người học.   Chính vì thế mà Paulo Freire đã ân cần căn dặn, phải biết phân biệt cách nói cho người học, như giảng (talk to the learners) và cách nói với người học, như chia sẻ (talk with the learners).  Mark Gerzon đã dựa vào lời khuyên này và đưa ra một chương trình học hoàn toàn dựa trên một phương cách hết sức bình đẳng và dân chủ.  (Gerzon, 1997)

            Ở Ba tây, Paulo Freire là người đầu tiên sử dụng triệt để các trợ huấn cụ tối tân (vào thời điểm đó) như máy phóng ảnh, máy chiếu phim, và truyền hình trong các khóa học xóa nạn mù chữ.   Ông nhìn nhận là các phương tiện đó còn quá giới hạn trong xã hội và chỉ có thể được tận dụng ở thành phố mà chưa được phổ biến rộng rãi ở thôn quê.  Ðó là điều thiệt thòi cho đa số nông dân ở vùng quê, nhất là ở những nước còn đang tấp tểnh trên đường mở mang, khi điện và các tiện nghi khác cho đời sống chưa được thực hiện rộng rãi trong cả nước.

            Cái hay của Paulo Freire là trong suốt cuộc đời, ông vẫn tìm tòi, suy xét thêm.  Ðọctác phẫm của ông theo thứ tự thời gian viết người ta thấy rõ hình thành đi lên trong suy tư của ông.   Ông vẫn chịu ảnh hưởng của Marx, nhưng ông có được cái hy vọng đẹp hơn các nhà bình luận quá khích thuộc phe tả như Giroux đã viết trong lời tựa "…Freire fashions a powerful theoretical antidote to the cynicism and despair of many left radical critics." (Freire, 1985, trang xvii)  "... Freire đã tạo được một liều thuốc giải rất công hiệu chống lại sự chua chát và vô hy vọng của những nhà phê bình cực đoan phái tả.

 

V. Thay lời kết

Paulo Freire đã đề ra một phương pháp dạy đọc và dạy viết rất hiệu quả và đã giúp nông dân thoát khỏi nạn mù chữ chỉ trong vòng ba mươi giờ đồng hồ.  Tuy ông ngừng lại ở đây và không cho biết là sau khi biết đọc rồi, người học sẽ đọc tiếp những gì, nhưng sau đó, có thể, người học sẽ ý thức được khả năng của chính họ, và nhận thức được thực trạng của họ mà tìm cách tiếp tục học và đi lên.  Họ sẽ đóng vai chủ động trong việc cải tạo xã hội, cải tiến đời sống của họ, và góp phần xây dựng một thế giới mới, thực sự tự do, dân chủ, và bình đẳng.  Ðó là sự đóng góp quý báu của ông cho nhân loại.

 

 

VI Ghi chú:

1.          Ngay như trong hai quyển Philosophie de l'éducation (2000) và Modèles et méthodes en pédagogie 1997, Giảng sư Franc Morandi đã viết về Bergson, Bourdieu, Comenius, Dewey, Foucault, Freinet, Fröebel,  Montessori, Peirce,  Popper, Rabelais, Rousseau ... và hàng trăm người có đóng góp ít nhiều vào giáo dục và sư phạm mà không hề nhắc đến Freire.

2.          Thật ra Nhất Linh đã nói lên ý nghĩa này trong Ðôi bạn.  Dũng, con ông Tuần đã nhận xét:  "Có lẽ cha mình không độc ác.  Có lẽ vì quen tay, thấy dễ tức thì cứ tức, dễ đánh thì cứ đánh."  (Văn chương Tự Lực Văn Ðoàn, trang 320)  Và còn nghiệm rằng "cha chàng dễ đánh người ta vì đã biết chắc người dưới sẽ yên lặng chịu đòn."

3.          Người Việt ngày trước có thể đã nói "Ông Trời muốn như vậy."  Các tiểu thuyết Ðồng quê (giải nhất văn chương Hội Khuyến học năm 1943), Tình quê, và Cô gái quê của Phi Vân trong những năm 1943 - 50, cũng nói lên phần nào sự thầm lặng chịu đựng của nông dân và tá điền, chỉ có thầy giáo và vài thanh niên nam nữ có học mới nhận thức được các bất công xã hội.

4.          Tiếng Việt đơn âm nên không thể làm giống như thế.  Nhưng vì cấu trúc đặc biệt của tiếng Việt, người phụ trách nhóm có thể đưa ra thí dụ ba chữ :  mua, mới, và xe.  Rồi kết hợp ba chữ này thành bốn câu đều có nghĩa: mới mua xe; mua xe mới; xe mới mua; xe mua mới.  Sau đó có thể nói về luật cấu tạo câu, vì hai câu sau này: mới xe mua; và mua mới xe không có nghĩa.  Các nguyên âm Việt lại còn giàu hơn nữa.  Chữ "A" đã có a, ă, và â, và khi thêm vào năm dấu sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng thì tổng cộng có 18 âm (các chữ o, ô và ơ cũng thế) thành ra dạy cho biết viết và biết đọc tiếng Việt có lẽ phải lâu hơn ba mươi giờ đồng hồ.   Dường như trong một bản phúc trình lâu rồi,  Hội Truyền bá Quốc ngữ có cho biết là cần khoảng ba tháng, học ba buổi một tuần, mới biết viết và biết đọc chữ Quốc ngữ, nhưng chưa tìm lại được tài liệu đó, xin chỉ ghi ra đây với tính cách thông tin để độc giả tra cứu thêm.

5.          Lê văn Siêu có nêu một thí dụ như thế khi nói về vai trò "thằng Mõ" trong làng.  "Cái loại 'bần cố nông' hay 'tam, tứ đại bần cố nông' này, cũng khôn lọt vành ra, và kinh khủng lắm khi nó biết lợi dụng cái thế hèn hạ của nó để bắt nạt kẻ khác." (trang 202) 

6 .         Tại Việt nam, ở các vùng thôn quê hẽo lánh hay ở miền thượng du, sơn cước, chắc khó đưa thí dụ gạch, ngói ... ra làm các chữ tạo nghĩa, khi chung quanh chỉ toàn là nhà tranh, vách đất, hay nhà sàn làm bằng cây ván.


Phụ bản :  Một số tác phẩm của Paulo Freire

Phần lớn các sách của ông được viết bằng tiếng Bồ đào nha (số đầu chỉ năm nguyên tác xuất bản, số sau chỉ năm được dịch ra tiếng Anh hay tiếng Tây ban nha)

 

Tựa sách

 

Educação e atualidade brasileira

 

1958/2001*

Educação como prática da liberdade

Education as a practice of freedom

1968/1970

Ação cultural para a liberdade

Cultural action for freedom

1968/1970

Pedagogía del oprimodo

Pedagogy of the oppressed

1968/1970

Extensão ou Comunicação?

Extension or communication?

1969/1973

 

The political literacy process

1970

 

Witness to liberation, in Seeing education whole

1970

Educacão como prática da liberdade

Education for critical consciousness

1973

Cartas à Guiné-Bissau

Pedagogy in process: The letters to Guinea Bissau

1977/1978

A importância do ato de ler

The importance of the act of reading

1982/1983

 

The politics of education: culture, power and liberation

1985

Educação na cidade

Pedagogy of the city

1991/1992

Pedagogía da esperança

Pedagogy of hope

1992/1993

Professora Sim, Tia Não: Cartas a Quem Ousa Ensinar

Teachers as cultural workers: Letters to those who dare teach

1993/1998a

 

Letters to Cristina: reflections on my life and work

1994/1995

Pedagogía da Autonomia

Pedagogy of freedom : ethics, democracy, and civic courage.

1997/1998b

A sombra desta mangueira

Pedagogy of the Heart 

1997

Pedagogia da indignação : Cartas Pedagogicas

 

2000/2004*

 

* Chỉ dịch ra tiếng Tây ban nha. 

 

Tài liệu trích dẫn hay tham khảo

Brown, Cynthia. 1975.  Literacy in Thirty Hours: Paulo Freire's Literacy Process in North East Brazil.   London: Writers and Readers Publishing Cooperative.

Freire, Paulo. 1998a. Teachers as cultural workers: Letters to those who dare teach (Translated by Donaldo Macedo, Dale Koike and Alexandre Oliveira). Boulder, CO: Westview Press.

---------------- 1998b.  Pedagogy of freedom : ethics, democracy, and civic courage  (Translated by Patrick Clarke) Lanham : Rowman & Littlefield Publishers, Inc.

---------------- 1989. Learning to question: A pedagogy of liberation. (Transalted by Tony Coates) New York: Continuum Press.

---------------- 1985.  The Politics of Education: Culture, Power and Liberation.  (Translated by Donaldo Macedo).  South Hadley, MA: Bergin & Garvey Publishers, Inc.

---------------- 1973. Education for critical consciousness. NewYork:  Seabury Press.

---------------- 1970.  Pedagogy of the oppressed. (Translated by Myra Bergman Ramos). New York: The Seabury Press (A Continuum Book)

Freire, Paul & Donaldo Macedo.  1990.  Literacy.  Reading the Word & the World.  South Hadley, MA: Bergin & Garvey Publishers, Inc.

Gerzon, Mark. 1997.  "Teaching Democracy By Doing It"  Educational Leadership 54:5.   Feb. 1997

Giroux, H., Freire, P. & P. McLaren. 1988. Teachers As Intellectuals: Toward a Critical Pedagogy of Learning. Critical Studies in Education. South Hadley, MA: Bergin & Garvey Publishers, Inc.  

Horton, Myles & Paulo Freire.  1990.  We Make the Road by Walking.  Philadelphia: Temple University Press.

Lê văn Siêu.  1964.  Văn minh Việt nam.  Los Alamitos, CA: Xuân Thu in lại, không đề năm.

Ray, Douglas et al.  1994.  Education for Human Rights: An International Perspective.  Paris: UNESCO, International Bureau of Education.

Schugurensky, Daniel.  (OISE/UT)   Website với rất nhiều bài về Paulo Freire:

            http://fcis.oise.utoronto.ca/~daniel_schugurensky/freire/freirebooks.html

Tài liệu của UNESCO về Paulo Freire (Pháp văn)    [http://portal.unesco.org/education/fr/ev.php-URL_ID=11819&URL_DO=DO_TOPIC&URL_SECTION=201.html]

Taylor, Paul V.  1993.  The Texts of Paulo Freire Buckingham: Open University Press.

 Dien Tran, Ph.D.

 

© http://vietsciences.net   và  http://vietsciences.free.fr Dien Tran