Jean Baptiste de La Salle(1651-1719), nhà giáo dục,
người
sáng lập Dòng Sư huynh các trường Công giáo,
Thánh bổn mạng các nhà giáo Công giáo
|
UMAEL*
|
Jean-Baptiste de La Salle (Gioan Bao ti xi ta La San) sanh ngày 30 tháng 4
năm 1651 ở thành phố Reims trong một gia đình khá
giả và quý phái đã lập nghiệp lâu đời trong vùng
Champagne này. Gioan La San theo học
trường Collège des Bons Enfants cho đến khi xong
bằng Cao học Văn chương vào năm 18 tuổi (1669).
Năm sau ông lên Paris, theo học chủng viện
Saint-Sulpice. Khi mẫu thân rồi phụ thân của
ông kế tiếp nhau qua đời, ông phải trở lại nhà chăm
sóc các em và quản trị tài sản gia đình. Ông
vẫn theo đuổi ơn kêu gọi, và trở lại học ở chủng
viện, sau khi đã lo lắng xong cho các em. Thụ
phong chức linh mục ngày 9 tháng 4 năm 1678 và hai
năm sau, ông hoàn tất học trình Tiến sĩ Thần học vào
tháng 6 năm 1680. Trong thời gian này, ông
chịu ảnh hưởng của Nicolas Roland,
một tu sĩ và một nhà thần học ở
Reims.
Theo di ngôn của Nicolas Roland, Gioan La San nhận
giúp các nữ tu dòng Chúa Giê Su Hài đồng, trong việc
giảng dạy trẻ em ở trường dòng này. Nhờ
đó, ông làm quen với các phương pháp sư phạm thời
bấy giờ, và qua sự quan sát các lớp học, ông đã thấy
các cải cách cần thiết để dạy trẻ em một cách có
hiệu quả hơn. Do đó ông có ý hướng thành lập
trường học dành cho các em trai con nhà nghèo khổ.
Thời kỳ đó ở Pháp
1, chỉ có một số
ít người sống phong lưu, nhàn hạ, còn đa số nông
dân, thợ thủ công, và dân cư ở thành thị đều thiếu
thốn và nghèo khổ. Trong hoàn cảnh này
không có nhiều trường học và số trẻ em được đi học
cũng rất ít ỏi. Thanh thiếu niên hầu như
không có tương lai. Trước thảm cảnh đó, Gioan
La San tự nguyện đem hết sức học và khả năng của
mình để giúp các trẻ em thường bị bỏ mặc bên lề cuộc
đời và không hề được dạy dỗ. Ông từ bỏ
quyền thừa kế gia tài của gia đình, bố thí tất cả
của cải đã có trong nạn đói năm 1681, và từ chức Cha
sở nhà thờ, để hoàn toàn hòa mình sống với các thành
viên trong Dòng tu mới. Dòng được gọi là Dòng
Sư huynh các trường Công giáo (Frères des Écoles
chrétiennes, thường được viết tắt là FSC) cho đến
ngày nay.
Nhưng nhiều giới chức trong đạo không hài lòng về
dòng tu mới do Gioan La San dựng nên. Họ không
thích cách thu dụng những người "thường" để đưa vào
đời sống tu đạo, và họ không mấy hài lòng khi thấy
mục tiêu của dòng là việc giáo dục và dạy dỗ
chứ không phải là thờ kính Thiên Chúa, và tôn kính
Giáo hội. Những người trong ngành giáo
dục thời đó thì không thể chấp nhận lối dạy mới do
Gioan La San đề ra. Họ lại không thể
hiểu được tại sao dòng này lại muốn dạy học mà không
thâu học phí, và cũng không màng biết là cha mẹ các
học sinh có đủ sức trả tiền hay không.
Ðây là bước đầu trong việc lập nền giáo dục
cưỡng bách và miễn phí, một trong những nhân quyền
căn bản được Liên Hiệp quốc nhìn nhận sau này.
Dần dần Dòng các Sư huynh do Gioan La San lập ra
thành hình và lớn mạnh. Cách dạy dỗ trẻ em
theo lối dùng tiếng mẹ đẻ có kết quả rất tốt, và có
ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Nhiều người
trẻ tuổi đã đến xin theo học cách dạy, cũng như
nhiều họ đạo gởi người đến để học hỏi.
Năm 1685, Gioan La San mở một nhà tập để đón nhận
tất cả những người này. Sau một hay hai năm
vừa học, vừa tập sự cách dạy, những người do các họ
đạo gởi đến sẽ quay về họ đạo và mở trường dạy theo
cách của Gioan La San, không phải vào Dòng.
Những nguời trẻ khác sẽ tùy trường hợp, xin khấn
nguyện làm Sư huynh, và sống theo luật của Dòng.
Nhà tập trở thành trường Sư phạm đầu tiên ở Âu
châu và ở cả Mỹ châu (xem phần III c)..
Gioan La San đã cùng các tu sĩ trong dòng liên tục
làm việc và mở rộng cửa trường thu nhận học sinh mọi
giới. Trong dòng chỉ có ông là linh mục, có
quyền hành lễ Mi-sa và có quyền giải tội.
Gioan La San định trao quyền điều khiển Dòng lại
cho một môn đệ, vừa là Sư huynh, vừa là linh mục nên
gởi Sư huynh
Henri L'Heureux theo học thần học ở Sorbonne.
Nhưng đến tháng 12 năm 1690,
Henri l'Heureux qua đời trước khi sắp được
thụ phong linh mục. Gioan La San xem việc này
như ý muốn của Thiên Chúa nên quyết định sẽ không có
linh mục trong Dòng Sư huynh.2
Gioan La San dời nhà Dòng lên Paris khi thấy Dòng
các Sư huynh đã được vững chắc và có cơ hội phát
triển trong công tác giáo dục trẻ em cũng như người
lớn. Tại đây, vào năm 1699, Gioan La San mở
trường dành cho người lớn ở Saint-Sulpice, học vào
ngày chủ nhật. Ngoài các môn học đọc,
viết, và đạo lý, trường còn dạy thêm toán, nhất là
hình học, hội họa và kiến trúc. Năm
1705, Gioan La San về Saint-Yon, Rouen để mở trường
nội trú trung học ở đây. Ông đã dựng thêm bên
cạnh trường này một trường kỹ thuật, dạy nghề và dạy
thương mại, và một khu vườn để dạy thêm về thực vật,
canh nông. Ðây là trường trung học đầu tiên
của Dòng, vì từ lúc đầu các Sư huynh chỉ chuyên chú
dạy trẻ em con cái các gia đình nghèo ở cấp sơ học
và tiểu học. Dường như đây cũng là trường đầu
tiên mà các Sư huynh có thâu học phí đều đặn mỗi
tháng (Reisner, 1935, trang 23) Lúc đầu ở
Reims, rồi qua Vaugirard (giờ nằm trong Paris), và
sau cùng ở Saint-Yon, Gioan La San còn mở một
nhà, gọi là Nhà Chung, hay nhà mẹ (Maison Mère) để
đào tạo các chủng sinh, là chỗ nghỉ ngơi và bồi
dưỡng khả năng sư phạm cho các Sư huynh trong dịp
hè, và cũng là nơi an dưỡng cho các Sư huynh khi về
hưu.
Cuối thế kỷ thứ 17, Gioan La San cử hai Sư huynh
sang Rome để mở trường. Một Sư huynh bị bệnh
không đi được, phải trở về Pháp. Sư huynh
Gabriel một mình sang Rome, mở trường và ra công dạy
học. Trường hoạt động liên tục trong 30 năm.
Hiện giờ Nhà Mẹ của Dòng ở tại Rome, và trở
thành trụ sở chính thức của Dòng. Các
địa phận của Dòng đều có cơ sở riêng dành làm tiểu
chủng viện và chủng viện, cùng có nhà hưu dưỡng
riêng. (Leo, 1921)
Sau đó Gioan La San trao quyền điều khiển Dòng cho
Sư huynh Barthélemy, một người vừa thông thái, vừa
đức hạnh và về sống ẩn dật tại Saint-Yon, Rouen,
hàng ngày suy gẫm, hãm mình và viết sách.
Vô hình chung Gioan La San đã thực hiện cách sống
thanh cao của những hiền triết Á đông: "công thành,
thân thoái !" Ông mất vào thứ sáu tuần
Thánh, tức ngày 7 tháng 4 năm 1719 tại Saint-Yon,
Rouen. Sáu năm sau, vào tháng 1 năm 1725, Ðức
Giáo Hoàng Benoît thứ 13 đã chính thức công nhận
Dòng Sư huynh La San. Ngày 19 tháng 2
năm 1888, Gioan La San được phong Á thánh, và được
phong Thánh vào ngày 24 tháng 5, năm 1900.
Ðến ngày 15 tháng 5 năm 1950, giáo hội nhìn nhận
Gioan La San là Quan thầy các nhà giáo dục Công giáo
vì sự đóng góp vô giá của Dòng trong việc giáo dục
trẻ em.
Khi Goan La San qua đời, Dòng các Sư huynh đã có
trường dạy học ở
Alois, Avignon, Boulogne, Calais,
Chartres, Dijon, Grenoble, Guise, Laon, Marseille,
Mende, Moulins, Paris
(trường tiểu học, trung học và trường sư phạm),
Reims, Rouen (trường kỹ thuật, trường trung
học), Saint-Denis, Troyes, Les Vans,
và Versailles.
Năm 1782, sau cuộc Cách mạng ở Pháp, các trường Dòng cũng như các trường đạo bị
cấm chỉ và Dòng bị giải tán. Nhưng đến năm 1801 , các Sư huynh đã tập họp
nhau lại, và năm sau, đã mở lại các trường ở Lyon, ở Paris, ở
Saint-Germain-en-Laye, và ở Toulouse. (Vollet, 1885) Năm 1808, chánh
phủ nhìn nhận Dòng và đặt các Sư huynh dưới quyền kiểm soát kỹ thuật dạy học của
Viện trưởng Viện Ðại học Pháp quốc 3 .
Giữa thế kỷ thứ 19, trước khi sang Việt nam, Dòng La san đã có 750 cơ sở,
hơn 1350 trường học và khoảng 275 ngàn học sinh. Ðến năm 1878,
Dòng có
9818 Sư huynh dạy trong 1064
trường trung tiểu học và 385
trường nghĩa thục. Dòng
có nhà tập (tiểu và đại chủng viện) ở
Albano (Ý), Alost (Bỉ),
Baltimore, New-York, Saint-Louis, San Francisco (Hoa kỳ), Castletown (Ái nhĩ
lan), Colombo (Tích lan), El-Biar (Algérie), Madrid (Tây ban nha),
Montréal (Canada), Quito (Equateur), Ramleh (gần Alexandrie, Ai cập),
Saint-Denis (đảo Réunion), Santiago (Chí lợi), và Vienne (Áo).
Vào thế kỷ thứ 20, Dòng Sư huynh còn có cơ sở Tu
thư, Librairie générale, viết tắt là
LiGel, tọa
lạc ỏ số 77 đường Vaugirard, Paris để soạn, in và
phát hành khắp thế giới sách giáo khoa các cấp tiểu
và trung học.
Phần tác giả được ghi chung là Par
une réunion de professeurs - do một nhóm giáo sư.
Ðến đầu thế kỷ thứ 21, Dòng La san có hơn 4100 Sư
huynh, cộng với 68 ngàn giáo chức và nhân viên hành
chánh, văn phòng, trông nom việc dạy dỗ 800 ngàn học
sinh các cấp, từ tiểu học đến đại học trong 82
quốc gia. Tại Hoa kỳ, có trường Võ bị
(Académie Militaire) ở Nữu ước, do các Sư huynh điều
khiển. Ngoài ra còn có hơn 10 triệu cựu
học sinh và sinh viên các trường La san.
4
II. Tư tưởng hướng dẫn
Vì không có
điều kiện tra cứu tận gốc các sách do Gioan La San
đã viết nên không dám nói đến lý thuyết hay tư tưởng
chính yếu làm nòng cốt cho
Dòng Sư huynh La San, mà chỉ tóm lược một số
các tư tưởng quan trọng nhất đã hướng dẫn phương
pháp dạy học trong các trường La San, và trong đời
sống các Sư huynh Dòng này. Compayré
(1901), khi viết về lý thuyết và thực hành trong
ngành giáo dục, chỉ dành cho Gioan La San vài hàng,
vì theo ông, mối quan tâm chính của Gioan La San là
việc tổ chức và điều hành trường cùng lớp học chứ
không phải là học thuyết giáo dục hay lý thuyết sư
phạm. Trước đó Compayré (1880) đã dành gần
trọn một chương để nói về phương pháp dạy học của
Gioan La San. Rất mong được sự chỉ dẫn của quý
vị độc giả biết rõ hơn lý thuyết giáo dục của
Gioan La San bổ khuyết cho sự thiếu sót của bài này.
a. Dạy cho trẻ em, vì trẻ
em, theo khả năng của chúng, dùng tiếng mẹ đẻ, và
dạy cho hiểu
Gioan La San nhắm vào việc dạy dỗ trẻ em, muốn các
em học được, nghĩa là cách dạy phải thu hút cho các
em muốn học và có hiệu quả. Vì vậy Gioan
La San tạo dựng môi trường học thích hợp, trong
không khí khuyến khích sự học, và tạo điều kiện cho
học sinh dễ học cũng như cho thày giáo dạy được dễ
dàng hơn. Lớp học của Dòng các Sư huynh khác
với lớp học bình thường thời đó, thày phải dạy
học trò có nhiều trình độ khác nhau rất xa.
Các Sư huynh sắp xếp học trò có cùng trình độ lại
thành một lớp, để tất cả các em học cùng một bài,
đọc chung một sách, trò dễ chú ý, thầy dễ theo dõi.
Thành ra trẻ em mới vào trường bắt đầu học bằng
tiếng mẹ đẻ (vernacular, langue vernaculaire) và
trong trường của các Sư huynh thời đó là tiếng Pháp.
Học trò đã quen tiếng mẹ đẻ, nên học nhanh, nhớ dễ,
và không nản như khi học tiếng La tinh, xa lạ và khó
nhớ. Quan niệm dạy cho trẻ em, vì trẻ em này
giống như quan niệm giáo dục nhằm vào trẻ em (child
centered education) mà các nhà giáo dục từ
Pestalozzi (1746-1827) đến Dewey
(1859 - 1952), đã phát triển
và thực hành trong nền giáo dục mới, đại chúng và
tân tiến.
Gioan La San cũng nhấn mạnh đến việc giúp trẻ tự
học, thầy không nên làm tất cả rồi trò chỉ cần ghi
nhớ và học thuôc lòng. Gioan La San đã
căn dặn: "Let the teacher be
careful not to lend his pupils too much help in
resolving the questions that have proposed to them."
(Thầy gíao phải hết
sức cẩn thận để không giúp đỡ cho học sinh quá mức
trong việc giải đáp các câu hỏi --hay bài toán-- đã
đặt để cho các em).
(Fitzpatrick, trang 18) Và Gioan
La san khuyến khích học sinh phải cố gắng và trì chí
trong việc tìm ra giải đáp chứ không nên ỷ
lại vào thày hay bạn. Ngay trong việc học
toán, Gioan La San đã khuyến khích thày giáo hướng
dẫn cho học trò hiểu lý luận để tự làm chứ không chỉ
làm bài mẫu rồi cho học trò ghi nhớ mà làm theo.
b. Học giáo lý
Gioan La San tin tưởng là trẻ em sau khi được khai
mở trí óc bằng cách được dạy đọc, dạy viết, chỉ có
thể trở nên người có ích cho xã hội nếu các em được
dạy thêm đạo đức làm người. Quan niệm này chắc
không xa mấy quan niệm "tiên học lễ, hậu học văn"
hay quan niệm "có học phải có hạnh" ở Việt nam ngày
trước. Vào thời đó, ở Pháp, đạo đức làm người là
theo giáo lý công giáo. Gioan La San rất chú
trọng đến việc giảng dạy giáo lý, cho trẻ em thấm
nhuần đức tin công giáo và lòng bác ái công giáo.
Sau khi đã đọc và viết thông thạo tiếng mẹ đẻ, học
trò mới học thêm chữ La tinh, đủ để theo dõi lễ
Mi-sa, ứng đáp các câu thông thường với vị chủ tế,
và hát các bài đạo ca bằng tiếng La tinh.
Trong chương trình học, mỗi ngày đều có giờ
cầu nguyện khi vào lớp và khi ra lớp, cùng nửa giờ
giáo lý, và dự lễ Mi-sa. Chủ nhật, học sinh nội
trú đi xem lễ Mi-sa, học giáo lý buổi trưa, và chầu
mình Thánh buổi chiều. Các Sư huynh là những
người dạy giáo lý cho học sinh. Thành ra thày
phải làm gương đạo đức cho học trò noi theo.
Gioan La San chỉ dẫn rành rẽ những điều các Sư huynh
phải theo, từ lời ăn, tiếng nói, đến cử chỉ và cách
cư xử trong lúc giảng dạy. Như:
He will never speak, either to
any pupil in particular or to all in general, unless
he has carefully thought about what he has to say
and considers it necessary. (Reisner, 1935,
trang 148)
Sư huynh sẽ không bao giờ
nói, dù riêng rẽ với một học sinh, hay chung cho cả
lớp, nếu chưa có suy nghĩ kỹ càng về điều sẽ nói,
hay chưa thấy cần phải nói điều đó.
c. Kỷ
luật và thi hành kỷ luật
Gioan La San nhấn mạnh đến việc
duy trì kỷ luật trong lớp để tạo không khí thuận lợi
cho việc học hỏi và tiếp thu. Ngay chính các Sư
huynh cũng làm gương trong việc giữ kỷ luật: ăn
trong im lặng, để nghe một Sư huynh đọc sách trong
bữa ăn. Gioan La San quan tâm rất nhiều đến việc
thi hành kỷ luật. Thời đó, ở Âu châu, việc dùng roi
vọt để trị học trò là chuyện thường tình, và như ở
xã hội cũ bên Á đông, thầy có quyền uy tuyệt đối,
trên cả cha (Quân, Sư, Phụ). Nhưng với Gioan La San
thì khác hẳn:
To
avoid frequent punishments, which are a source of
great disorder in a school, it is necessary to
note well that silence, restraint, and watchfulness
on the part of the teacher that establish and
maintain good order in a class, and not harshness
and blows. A constant effort must be made to act
with skill and ingenuity in order to keep the
pupils in order while making almost no use of
punishments. (Reisner, 1935, trang 169)
Ðể
tránh việc phải trừng phạt liên miên, vì đó là một
nguồn tạo nên sự lộn xộn lớn trong trường học, ta
cần phải nhớ là chính sự im lặng, sự tự chế, và sự
chăm chú của người thày giáo mới tạo ra và duy trì
được trật tự trong lớp, chứ không phải là sự khắc
nghiệt hay đánh đấm. Thày giáo phải luôn luôn cố
gắng để hành động một cách tài tình và khéo léo để
học trò giữ kỷ luật mà không cần phải dùng đến hình
phạt.
Gioan La San ghi ra sáu trường
hợp mà tác phong và hành động của thày giáo làm cho
học trò không ham thích học, cùng sáu trường hợp
trong đó trẻ em sẽ khinh lờn mà không chăm chú vào
việc học.
Gioan La San cũng
đề ra rõ ràng những phương cách thi hành kỷ luật để
việc này có tác dụng hữu hiệu nhất trong việc dạy dỗ
trẻ em. Theo Gioan La San, việc trừng phạt phải:
1.
Pure and disinterested; without personal vengeance
on the part of the teacher
2.
Charitable, that is, both given and received for the
salvation of a pupil's soul.
3.
Just
4.
Suitable to the fault being punished, both in nature
and in degree.
. .
(Reisner, 1935, trang 170 - 2).
1.
Thuần lý và vô tư; không nhằm để thày giáo trả thù
riêng tư.
2.
Nhân ái, nghĩa là chỉ đưa ra hình phạt để nhắm vào
sự cứu rỗi linh hồn học trò có lỗi.
3.
Công bằng
4.
Phù hợp với mức độ tội phạm, về đặc tính cũng như về
sự trầm trọng.
Và hình phạt phải theo các
nguyên tắc như chỉ phạt khi nào hình phạt thực sự có
hiệu quả; không được phạt một học sinh chỉ đề nhằm
răn đe các học sinh khác; ... và thày giáo không
được phạt khi đang khó chịu, giận dữ, hay mất kiên
nhẫn. Và khi phạt, chỉ được khẻ tay mà thôi. Khi
xem cách thi hành kỷ luật trong các trường công ở Âu
châu cũng như Bắc Mỹ cho đến các thập niên 1950,
1960, có nhiều trường, nhiều nhà giáo chưa được như
thế.
Compayré
(1843-1913), sau này là Viện trưởng Viện đại học
Lyon không đồng ý với việc giữ im lặng trong lớp.
Ông cho rằng việc này là một phản ứng quá mức đối
với sự mất trật tự trong lớp do vài trẻ em nghịch
ngợm gây ra. Compayré muốn lớp học có một không khí
vui tươi, có tiếng cười và một sự sinh động lành
mạnh. Compayré cũng chỉ trích việc thi hành
kỷ luật khắt khe trong các lớp, không tương ứng với lứa
tuổi của học sinh. Nhưng Compayré cũng nhìn nhận
các đóng góp hết sức quan trọng của Gioan La San như
việc khởi xướng các trường sư phạm, việc đưa các
trường kỹ thuật dạy nghề vào chương trình học phổ
thông, và việc tổ chức cách dạy đồng thời
(instruction simultanée) để nâng cao hiệu năng của
giáo dục. (Compayré, 1880, Bài XII, trang 210 đến
231) Ông còn đi xa hơn nữa khi ông nhìn nhận sự
đóng góp của Gioan La San trong việc giáo dục và
ông (1880) trách giáo hội đã thờ ơ chưa phong thánh
cho Gioan La San (giáo hội phong Á thánh cho Gioan
La San năm 1888, và phong thánh năm 1900).
d. Thích ứng với xã hội
Gioan La San quan
niệm dạy học để học sinh trở thành người tốt cho xã
hội, cho giáo hội. Ðường hướng giáo dục do đó có
tính cách nhập thế nhiều hơn, vì không phải học sinh
nào theo học cũng muốn trở thành Sư huynh hay tu
sĩ. Và muốn nhập thế thì phải hiểu nhu cầu của xã
hội đương thời. Ngay việc dạy trẻ em biết đọc và
biết viết bằng tiếng mẹ đẻ đã là một ý thức tân tiến
thời đó. Dân Pháp, nhất là giới bình dân - thợ thủ
công nghệ và nông dân - đâu có nói chuyện với nhau
bằng tiếng La tinh trong cuộc sống hàng ngày ?
Trường Dòng cũng
dạy nghề cho học sinh, giúp cho học sinh khi ra
trường có một nghề lương thiện, đủ sống. Như thế
vừa đào tạo được những công dân có ích, đóng góp
công sức cho xã hội, đồng thời làm giảm bớt sự nghèo
khổ, và xóa bỏ những cơ hội có thể khiến con người
trở nên vô dụng hay có hại cho bản thân, cho cộng
đồng và xã hội. Tư tưởng này dựa trên tinh thần
nhập thế và bác ái công giáo, khác với một số dòng
tu thời trước, chỉ hoàn toàn mưu cầu sự cứu rỗi bằng
cách đọc kinh và suy ngẫm, cùng chiêm ngưỡng Thiên
Chúa trong tu viện.
III. Phương
pháp
a. Dùng tiếng
mẹ đẻ dạy đọc và viết
Phương pháp
quan trọng nhất là dùng tiếng mẹ đẻ để dạy trẻ em
đọc và viết. Cho đến thời đó, các lớp tiểu học vẫn
dùng sách viết bằng tiếng La Tinh để dạy trẻ em tập
đọc và tập viết. Gioan La San đã nhận xét:
The teaching of the art of reading,
in primary and elementary schools, through the
vernacular, is of greater and wider utility than by
Latin texts. The vernacular is more easily taught
to children, who already possess some knowledge of
it, than the Latin of which they are wholly
ignorant. [Br. Contantius, Annales de l'Institut,
I (1883), p. 140].
Việc dạy đọc trong các trường sơ học
và tiểu học bằng tiếng mẹ đẻ có một ích lợi to và
rộng hơn so với cách dạy các bài đọc bằng chữ La
Tinh. Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ em rất dễ vì chúng đã
quen phần nào với tiếng này, trong khi chúng hoàn
toàn không biết gì về tiếng La Tinh.
Gioan La San đã mở đường cho việc dùng tiếng mẹ đẻ
để dạy cho trẻ em. Dùng tiếng mẹ đẻ giúp trẻ em tập
đọc và tập viết dễ và nhanh hơn, giúp các em có thể
tiếp tục tìm hiểu thêm sau khi đã rời nhà trường.
Khi các em về nhà, các em có thể đọc sách cho cha,
mẹ, anh, chị, em hay những người lối xóm nghe và mọi
người đều có thể hiểu. Hơn thế, khi các em đã đọc
thông tiếng mẹ đẻ thì chỉ cần thêm một thời gian
ngắn là các em có thể đọc được tiếng La Tinh. Căn
bản hiểu biết tiếng mẹ đẻ sẽ giúp các em dễ học hơn
và nhớ được nhiều hơn các điều đã học, hơn hẳn cách
dạy bằng tiếng La Tinh. Người Việt nam chắc cũng có
kinh nghiệm về việc học như thế, khi so việc học chữ
quốc ngữ với việc phải học ngay từ đầu với các cuốn
Nhất thiên tự, Ấu học ngũ ngôn thi, hay Tam tự kinh
bằng chữ Nho.
b. Phương pháp
dạy đồng thời
Phương pháp thứ
hai là áp dụng đứng đắn cách dạy học đồng thời
"Méthode simultanée." Cách này đã được Comenius
5 đề xướng. Comenius đòi hỏi thày giáo
phải dạy "semel et omnes simul," (tất cả như
nhau và cùng một lúc). Giám mục de Nesmond
(1629-1715) đã dùng phương pháp này. Trong Nội quy
dành cho các nữ tu chuyên dạy trẻ em học, thuộc dòng
Hội Ðức Bà ở Reims, thánh Peter Fourier (1565-1640)
đã nhắc nhở, cần phải sắp xếp để trong mỗi lớp học,
trẻ em học cùng một nữ tu phải dùng cùng một loại
sách tập đọc, để chỉ cần một em đọc bài cho cô giáo
nghe, là các em khác có thể nhẫm đọc theo và cùng
học với nhau. Trước đó, một thầy hay cô giáo
thường phải dạy một nhóm học trò có nhiều trình độ
khác nhau. Trong một lớp như thế, các trò có
trình độ cao, chăm sóc và chỉ bảo các trò có trình
độ thấp hơn. Thầy hay cô tùy theo trình độ của
từng trò mà dạy đọc, hay cho bài học. Lớp đông học
trò, sự chăm sóc và theo dõi sẽ không có hiệu quả
lắm, và kết quả thường là học trò phải mất nhiều thì
giờ hơn để đạt một trình độ kha khá.
6
Các giáo sĩ Dòng Tên (Jésuites) chia mỗi lớp học
thành từng nhóm, mỗi nhóm có trình độ gần như nhau,
và có một học trò khá hơn gọi là decurion (như
trưởng toán) dẫn dắt. Các học trò trong nhóm trả
bài với decurion, trong khi thầy giáo dạy riêng một
vài học trò hay hỏi bài một vài em khác. Gần cuối
ngày học, thày giảng bài chung cho cả lớp.
Gioan La San đi xa hơn trong cách áp dụng phương
pháp đồng thời này. Năm 1682 trong các trường của
Dòng, các Sư huynh đã áp dụng phương pháp đồng thời
ở mọi lớp và trong mọi môn học, từ học đánh vần, rồi
tập đọc đến học giáo lý, học toán trong chương trình
sơ học. Gioan La San cũng đặt ít nhất là hai Sư
huynh trông nom một trường học, chứ không chấp nhận
chỉ giao cho một Sư huynh dạy một trường có nhiều
trình độ khác nhau. Ông đã ghi rất rõ các nguyên
tắc của phương pháp mà các Sư huynh áp dụng khi
giảng dạy:
The Brothers shall pay special
attention to three things in class: (1) During the
lessons, to correct every word that the pupil who is
reading pronounces badly; (2) To make all who read
in the same lesson to follow therein; (3) To have
silence strictly observed in the school.
(Br. Contantius, UMAEL, De la Salle, Common
Rules)
Các Sư huynh phải đặc biệt chú tâm
đến ba điều này trong lớp: (1) Khi một người học trò
đọc bài, phải sửa ngay những chữ mà trò này đọc sai;
(2) Phải để tất cả các trò
đọc cùng bài này theo dõi; (3) Tất cả phải giữ sự
yên lặng trong lớp.
Như thế tất cả
học trò trong lớp cùng học chung một bài, chăm chú
theo dõi một người đọc bài, và thày giáo sửa ngay
các chỗ đọc sai cho cả lớp cùng nhận thấy. Sau
này, phương pháp trên còn được khai triển để bao gồm
các môn học khác.
c. Mở trường sư phạm
Muốn phổ biến hai phương pháp
trên Gioan La San đã lập ra trường đào tạo giáo viên
ở Reims vào năm 1685. Ðây là trường sư phạm đầu
tiên và Gioan La San được xem như là người sáng lập
ra các trường Sư phạm 7. Gioan La San
cho rằng dạy học phải có phương pháp và ông đã nêu
ra phương pháp dạy đồng thời và phải bắt đầu dạy đọc
cùng dạy viết với tiếng mẹ đẻ. Nhưng như thế chưa
đủ. Ông nêu ra những lề luật về dạy học trong quyển
Conduite des écoles chrétiennes,
một bản in ở Avignon
đề năm 1724
8.
Trường Sư phạm do
chính Gioan La San dạy lý thuyết và phương pháp.
Trường mở ngay bên cạnh trường tiểu học để các giáo
sinh thực tập luôn, do đó có cơ hội áp dụng lý
thuyết và phương pháp đã học. Gioan La San còn đi
xa hơn, vì sau khi học ở trường Sư phạm một hay hai
năm, giáo sinh được rời trường, đi dạy ở một trường
Dòng, nếu là Sư huynh, và ở trường của họ đạo, nếu
do họ đạo gởi đến. Nhưng sau khi đi dạy một vài
năm, các Sư huynh hay thày giáo đều được trở lại lại
trường Sư phạm để bồi dưỡng khả năng và học thêm
những điều mới. Các trường Sư phạm thời nay ở Âu
châu cũng như ở Bắc Mỹ đều có chương trình đào tạo
căn bản, và các chương trình bồi dưỡng, tinh tiến
giống như thế.
Ban đầu, Dòng các
Sư huynh được thành lập để dạy trẻ em bậc sơ học và
tiểu học, nhưng để học trò có thêm khả năng hầu theo
học trường sư phạm, Gioan La San đã mở thêm trường ở
Saint-Yon (năm 1705) và ở Passy sau đó, dạy bậc
trung học. Ðó cũng là một sự cải tiến xã hội
(social reform), giúp con em nhà nghèo thoát ra khỏi
sự nghèo túng truyền kiếp bằng cách theo học được
làm một nghề tự do.
Chúng tôi chưa có
đủ tài liệu về việc đào tạo các Sư huynh, từ việc
thâu nhận những học sinh có ơn kêu gọi, đến việc thử
thách, dạy quy luật Dòng cùng với chương trình trung
học trong tiểu chủng viện, và việc học cùng thực
hành phương pháp sư phạm trong đại chủng viện. Phần
này chắc phải nhờ các Sư huynh đã có thời kỳ học ở
Nha Trang chỉ dẫn giúp.
Ðồng thời với việc
mở trường sư phạm, Gioan La San còn chú trọng đến
việc mở trường kỹ thuật dạy nghề (école
technique). Compayré (1885) cho biết Gioan La San
đã mở trường trung học đệ nhất cấp ở Saint-Yon dạy
cho thiếu niên học tất cả những gì họ có thể học
được, ngoại trừ La-tinh. Họ học để ra làm việc
trong các ngành thương mại, kỹ nghệ, và hành chánh.
Gioan La San cũng mở các trường cải huấn vị thành
niên phạm pháp (maisons de redressement), giúp các
thanh thiếu niên trở lại cuộc sống bình thường và
trở nên người có ích cho xã hội.
IV. Dòng Sư huynh La San ở
Việt Nam
a. Lược sử
(1) Thời kỳ mở đầu
Năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh
miền Ðông, Nam Kỳ và bắt đầu thiết lập chế đô thuộc
địa ở trên phần đất này. Chánh quyền Pháp rất cần
thông ngôn để làm trung gian giữa các quan cai trị
người Pháp và dân thuộc địa. Muốn có người đi học
làm thông ngôn, chánh quyền Pháp cần mở trường để
dạy tiếng Pháp và tiếng Việt (chữ quốc ngữ) cho trẻ
em, để chuẩn bị một đội ngũ có thể vào học trường
thông ngôn. Vì thế, khoảng cuối năm 1865 có sáu Sư
huynh rời Toulon sang Việt Nam.
Khi đến Sài gòn vào đầu năm 1866
các Sư huynh đã bắt tay ngay vào việc điều khiển
trường Trung học Adran (Collège d'Adran)
9
vốn đã được các linh mục thuộc Hội Thừa sai mở ở
Sài gòn từ năm 1861. Mọi chi phí ăn ở, giảng dạy
(trường sở, tập sách và trợ huấn cụ) của các Sư
huynh và học sinh đều do Hội Thừa sai đài thọ. (Xin
xem Nguyễn văn Trung để biết thêm vì sao Pháp dạy
chữ quốc ngữ).
Vì dạy tiếng Việt
(chữ quốc ngữ) mà không dạy chữ nho nên việc dạy học
của các Sư huynh có kết quả rất tốt. Nhiều nơi như
Chợ Lớn, Mỹ tho đã xin mở trường vào năm 1867, rồi
Vĩnh Long và Sóc trăng, vào năm 1869. Chánh quyền
Pháp ở thuộc địa đã tài trợ phần nào các trường mới
mở và cấp học bổng cho học sinh. Nhưng đến năm
1879, chánh quyền ở Pháp thay đổi chánh sách với các
trường tư. Chánh quyền thuộc địa ngưng cấp học
bổng và không tài trợ nữa. Trường Adran phải đóng
cửa vào khoảng 1887.
Vào năm 1873, linh
mục Kerlan có mở một trường nghĩa thục dạy các trẻ
bị bỏ rơi, trong số đó có nhiều trẻ lai. Trường
được gọi theo tên Giám mục Taberd, giám mục địa phận
Nam Việt từ 1830 đến 1840. Khi trường Adran đóng
cửa, cha mẹ học sinh trường này đem con đến theo học
trường Taberd. Linh mục Kerlan thấy không đủ sức
lo cho những học trò mới liền mời các Sư huynh Dòng
La San trở qua giúp ông. Năm 1889 có chín Sư huynh
từ Marseille qua. Năm sau đó, các Sư huynh tiếp
nhận trường Taberd, lúc đó có khoảng 160 học sinh mà
một nửa ở nội trú. Số học trò theo học tăng
nhanh, nên năm 1891 có thêm năm Sư huynh theo qua,
mở thêm một trường nghĩa thục nằm ngay cạnh trường
Taberd. Các Sư huynh lại mở thêm một chi nhánh ở
Vũng tàu. Do sự sắp xếp của linh mục Kerlan, Hội
Thừa sai gánh chịu trách nhiệm tài chánh đối với
những trường do các Sư huynh điều hành và giảng
dạy.
Năm 1894, hai Sư
huynh ra Hà nội mở trường. Số học sinh tăng lên
rất nhanh. Giám mục Hà nội là Gentreau phải mua một
thửa đất rộng hơn để xây cất trường mới. Trường
được khánh thành năm 1897, có 400 học sinh, và được
đặt tên là Trường Puginier, tên vị Giám mục tiền
nhiệm. Trước đó, vào tháng 1 năm 1896, các Sư huynh
ở Ðông Dương được tách ra khỏi Tỉnh Dòng Ấn độ để
thành lập Tỉnh Dòng Sài gòn.10 Năm
1897, trường Taberd được mở rộng thêm. Năm 1898,
Dòng mở trường đào tạo thày giáo ở Thủ Ðức, cạnh
tiểu chủng viện đã được mở năm trước đó nhằm đào tạo
các Sư huynh tương lai cho Dòng.
(2) Thời kỳ khuếch trương và
củng cố
Ðến thời điểm này,
Dòng La San ở Việt nam đã có sáu trường,
76 Sư huynh,
17 người tập sự học ở nhà tập sư phạm, và
6 chủng sinh.
Chánh quyền Pháp ở Ðông Dương đã ngưng
yểm
trợ các nhà trường và không tài trợ cho Dòng nữa.
Tuy thế, các Sư huynh đã không ngừng nghỉ, lại phát
triển các công tác giảng dạy của Dòng.
Năm 1904, mở
trường Pellerin (sau này gọi
là trường Bình Linh) ở Huế;
năm 1906, trường
St.
Joseph (Thánh Giu se) ở Hải
phòng và trường Dòng ở
Battambang (Cao mên);
năm 1908, mở trường
St. Joseph (Thánh Giu
se) ở Mỹ tho;
năm
1911, mở trường
Miche ngay trong thủ đô Nam vang của Cao
mên.
Năm 1924, mở trường
Thomas d'Aquin
ở Nam định;
1932,
trường Thánh Louis ở Phát Diệm
và trường Gagelin ở Bình Ðịnh.
Ðến năm 1933 lập ra Nhà tập
(gồm tiểu chủng viện và chủng viện) ở Nha trang, tọa
lạc trên đồi La San, hết sức yên tĩnh.
Năm
1934, lập ra "nhà tập sự" (probatorium)
ở Bùi Chu và
năm
1941, thành lập trường
Adran ngay bên rừng Ái ân, Ðà lạt. Ngoài ra
còn trường La San Ðức Minh ở Tân Ðịnh, trường La San
Kỹ thuật ở Ðà lạt, và trường Bá Ninh (tên Á thánh
Bénilde) ở Nha trang không rõ là được mở vào những
năm nào. Riêng trường Thánh François Xavier (Phan
xi cô Xa viê) ở Sóc trăng, không rõ có phải đã được
mở từ năm 1869 không.
Vào năm 1955, tất
cả các trường La San ở miền Bắc được chuyển vào Nam,
học sinh các trường này tùy vị trí định cư mà theo
học các trường đang có trong Nam. Riêng học sinh
các trường Puginier ở Hà nội, trường Thánh Giu se ở
Hải phòng được theo học ở trường Taberd, Saigòn.
Năm 1956, mở trường
La San Kim Phước ở Kontum;
năm 1957, trường
La San Bình Lợi ở Qui nhơn;
1958, La
San Ban mê thuột. La San Nghĩa Thục ở góc
đường Nguyễn Thông và Yên Ðỗ, Sài gòn dường như cũng
được mở vào năm này. Trường này thâu học phí rất
hạ, dành cho trẻ em nghèo. Chi phí trường được các
Sư huynh trường Taberd dùng học phí thu ở Taberd,
giúp đỡ. Tại trường La San Nghĩa thục cũng có các
lớp tối, do Ðoàn Thánh mẫu Sinh Viên trường Taberd
cắt cử các sinh viên năm thứ ba các trường Ðại học ở
Sàigòn đảm trách việc giảng dạy. Cũng giống như La
San Nghĩa thục là trường La San Chánh Hưng và các
trường thâu học phí thật nhẹ như Xóm
Bóng ở Nha trang, Tuk Lak ở Nam Vang,
và Phú Vang ở Huế.
Ðến cuối thập niên 1960,
vì chiến tranh, thiếu thày giáo, trường Taberd và
một số trường khác phải nhờ các nữ giáo sư có Cử
nhân giáo khoa 11 hay đã được Bộ Giáo dục
công nhận, đảm nhận việc giảng dạy trong nhiều lớp
học.
Các trường La San
không ngừng phát triển, cùng nâng cao phẩm chất đào
tạo.
Vào đầu năm 1975, Dòng La San ở Việt nam đã có
300 Sư huynh, và khoảng 15 chủng sinh. Ngoài các
trường học, Dòng còn có Trang trại Mai thôn ở bên
kia cầu sắt Thanh Ða, để các Sư huynh lớn tuổi về
hưu dưỡng ở đây, và cũng là nơi để các Hội đoàn cấm
phòng. Các Sư huynh điều khiển 23 trường gồm từ
tiểu học đến trung học và kỹ thuật, có trường còn có
nội trú, và một trung tâm dạy trẻ em mù cùng một
trường đào tạo giáo chức. Học sinh phần lớn là
người Việt cùng một số thuôc các sắc dân thiểu
số. Trong các trường do nhà Dòng quản lý, học sinh
ngoài giờ học văn hóa và thể dục, còn tham gia các
hoạt động Công giáo Tiến hành (Action catholique),
qua các đoàn thể như Thanh Sinh Công (JEC), Hiệp hội
Thánh mẫu ở cấp trung học, Hùng tâm và Nghĩa sĩ Chúa
Hài đồng ở cấp tiểu học.
Từ 1961, Hiệp hội Thánh
mẫu Taberd có thêm Ðoàn Thánh Mẫu Sinh viên (do SH
Adrien tổ chức), tham gia hoạt động trong khuôn khổ
Công giáo Tiến hành với Tổng hội Sinh viên Công giáo
Sài gòn (dưới sự hướng dẫn của Linh mục Nguyễn văn
Lập).
Trong những năm đầu thập niên 1970, SH
Théophile đưa học sinh Taberd các lớp 9 và 10, hằng
tuần đi thăm viếng các khu lao động nghèo, hớt tóc
cho các em nhỏ và phát thuốc cho những người đến
khám bệnh ở những trạm chẩn bệnh miễn phí như ở La
San Chánh Hưng (theo toa các bác sĩ và các sinh viên
y khoa). Sư huynh Vincent phụ trách dạy các học
sinh lớp 9 và 10, một số nghề như chụp hình, rửa
ảnh, sửa radio ...
(3) Tình trạng các trường
học công và tư ở Việt Nam trong thời gian này
Ðến đây xin được
nói sơ qua về các trường học ở Việt Nam thời đó.
Trong suốt thời gian này, xã hội Việt nam trải qua
nhiều thay đổi và xáo trộn, nhưng việc học vẫn được
thực hiện trong chiều hướng thuận lợi cho đại đa số
người Việt. Trong những năm giữa hai Thế chiến, đã
có rất nhiều trường Tiểu học và Trung học trên hầu
hết ba miền Nam, Trung, và Bắc. Sau Ðại chiến thứ
Hai, các trường tiếp tục sinh hoạt, và hầu hết ở các
tỉnh và thành phố, đều có những trường công lập cũng
như tư thục với đội ngũ giáo chức tận tâm dạy dỗ, và
học trò lễ phép, siêng học trong tinh thần kỷ luật
cao.
Tại Sài gòn đã có
các trường công lập danh tiếng như Pétrus Ký dành
cho nam sinh, Gia Long, dành cho nữ sinh, còn có các
trường tư thục Chấn Thanh, Lê Bá Cang, Vương gia Cần
... dạy nhiều về chương trình Việt. Các trường dạy
chương trình Pháp như Chasseloup-Laubat (sau đổi tên
là Jean Jacques Rousseau, sau cùng là Lê Quý Ðôn),
Marie-Curie cùng Colette và Saint-Exupéry đều do
chính phủ Pháp đài thọ mọi chi phí. Ngoài hai
trường La San đã ghi ở trên, còn có các trường
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis, Regina Mundi,
Thiên Phước ... dành cho nữ sinh, thuộc nhóm các
trường Công giáo. Trường Nguyễn Bá Tòng dạy cả nam
lẫn nữ do giáo hội Công giáo điều khiển. Lyceum
Cửu
Long và Les Lauriers là hai tư thục dạy chương trình
Pháp. Ở gần trường Pétrus Ký có trường Bác Ái
(Collège Fraternité) dạy chương trình Pháp và Việt
cho học sinh phần đông là con em người Hoa. Các tư
thục Huỳnh Khương Ninh, Huỳnh thị Ngà dạy cả nam lẫn
nữ. Hai trường Nguyễn Trường Tộ (trung học đệ nhất
cấp) và Cao Thắng (trung học đệ nhị cấp) là trường
công lập kỹ thuật.
Mỹ tho có trường
Nguyễn Ðình
Chiểu
Cần Thơ có trường
Phan Thanh Giản là những
trường công lập rất có uy tín được lập từ lâu.
Sau
1955, hai trường công lập danh tiếng ở Hà nội là Chu
văn An (nam sinh) và Trưng vương (nữ sinh) dời vào
Sài gòn. Gia định có hai trường công Hồ ngọc Cẩn
(nam sinh) và Lê văn Duyệt (nữ sinh), học sinh xuất
sắc không thua gì các trường công lập lớn ở Sài gòn
và có trường Don Bosco dạy nghề cho thanh thiếu niên
nghèo.
Trường
Võ Tánh ở Nha Trang, hai trường
Quốc Học và Ðồng Khánh ở Huế, cùng với trường
Sư
phạm Qui nhơn đều là những trường có tiếng dạy
giỏi.
Ở Ðà lạt có
Lycée Yersin của Pháp, Couvent
des Oiseaux dạy nữ sinh do các nữ tu công giáo,
ngoài các trường Dòng La San ghi trước.
Hai
trường
Bưởi và Albert Sarrault còn ở lại Hà nội sau 1955.
Tại Sàigòn về sau này còn có trường Bồ Ðề là trường
do Phật giáo điều hành. Ngoài ra còn có các trường
dạy trẻ em bị khuyết tật, như trường Hoàng Thụy Năm
(dạy trẻ em bị mù), trường câm điếc ở Lái thiêu.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không thể đề
cập đến các trường đại học ở Việt nam. Tóm lại, cần
ghi nhận là trong thời gian này, sinh hoạt giáo dục
ở Việt nam rất phong phú, và thầy hay, trò giỏi, ở
thành phố, ở vùng ven biển, hay đồng bằng, đâu đâu
cũng có.
(4) Sau 1975
Sau 1975, các
trường bị trưng thu, biến thành trường công, do
chánh phủ quản lý và bổ nhiệm người dạy. Trừ năm
hay sáu Sư huynh còn được lưu dụng, tất cả các Sư
huynh khác phải rời trường, nơi đã được các vị dày
công xây dựng và vun quén. Các trường do chánh phủ
quản chế, và bổ nhiệm giáo chức, thu nhận học sinh
nam và nữ. Hoạt động của các Sư huynh trong Dòng bị
hạn chế rất nhiều. Cơ sở chỉ còn Nhà Mai thôn ở
Thanh Ða. Một số Sư huynh rời nước, ra ngoài, tiếp
tục công việc giảng dạy ở Nouvelle Calédonie, Thái
lan, Pháp, và Hoa kỳ ... Những Sư huynh ở lại chăm
sóc lẫn nhau và tiếp tục, làm tất cả những gì làm
được theo lời nguyện, trong hoàn cảnh khó khăn. Và
Sư huynh, không quên lời nguyện, đã làm được rất
nhiều việc, như dạy nghề, kèm dạy toán, đồng thời
dạy giáo lý. Khi tình hình Ðổi Mới có hơi sáng sủa
một chút, Sư huynh Désiré đã bôn ba các nơi gây
quỹ, đem tiền về mở trường dạy trẻ em nghèo ở Cái
Nhum, và tiếp tục lan ra các nơi khác.
b. Áp dụng phương pháp dạy học
của Dòng
Các trường Dòng La San ở Việt
Nam áp dụng đứng đắn lý thuyết do Gioan La San lập
ra..
(1) kỷ luật và thi hành
kỷ luật
Trường học giữ
kỷ luật nghiêm và minh, mọi quy luật được ghi ra rõ
ràng và thường được nhắc nhở luôn. Ðến giờ vào lớp,
học sinh xếp hàng đôi rất trật tự ở ngoài sân, lớp
nào theo lớp đó, rồi tuần tự theo nhau đi vào lớp,
khi di chuyển không có nói chuyện. Vào đến lớp, học
sinh đứng vào chỗ, đọc kinh xong, có lệnh của Sư
huynh dạy, mới ngồi xuống. Trong lớp giữ trật tự,
ngồi đâu, yên đó, làm bài trong yên lặng, và giữ im
lặng khi có học sinh đọc bài cho cả lớp, hoặc nghe
theo Sư huynh hoặc thày hay cô giáo đọc rồi lập lại
chung với nhau khi học ngoại ngữ. Ðến giờ ra chơi
có chuông báo hiệu. Học trò đứng lên, sắp hàng rồi
đi ra lớp một cách có trật tự, đến sân chơi mới tan
hàng, chơi đùa với nhau. Nhờ vào sự duy trì kỷ
luật
mà nhà trường tạo được không khí học tập chín chắn,
học sinh biết rõ những gì trông đợi nơi mình, ra sức
học hành, và hưởng điều kiện thích hợp cho việc
học. Trong mhững trường khi còn có nội trú, học
sinh nội trú cũng theo kỷ luật hợp với lứa tuổi và
hợp với trình độ học. Giờ ăn, giờ ngủ, giờ học được
sắp xếp rất quy củ. Mỗi tuần có ngày thu quần áo
giặt, có sáng thứ năm đi lễ mi-sa, tối thứ sáu chầu
Thánh thể (hay chầu phép lành), và cuối tuần về thăm
nhà hay ra phố chơi. Tối chủ nhật có chiếu bóng.
Hình phạt ở các lớp
trường Taberd, nhẹ như làm ồn ào trong lớp hay lo
ra, hoặc không thuộc bài thường bị bắt đứng xây mặt
vào một góc, hay bị chép phạt. Nặng hơn như tập
sách để dơ, làm bài quấy quá mà không sửa đổi sau
khi bị la rầy vài lần sẽ bị cấm túc, không được ở
nhà nghỉ mà phải vào trường buổi chiều thứ bảy.
Sau khi bị cấm túc ba lần, sẽ bị khiển trách công
khai trước ban, như tiểu học, trung học đệ nhất cấp
... Nặng nhất là bị đuổi học, nhưng trong khoảng
hơn mười năm từ 1949 đến 1960, chỉ thấy có hai
trường hợp đuổi học mà thôi. Việc thi hành kỷ
luật
dường như nặng về răn dạy chứ không có tánh cách
nghiêm khắc.
(2) Trí , đức, và thể dục
Các Sư huynh chú
trọng đến cả ba phần trí dục, đức dục và thể dục.
Lớp học khang trang, sách học đầy đủ và cập nhật
theo chương trình, Pháp cũng như Việt. Tập học
được bao theo một màu riêng rẽ cho từng môn học, và
điều này được giữ cho đến hết bậc trung học đệ nhất
cấp. Hàng ngày đều có giờ giáo lý, và khi lên đệ
nhị cấp, còn được giảng dạy cách đối xử khi vào đời,
khi lập gia đình, trong tinh thần công giáo.
Các trường của Dòng
đều có sân bóng chuyền và bóng rổ, và mỗi lớp đều có
đầy đủ banh cho hai môn thể thao này. Khi nhỏ, có
chơi trò dành banh trong vài năm, về sau này, có dịp
ra ở xứ ngoài, mới biết là môn rugby theo Anh và
Pháp. Sân bóng rổ lát xi măng, đôi khi còn có cọc
để giăng lưới, trở thành sân quần vợt. Trong phòng
thể thao, có bàn để đánh bóng bàn. Lê văn Tiết (vô
địch Pháp quốc) và Huỳnh văn Ngọc là những cao thủ
môn này. Cả hai xuất thân từ trường Taberd, dưới sự
dìu dắt ban đầu của Sư huynh Gaétan, trong những năm
đầu thập niên 1950. Thời gian này trường Taberd
hằng năm vẫn tổ chức các giải bóng bàn Bridgestone,
có nhiều danh thủ thời đó như Mai văn Hòa (vô địch Á
châu), Trần văn Ðức, Nguyễn Kim Hằng và Trần văn
Liễu dự tranh.
Trường chú trọng
nhiều hơn đến các môn thể thao đồng đội như bóng rổ,
bóng chuyền và bóng tròn. Học sinh còn được khuyến
khích trau dồi bơi lội, trường Mossard Thủ đức có
sân đá banh và hồ bơi. Treillis, năm 1953 đoạt giải
bơi lội các trường tiếng Pháp ở Sài gòn trong hạng
tuổi của anh. Huỳnh kế Nhơn đoạt huy chương vàng
bơi lội học sinh do bộ Quốc gia Giáo dục tổ chức vào
cuối thập niên 1950. Cả hai đều là học sinh trường
Taberd.
Tháng năm (quanh
ngày 15), thường có lễ Thánh Gioan La San. Năm
1958, lễ này đã được tổ chức cách trọng thể trong
sân Tao Ðàn, với học sinh nhiều trường đến dự
khán. Học sinh Taberd có trình diễn nhiều tiết mục
thể dục đồng diễn rất ngoạn mục, và lần đầu tiên,
biểu diễn môn nhảy ngựa gỗ 12 do Sư huynh
Roland, một người Canada (trước ở Ðại học Laval,
Québec) hướng dẫn. Trong những năm đầu thập niên
1950, trường Taberd còn dạy môn đánh kiếm. Trong
các đêm văn nghệ nhân dịp Giáng sinh hay Tết, có
trình diễn nhu đạo. Phương châm các trường vẫn là
"Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện."
(3) Ôn luyện thường xuyên
Về việc học, các Sư
huynh theo nguyên tắc ôn luyện thường xuyên và lúc
nào cũng sẵn sàng. Bài học, bài làm được kiểm hàng
ngày, và học sinh tập được thói, mỗi ngày học đầy đủ
bài học trong ngày hôm đó, mà không đợi đến gần kỳ
thi mới học gấp. Các trường phát phiếu điểm hàng
tuần cho các lớp tiểu học và hai tuần một lần cho
các lớp trung học. Học sinh học đều đặn, không dám
bê trễ. Mỗi năm học thi ba lần bán tam cá nguyệt,
và ba lần tam cá nguyệt. Kết quả thi bán tam cá
nguyệt (sau sáu tuần học) được công bố trong các lớp
cùng cở, kết quả thi tam cá nguyệt (sau ba tháng
học) được công bố trong ban (tiểu học, trung học đệ
nhất, đệ nhị cấp). Cuối năm học có lễ phát phần
thưởng tổ chức cho toàn trường, có phụ huynh tham
dự. Học sinh xuất sắc được nhiều phần thưởng rất có
giá trị.
Trong dịp nghỉ hè,
các Sư huynh vẫn cho bài tập làm theo tuần, và khi
nhập học phải nộp các bài làm. Nhờ thế mà học sinh
nhớ dai, không mất quãng, không bị thiếu sót trong
chương trình học. Nhưng ôn luyện thường xuyên vẫn
được các Sư huynh xem xét theo sức của học sinh, và
nhắm vào việc ôn tập cho nhuần nhã, chứ không phải
nhồi nhét. Các bài tập, bài học trong lớp theo
chương trình học hàng năm, nhưng thường thường trong
những tuần đầu, tháng đầu, các Sư huynh đều giảng
bài chậm và thật kỹ, cùng hỏi bài kiểm nhiều hơn để
chắc chắn là cả lớp đã thông hiểu các phần cơ bản
quan trọng. Sau đó mới theo sức học sinh mà nâng
cách giảng, cùng mức độ khó theo đúng chương trình
và hợp với nền móng hiểu biết đã đạt được. Nhờ thế
mà việc học có kết quả cao.
(4) Dạy và học giáo lý
Ngoài các môn học
theo chương trình, niềm hãnh diện của các Sư huynh
là dạy giáo lý. Môn này do Sư huynh phụ trách lớp
đảm nhiệm, và thường được dạy vào tiết đầu tiên, mỗi
ngày học. Những ngày lễ lớn cả trường cùng lên nhà
nguyện dự lễ Mi-sa. Tháng hai, thường lên chầu Mình
Thánh trong dịp lễ Ðức Bà. Trong các dịp lễ khác,
trường tổ chức các tuần cửu nhật, tạo một không khí
sùng kính và đạo đức trong toàn trường.
Vào những năm
1955-59, trường Taberd cũng tổ chức nhiều cuộc cấm
phòng do các Linh mục ở nhiều nơi đến giảng. Học
sinh có dịp nghe Linh mục Jean Marie Nguyễn văn
Thích, và Linh mục Gagnon (OP), tên Việt nam là
Nhân, một người Âu nói tiếng Việt rành rẽ hơn nhiều
học sinh Việt nam giảng trong các cuộc cấm phòng.
Những cuộc cấm phòng này nhằm củng cố đức tin, và
cũng nhằm hướng dẫn học sinh đáp ứng với các tình
huống ngoài đời, chứ không chỉ nhằm riêng vào việc
rao giảng đạo Công giáo. Hiệp hội Thánh Mẫu Sinh
viên cũng tổ chức cấm phòng trong khuôn viên Trại
Mai thôn. Các đoàn viên sinh viên cũng tham dự
nhiều cuộc sinh hoạt trại do Liên Ðoàn Sinh viên
Công giáo, Viện Ðại học Sài gòn tổ chức.
Nhưng chỉ học giáo
lý thôi, chưa đủ. Trường Dòng các Sư huynh còn mời
những nhà chuyên làm việc từ thiện đến nói chuyện
với học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho học sinh tham
gia các công tác xã hội. Cảm động nhất là vào năm
1958, ông Raoul Follereau đến nói chuyện ở trường
Taberd về nỗi bất hạnh của những người bị phung
cùi. Sau đó học sinh trường đã thăm viếng bệnh viện
Chợ quán, số học sinh tham dự đông đảo hơn tất cả
các lần khác bệnh viện đã được người đến viếng thăm
và ủy lạo.
(5) Tinh tiến luôn
Các Sư huynh cũng
hiểu dạy hay, không gì bằng làm gương. Chính các Sư
huynh nêu gương kỷ luật. Trong giờ ăn, các Sư huynh
ăn yên lặng, và một Sư huynh đã dùng bữa trước, đứng
ở bục đọc một chương sách. Các Sư huynh cũng tham
gia thể dục, thể thao. Năm 1960, theo thông báo,
đội bóng rổ trường Taberd sẽ tranh tài với đội XYZ,
không biết từ trường nào đến Ðến buổi đấu mới rõ
XYZ là các Sư huynh của trường.
Các Sư huynh còn
nêu cao gương tinh tiến không ngừng trong việc học.
Năm 1955, Sư huynh Rémi du học về nhạc lý, trở về
nước, gây một ấn tượng đẹp trong lòng học sinh, và
khơi dậy lòng ham thích nhạc. Sư huynh Casimir,
sau thời gian làm giám học đệ nhất cấp Pháp, đã du
học, trở về với bằng Tiến sĩ Triết học năm 1958. Sư
huynh Humbert trình luận án cao học về Thực vật học,
đề tài "Tảo dọc theo sông Saigòn," tại Ðại học Khoa
học Sàigon vào đầu năm 1960. Sư huynh Gagelin Tâm
du học và đạt học vị Tiến sĩ Giáo dục trong giữa
thập niên 1960. Ngoài ra còn nhiều Sư huynh khác tu
nghiệp Anh ngữ ở Pénang, hay Anh quốc (như các Sư
huynh Bonnard, Sư huynh Maximin) hơặc toán và khoa
học (như các Sư huynh Maurice Triều, Sư huynh
Georges). Ðặc biệt là Sư huynh Romuald, một người
Pháp vui tính và chân thật, đã ghi danh theo học các
chứng chỉ Việt nam ở trường Ðại học Văn khoa tại
Sàigòn trong các năm 1958, 59, trước khi trở về
Pháp.
(6) Giữ mục tiêu của Dòng mà
thích ứng với các thay đổi trong xã hội
Các trường Dòng La
San đã thích ứng với hoàn cảnh xã hội đương thời.
Như việc bổ nhiệm các Sư huynh Việt nam vào những
chức vụ điều khiển khi Việt Nam trở thành một quốc
gia độc lập. Các trường Dòng đã mở ngay ban trung
học dạy chương trình Việt khi có điều kiện, và phát
triển song song ban này với ban trung học chương
trình Pháp. Các trường cũng mở phòng thực tập khoa
học và trang bị đầy đủ các trợ huấn cụ. Trường
Taberd còn có chương trình Thương mại, dạy bằng
tiếng Pháp, gọi là Section (ban) Commerciale do S.H.
Anathanase dạy. Học sinh ban này đi thi lấy
Certificat d'aptitude professionnelle (chứng chỉ khả
năng thương mại) do Pháp tổ chức
(tức là học nghề, khi học sinh không có khả năng
theo học lên đệ nhị cấp (cấp ba).
Ngay trong những
năm cuối thập niên 1950, các trường đã thành lập Hội
Phụ huynh học sinh tại từng trường, tạo mối liên lạc
chặt chẽ giữa trường học và gia đình. Trước đó, tại
Taberd, trường đã phát hành báo Liên San, phát cho
học sinh từ năm 1958, để có sự liên lạc thường xuyên
giữa trường và gia đình. Báo cũng là nơi để học
sinh, thường học đệ nhị cấp trau dồi Việt ngữ. Phụ
trách Liên San trong những năm đầu là hai anh Trần
Tử Huyền (con Nghị sĩ Trần văn Tuyên, VNCH) và anh
Trần thế Ðộ. Ngay khi nhạc trẻ thịnh hành và trở
nên nguồn giải trí cho thanh thiếu niên, trường
Taberd cũng tổ chức các buổi đại hội nhạc trẻ trong
thính đường mới của trường trong những năm 1965,
1966.
Ðến cuối thập niên
1960, các Sư huynh đã thay môn giáo lý trong các lớp
từ lớp 8 trở lên. Các Sư huynh phụ trách lớp đã dùng
giờ đó nói về chuyện đời - dấn thân, nền tảng gia
đình, đạo đức cổ học, triết, cùng các vấn đề y tế
cùng sức khỏe. Các đề tài tùy tiện, không gò bó,
nhưng thực tế, và các buổi thảo luận rất cởi mở, tự
do. Năm 1971, nhận thức được sự không trọn vẹn của
việc phân biệt và tách rời nam, nữ trong nền giáo
dục công giáo, Taberd và Couvent des Oiseaux ở Sài
gòn đã tổ chức để học sinh các lớp 12 (classes
terminales) hai trường (nam, Taberd, và nữ Couvent)
gặp nhau vào sáng thứ bảy, trong 2 hay 3 giờ đồng
hồ. Mỗi lần gặp đều có đề tài để thảo luận.
Ðiều quan trọng
nhất khi Gioan La San thành lập Dòng là nhắm vào
việc dạy dỗ trẻ em nghèo. Các trường Dòng lúc ban
đầu đều dạy miễn phí, không thâu tiền học. Ðiều
này có thể làm được trong hoàn cảnh xã hội thời bấy
giờ và đáp ứng được các đòi hỏi trong cách giáo dục
thời đó. Càng về sau này, các chi phí cần thiết cho
việc dạy học tăng rất cao, nhu cầu về trợ huấn cụ và
các chi phí khác về y tế, về phòng ốc, về trách
nhiệm dân sự của nhà trường (như bảo hiểm, bảo hộ
lao động) cũng tăng cao. Ngoại trừ ở một vài quốc
gia như Canada, chánh phủ tỉnh bang đài thọ chi phí
cho các trường công lập dân chính và công lập công
giáo bậc tiểu và trung học nên các trường này không
phải thu học phí, còn ở các quốc gia khác, các
trường học đều phải thu học phí. Tại những nơi đó,
các trường Dòng La San đều thu học phí, nhưng các Sư
huynh vẫn tuân giữ mục đích của Dòng. Trong một số
trường các Sư huynh thu học phí cao hơn hay bằng các
trường khác. Nhưng trong các trường này vẫn có một
số học sinh được giảm hẳn hết hay một phần học phí
tùy theo điều kiện gia cảnh. Nhiều địa hạt hay
giáo phận, theo đề nghị của Giám mục, cũng gởi các
học sinh ưu tú mà nghèo theo học các trường La San.
Các học sinh này được miễn học phí, và trong vài
trường hợp, được ở hẳn nội trú mà không phải đóng
tiền.
Cạnh những trường
trên, các Sư huynh luôn luôn mở trường Nghĩa thục,
với học phí nhẹ, dành cho con em các gia đình có lợi
tức thấp. Ðây là phương pháp chia sẻ theo tinh thần
công giáo, dựa trên sự công bằng và nhân ái, thực
hiện công tác cải cách xã hội một cách rõ ràng và
hết sức ôn hòa. Trong tất cả các trường này, các Sư
huynh đón nhận con em các gia đình theo đủ mọi tôn
giáo. Các Sư huynh vẫn giảng đạo bằng cách làm
gương, và làm việc Tông đồ một cách không cưỡng ép,
với ý niệm là tạo điều kiện để học sinh được biết
đến tinh thần công giáo.
Tinh thần này không
những được phổ cập trong phạm vi của trường, mà còn
được đưa ra ngoài cộng đồng. Các trung tâm chẩn
bệnh và phát thuốc miễn phí phục vụ đồng bào các khu
lao động nghèo, không phân biệt tôn giáo hay tín
ngưỡng. Học sinh các trường trong những buổi du
ngoạn vẫn đi thăm viếng các cơ sở tôn giáo khác.
Trường thánh Phan-xi-cô Xa-viê ở Sóc trăng thường tổ
chức du ngoạn vào ngày thứ năm đầu tháng. Ngày đó,
học sinh thường đi bộ đến các nơi quanh ngoài tỉnh
lỵ, như Bãi Xàu, Xày Cá Nã, Ðại ngãi ... Thường
ghé vào nghỉ và ăn trưa trong đất thuộc các chùa
Miên. Nhờ đó học sinh có dịp xem các chú tiểu Miên
trả bài, đọc kinh bằng tiếng Phạn. Quanh chùa
thường có các cây cổ thụ, có rất nhiều cò và diệc
làm ổ. Học sinh có dịp sống một cách thực tế việc
tôn trọng và hòa đồng với các tín ngưỡng khác.
Tuy
kỷ luật Dòng
chặt chẽ và sự trau luyện, thử thách trước khi trở
thành một Sư huynh rất khắt khe, nhưng tại vài nơi,
vẫn có những người không kềm giữ được tánh xấu. Tại
một số nơi, nhất là ở Bắc Mỹ, trong những năm gần
đây, có nhiều vụ kiện tụng, và tố cáo các hành động
bạo lực, bạo hành trong các trường và họ đạo Công
giáo hoặc Anh giáo, hay Tin Lành. Có một số trường
hợp liên quan đến vài Sư huynh Dòng La San. Nhưng
dân chúng chỉ lên án những người phạm tội chứ không
vơ đũa cả nắm. Ngoài ra các vụ tố cáo đều được đưa
ra tòa án để điều tra và phân xử công minh. Các nạn
nhân được bồi thường theo án lệnh Tòa. Người dân
thời đại nầy nhìn nhận là trong mỗi cộng đồng đều có
vài người, hay một thiểu số xấu. Cần thẳng thắn
chỉ trích cái xấu, và nhìn nhận có cái xấu, thì dần
dần những phần tử không tốt sẽ có cơ hội tự tân,
hoặc bị đào thải. Ðiều này không trái với nhân
tính và sự công bằng.
Các Sư huynh Dòng
giữ đúng quy luật là người tu hành có khấn nguyện
nhưng không làm linh mục. Có vài Sư huynh, sau khi
ở trong Dòng một thời gian, đã xin được phép trở lại
chủng viện học thần học, và sau đó, thụ phong linh
mục. Dòng không ngăn trở. Riêng tại mỗi trường
thuộc Dòng Sư huynh, việc dâng lễ, giải tội, và các
nghi thức công giáo khác như Rửa tội, Thêm sức
(Confirmation) đều do một linh mục tuyên úy
(Aumônier) phụ trách. Các tuyên úy cho trường
Taberd ăn ở luôn trong trường, có phòng ăn riêng,
không dùng chung phòng ăn tập thể với các Su huynh.
Linh mục Paulus Mười có lẽ là Tuyên úy lâu nhất
trong trường Taberd. Linh mục đã giảng dạy phần
giáo lý cho các lớp 12 chương trình Pháp từ 1959
(Terminales) và còn có mặt ở trường khi các phi hành
gia đổ bộ lần đầu tiên lên mặt trăng.
Tóm lại, các trường Dòng La San
không bao giờ là một môi trường khép kín, riêng
biệt. Trường cởi mở, đón nhận một cách thận trọng
nhưng chí tình, các thay đổi trong xã hội, thực hiện
phương châm "hoà mình để cùng nhau đi lên," hầu hoàn
thành thiên chức của con người. Có lẽ nhờ thế nên
tuy đa số học sinh các trường Dòng là người không
theo đạo công giáo, ảnh hưởng của trường Dòng rất
sâu đậm trong lòng các cựu học sinh. Trong tiệc gây
quỹ của nhóm Cánh Én tổ chức tại Paris tháng 10 năm
2003, khách dự đã đến, không những từ các nước Âu
châu như Bỉ, Ðức, Hòa Lan, Ý, Thụy sĩ ... mà còn cả
từ Hoa kỳ và Canada. Ðó cũng là một chứng tích.
V. Kết
Hy vọng trong một tương lai
không xa lắm, các Sư huynh lại sẽ có dịp góp phần
vào việc đào tạo thế hệ tương lai, xây dựng đất nước
giàu mạnh, và truyền bá tình thương đến mọi tầng lớp
xã hội, trong tinh thần tự do và nhân ái. Học sinh
cũ của các Sư huynh, có rất nhiều người thành công ở
trong nước và ở hải ngoại, chắc chắn sẽ đóng góp tận
tình công sức và tài chánh vào việc này. Trên thế
giới, cựu học sinh các trường Dòng La San đã họp
thành một Hội Ái hữu quốc tế, đã nhóm hợp mấy lần,
vinh danh các thầy dạy cũ. Hội
mang tên Union Mondiale des Anciens Élèves
Lasalliens (viết tắt là UMAEL).
13 Các
hiệp hội Cựu học sinh từng trường La San ở Việt Nam
cũng có những hoạt độn tương trợ và có giúp các Sư
huynh còn ở Việt Nam. Tương lai chắc sẽ tươi sáng
hơn, cho trẻ em Việt Nam, cho Dòng La San, và cho
đất nước.14
VI. Ghi chú
* Hình Thánh Gioan La
San - Image credit : With the gracious permission
from the UMAEL's President, Mr.José
Ramón Batiste Peñaranda. E-mail 15 July
2005, @ 19:07:35.
(Ðiện thư Thứ sáu
15/7/ 2005
hồi 19:07:35 +0200)
1. Nước Pháp dưới thời
vua Louis thứ 13 (1610-1643) gặp nhiều khó khăn ở
trong cũng như ngoài nước. Nông dân đã liên tục
nổi loạn ở nhiều nơi nhằm chống sưu cao thuế nặng,
để rồi bị binh lính nhà vua đàn áp và tàn sát dã
man. Dân chúng lại bị lôi vào các cuộc nội chiến
giữa phe nhà vua, Công giáo, và các thành phố theo
đạo Tin lành ở trong nước. Bên ngoài, gặp cuộc
chiến tranh 30 năm (Guerre de Trente ans) giữ Pháp
với Tây ban nha, Thụy điển, Phổ
và Áo. Louis thứ 14 lên ngôi năm 1643, lúc mới hơn
4 tuổi, triều đình do Hoàng Thái Hậu Anne d'Autriche
và Hồng y giáo chủ Mazarin điều khiển, sau khi dẹp
yên cuộc nổi loạn của phe quý phái theo Duc
d'Orléans, triều đình tiếp tục theo đuổi chiến
tranh. Sau khi Mazarin qua đời, vua Louis thứ 14
lại dùng quân sự giải quyết cáctranh chấp biên giới,
và phí phạm công quỹ vào các công trình xây dựng đồ
sộ. Dân Pháp gần như kiệt quệ khi ông mất.
2. Vì lẽ này mà các Sư
huynh không học tiếng La tinh ở cấp cao như các linh
mục. Ðôi khi người đời chế giễu, gọi các Sư huynh
là Ignorantins (dốt). Nhưng cũng có nhiều Sư huynh
học theo chương trình cổ điển, cũng rất thông thạo
tiếng La tinh và tiếng Hy lạp. Ở trường Taberd,
Sàigòn, Việt nam có Sư huynh Roger và Sư huynh
Théophane Kế rất giỏi tiếng La tinh.
3. Université de France
-- Viện này do Napoléon Ðệ nhất thành lập năm 1805
chuyên về hành chánh và quản trị giáo dục các cấp từ
tiểu học đến đại học.
4. Tài liệu trong bài
nói chuyện của Sư huynh Tổng quyền
Álvaro Rodríguez Echeverría, vào năm 2003,
tại Ðại hội thế giới Cựu học sinh La san -UMAEL- kỳ
III, tại Mexico City, thủ đô Mexique.
5. John
Amos Comenius (tên La tinh là Jan Amos Komensky)
sinh ngày 28 tháng 3 năm 1592, tại Uhersky-Brod, một
thành phố nhỏ thuộc vùng Moravia, nay nằm trong Cộng
hòa Tiệp (Czech Republic). Ở Âu châu, nhất là ở Bắc
Âu, người ta xem ông là "Cha đẻ của nền giáo dục tân
thời." Ông là người đầu tiên đã xướng lên thuyết
cần dạy trẻ em bằng tiếng mẹ đẻ. Năm 1658 ông đã
soạn và cho in quyển Orbis selisualium pictus
(Le monde des choses sensibles illustré = The
Visible World In Pictures = Hình vẽ các sự vật
trong thế giới thấy được). Ông tin giáo dục là một
công tác phải được thực hiện toàn diện (holistic
approach), và con người, từ bé đến già, lúc nào cũng
cần học. Ông cũng đưa ra đề nghị cho các em bé gái
và phụ nữ đi học, một ý tưởng chưa ai nghĩ đến vào
thời đó. Ông muốn kết hợp thần học, triết học và
giáo dục thành một khoa duy nhất. Ông để lại 154
quyển sách về triết lý, quan niệm và phương pháp
giáo dục. UNESCO đã vinh danh ông bằng cách tạo ra
Huy chương Comenius dành cho các nhà giáo dục.
Trong giới giáo chức Âu châu, đây là danh dự cao quý
nhất.
6. Cách dạy này không
khác gì cách dạy trong các trường ở Việt nam hồi xưa
(từ thế kỷ thứ 12 đến đầu thế kỷ 20). Các thày đồ
vẫn dạy một lớp có nhiều trình độ khác nhau. Học
trò đã theo học lâu chỉ bảo các học trò mới vào, tập
đọc. Và cũng học viết chữ Nho, chỉ được cái là đọc
chữ Nho theo cách phát âm Việt, tiếng mẹ đẻ, chứ
không đọc theo cách phát âm của người Trung quốc (có
lẽ vì ngay người Trung quốc cũng có nhiều cách phát
âm theo từng địa phương).
7. Trước đó, người biết
chữ, biết đọc là có thể làm thày giáo hay cô
giáo. Ngay ở Hoa kỳ, các trường công lập được mở từ
thập niên 1630 nhưng mãi đến đầu thế kỷ thứ 19 mới
có vài trường dạy sơ qua để người học đạt trình độ
trung học và có thể ra đi dạy. Trường sư phạm tư
đầu tiên do Samuel R. Hall mở năm 1823, và trường sư
phạm tiểu bang đầu tiên ở Mỹ được mở ở Massachusett
năm 1839. Tại Âu châu, Gioan La San là người khai
phá, mở trường đặc biệt đào tạo thày giáo (trường sư
phạm) vào năm 1685. Sau đó, các trường sư phạm
phát triển rộng rãi nhờ August Hermann Francke và
Johann Pestalozzi. Francke được xem như người đồng
hành với Gioan La San trong giáo hội Tin Lành.
Chương trình học chánh thức của trường sư phạm được
thiết lập vào thập niên 1820 ở Ðức. Bên Anh mãi đến
giữa thế kỷ thứ 19, Ðại học Cambridge mới có trường
Sư phạm do công sáng lập của Oscar Browning, một
giáo sư dạy ở đại học Eton, và King College thuộc
đại học Cambridge. Cambridge cũng có trường sư phạm
dành cho phụ nữ, mở năm 1885.
8. Gioan La San đã quy
định các lề luật sau đây trong việc lên lớp giảng
dạy :
(1) Thày giáo xác định mức
thông minh tương đối của từng học sinh trong lớp.
(2) Thày giáo dùng ngôn ngữ
và cách giảng bài phù hợp với trình độ chung của
lớp, nhưng vẫn chú ý đến các trò kém nhất.
(3) Thày phải chắc chắn là
các học sinh hiểu rõ chữ các em dùng.
(4) Bài giảng đi từ dễ đến
khó, từ điều đơn giản đến điều phức tạp.
(5) Thày nhấn mạnh đến các
phần căn bản từng bài, từng môn học. Chỉ sang qua
bài tiếp khi học trò đã hiểu bài đang học.
. . .
(9) Mỗi lần, chỉ giảng một
vài điểm chánh, mà phải giảng cho thấu đáo.
(10) Giảng cho học trò nghe,
viết cho học trò thấy. Phải tận dụng tấm bảng đen.
(11) Phải chuẩn bị mỗi
bài dạy một cách kỹ
lưỡng.
(12) Giảng rõ ràng, không sai
trật, và phải trình bày một cách cẩn thận, dùng chữ
đúng đắn và đúng mẹo luật văn phạm.
. . .
(19) Lúc nào cũng nhớ đặt câu
hỏi để xem học trò có hiểu, có theo dõi bài hay
không.
(Reisner, 1935, Chương. V, đoạn.
ii, trang 31-33) .
9. Theo
chương trình Pháp, Collège là trường dạy hết bậc
Trung học đệ nhất cấp, Lycée là trường dạy dạy Trung
học đệ nhị cấp (thi Tú tài). Ngoài ra còn có sự
phân biệt chi phí Collège do quỹ Thuộc địa tài trợ
(tức Nam Việt), còn Lycée do quỹ Quốc gia (tức là
của Pháp) tài trợ. Trường Adran lúc đó ở gần Thảo
Cầm Viên, Sài gòn.
10. Sau
này, Sư huynh Cyprien Gẫm là Sư huynh Việt Nam đầu
tiên làm Giám tỉnh Tỉnh Dòng này (1956), sau khi
cũng là Hiệu trưởng Việt nam đầu tiên của trường
Taberd (1952 ?) thay thế Sư huynh Venant. Các Sư
huynh hiệu trưởng sau đó là SH Alloysius, SH Bernard
Bường (sau làm Giám tỉnh), SH Félicien Lương, SH
Désiré .... Một SH Giám tỉnh sau 1975 là SH Maurice
Triều.
11.
Chương trình giáo dục bậc Ðại
học ở Việt nam lúc đó (1960) còn theo chế độ Pháp.
Có hai loại Cử nhân: giáo
khoa (licence d'enseignement) và tự do (licence
libre). Muốn có bằng cử nhân phải đậu đủ một số
chứng chỉ (chứng chỉ dự bị và ba chứng chỉ chuyên
khoa ở Khoa học, chứng chỉ dự bị và bốn chứng chỉ
chuyên khoa ở Văn khoa - riêng Luật, không theo hệ
chứng chỉ mà theo học trình là ba năm). Ðậu đủ các
chứng chỉ chuyên khoa đã được quy định trước sẽ được
bằng cử nhân giáo khoa, còn không sẽ được bằng cử
nhân tự do. Sau 1965, có nhiều sửa đổi. Tại Ðại học
Khoa học, chia ra nhiều chứng chỉ nhỏ hơn, như chứng
chỉ Toán Vi tích phân chia ra làm Toán 1 và Toán 2,
nên có thay đổi về số lượng chứng chỉ. Tại đại học Văn khoa
chia ra từng Ban, mỗi Ban có một quy chế riêng về
bằng cử nhân giáo khoa và tự do trong Ban đó.
12. Biểu
diễn ngựa gỗ lúc đó gọi là "Cheval d'Arçon," nhưng
đúng ra là "Cheval de voltige" vì không có hai tay
quay để nắm trên thân gỗ.
13.
UMAEL:
Union Mondiale des Anciens Elèves Lasalliens
http://www.umael-lasalle.org/
14. Chúng
tôi không được biết nhiều về các hoạt động khác của
những Sư huynh Dòng La San còn ở lại Việt nam sau
1975. Ðộc giả muốn biết thêm có thể liên lạc
với
Vietnamese Youth & Culture
Association
Nhà La San Việt Nam
1103 Maxey Court
San Jose, CA 95132
http://www.saigon.com/~nguyent/ls_histo.html
Hoặc vào xem
một vài trang Web sau đây:
La San ở
British Columbia, Canada
http://www.lasan.org/lasan-overseas/region-usa/lasan-family/ls-canada/ls-can.htm
http://www.lasan.org/
Gia đình La San
ở Canada, Belgique, USA (ra trường các năm 71, 72,
và 73).
http://taberd7123.net/
http://www.lasalle2.org/French/Resources/Publications/PDF/Education/Cahier12.pdf
http://www.jesusmarie.com/jean_baptiste_de_la_salle_conduite_ecoles_chretiennes.pdf
Tài liệu tham khảo:
Battersby, W. J. 1949. De la Salle: A pioneer
of Modern Education. London: Longmans, Green
and Company.
Cole, Luella. 1950. A History
of Education: Socrates to Montessori. New
York: Holt, Rinehart and Winston. (Chương XIII,
trang 356 - 397).
Compayré, Gabriel. 1901. Cours de
pédagogie théorique et pratique. Paris:
Librairie classique Paul Delaplane
1880.
Histoire de la pédagogie.
Paris : Mallotée.
Bài XII. - Les origines
catholiques de l'enseignement primaire. La Salle et
les frères des Écoles chrétiennes.
Contantius, Brother - Trans. by M.
Barrett. St. John Baptist
de la Salle. UMAEL. Ðọc
ở trang
http://www.umael-lasalle.org/en.asp.
Của Union mondiale des anciens élèves lasalliens.
hay
http://www.newadvent.org/cathen/08444a.htm
- bản tiếng Anh.
De la Salle, Jean-Baptiste.
1720. Les Douze Vertus d'un bon
maître. La Gravité,
le Silence, l'Humilité,,
la Prudence, la Sagesse, la Patience, la Retenue, la
Douceur, le Zèle, la Vigilance,
la Piété et
la
Générosité.
Nói về 12 đức tính của thày giáo: nghiêm trang, im
lặng, khìêm nhường, dè dặt, khôn ngoan, kiên nhẫn,
kín đáo, dịu dàng, hăng say, thận trọng, thành
kính, và rộng lượng. Chỉ còn có bản sao, không đầy
đủ.
Encyclopédie de l'Agora:
http://agora.qc.ca/mot.nsf/Dossiers/Jean-Baptiste_de_La_Salle
Fitzpatrick, Edward A. 1951. La Salle Patron
of All Teachers. Milwaukee:
The Bruce
Publishing Company
http://www.saigon.com/~nguyent/ls_histo.html
Của Vietnamese Youth & Culture
Association
Bài tiếng Anh "District
of Vietnam," bản in ra từ Internet ngày 5 tháng 7
năm 2005, và bài tiếng Việt "Tỉnh Dòng La San" bản
in ra từ Internet trong năm 1996.
http://www.lasalle-fec.org/5institut/fond/novateur.php
- bản tiếng Pháp.
Jaud, (Abbé)
L. 1950. Vie des Saints
pour tous les jours de l'année. Tours: Mame.
Leo, Brother. 1921. The Story of St. John
Baptist de la Salle. New York: P.J. Kennedy &
Sons.
Mulhern, James. 1946. A History
of Education. New York: The Ronald Press
Company. (Chương VII và VIII, trang 233 - 301).
Nguyễn văn Trung. 1974. Chữ văn
Quốc ngữ. Los Alamitos, CA: Xuân Thu in
lại năm 1989. Theo bản in năm 1974 của Nam Sơn
Publisher.
Reisner Edward H. (gen. ed.) 1935.
The Conduct of the Schools of
Jean-Baptiste de la Salle. Dịch từ quyển
Conduite des écoles chrétiennes.
Ấn bản do Dòng Sư huynh cung cấp, bản in 1724, tuy
bản đầu tiên được biết có từ năm 1706. New York:
McGraw-Hill Education Classics. Xin xem sách do
Gioan La San trước tác.
Vollet
E. H. 1885. "Écoles chrétiennes"
La Grande Encyclopédie.
Paris, 1885-1902,
Tome XXI.
Và tư liệu của tác giả, cùng sự đóng
góp của TNK, và của vài bạn học cũ.
Phụ bản: Các
tác phẩm và thư tín của Gioan La San
Sách về giáo dục
Conduite des
écoles.—bản đầu tiên được
biết là bản viết tay, đề năm 1706, được tàng trữ
trong Thư viện Quốc gia Pháp, mã số "Fr. 11759."
Bản in đầu tiên được nhà Chastanier ở Avignon, xuất
bản năm 1720. Bản tiếng Anh do nhà McGraw-Hill &
Co., ở New York, xuất bản năm 1935 dưới sự trông nom
của Edward H. Reisner.
Les Devoirs d'un chrétien, en deux
parties et
avec une troisième partie contenant un traité du
culte extérieur et pratique.—
Bản in đầu tiên ra đời năm 1703.
Một bản sao ấn bản này được giữ trong Thư viện Quốc
gia Pháp, mã số "D. 13295." Bản này gồm ba quyển,
quyển 1 dày 494 trang, quyển hai, 305 và quyển ba có
301 trang, Thư viện British Museum ở London, UK có
bản in năm 1772.
Les Règles de la bienséance et de la
civilité chrétiennes.—
Bản xưa nhất còn giữ được là bản in năm 1729, còn
giữ ở British Museum có ghi tên Gioan La San là tác
giã..
Exercices de piété pour l'usage des
Écoles chrétiennes.—Bản
này do C. de Percelles, trường Ðại học Sorbonne
duyệt ngày 7 tháng 6 năm 1697. Bản xưa nhất còn
lại được in sau năm 1730 và giữ ở Văn khố ở Vatican,
Rome -- tình trạng không được tốt lắm.
Các
sách khác
Instructions et Prières pour la
Sainte Messe.— Bản viết
tay được trường Sorbonne duyệt thuận vào ngày 16
tháng 1, năm 1704. Bản xưa nhất còn được giữ trong
Văn khố là bản in năm 1785.
Règles communes de l'Institut des
Frères des Écoles chrétiennes.—
Thư viện Avignon còn giữ một bản
viết tay đề năm 1705, mã số 747 trong khu bảo tàng
Calvet. Văn khố Rome có giữ bản do Gioan La San
duyệt lại và gởi cho các nhà của Dòng năm 1718, có
chữ ký của SH Barthélemy, Sư huynh Tổng quyền lúc
đó.
Règles du Frère Directeur d'une
Maison de l'Institut. --
Trong Văn khố chỉ còn khoảng 10 trang có mang chữ ký
của SH Barthélemy và đề năm 1717.
Ngoài ra còn khoảng 85 bức thư và 8
văn kiện khác do Gioan La San ký, còn giữ trong Văn
khố.
Dien Tran, Ph.D. |