Einstein là một
nhà bác học kỳ tài, có một sức sáng
tạo vô cùng mãnh liệt. Nhờ vào óc
suy luận và tưởng tượng phong
phú, và chỉ nhờ vào đó, ông đã tìm
ra nền tảng của thuyết Tương Đối,
một trong những thuyết vật lý cách
mạng của nền khoa học hiện đại.
Nhưng, ngoài
thiên tài khoa học, ông còn là một
người có lý tưởng nhân bản, thiết
tha với cuộc sống của nhân loại. Ông
không phải là nhà khoa học chỉ biết
vùi đầu trong lý thuyết hay trong
phòng thí nghiệm và quên hết mọi
chuyện chung quanh, đôi khi còn
không biết là những gì mình sáng chế
đang tàn sát đồng loại bên ngoài.
Đối với ông, con người không thể
sống tách rời xã hội, con người sống
được là do xã hội và vì thế, phải có
trách nhiệm đối với nó.
Ông dấn thân
tranh đấu cho hòa bình và hạnh phúc
nhân loại. Với tư tưởng hướng
thượng, ông không ngừng kêu gọi
lương tri và trách nhiệm con người
trong cộng đồng, xã hội để thế giới
ngày càng thăng tiến.
‘‘Hoàn cảnh
của chúng ta rất đặc biệt, hỡi những
người con của Trái Ðất ! Chúng ta
chỉ ghé qua đây. Chúng ta không biết
tại sao chúng ta có mặt tại đây, dù
là đôi lúc, chúng ta tưởng là chúng
ta hiểu được. Nhưng, qua cuộc sống
mỗi ngày, không cần phải suy nghĩ
nhiều, chúng ta biết được một điều :
chúng ta có mặt là cho kẻ khác :
trước hết, cho những người mà nụ
cười và sức khỏe là điều kiện tạo ra
hạnh phúc cho chính chúng ta, và sau
đó là biết bao những người vô danh
khác mà số phận gắn liền với chúng
ta qua một liên hệ thiện cảm nào đó.
Mỗi ngày, không biết bao nhiêu lần,
tôi hiểu được rằng cuộc sống xã hội
và cuộc sống riêng tư của tôi có
được là do công lao của những người
hôm nay và những người đã khuất, và
từ đó, tôi tự nhủ, phải cố gắng làm
sao trả lại, tương xứng với những gì
tôi đã nhận và sẽ còn tiếp tục nhận
....
(Albert Einstein – Entre science
et engagements –ULB-VUB Bruxelles)
Qua những hành
động đó, chắc chắn, Einstein không
thể là một người phi đạo đức, vô
luân lý.
Dĩ nhiên, trong
suốt cuộc đời suy luận và sáng tạo
của ông, giống đa số các nhà bác học
khác, ông thường xuyên đặt nhiều câu
hỏi liên quan đến tâm linh, đến
Thượng Đế, đến một đấng sáng tạo.
Đối với Einstein,
cái mà ông thường gọi là “tôn giáo
tính” của ông, đặt căn bản trên
những nhận thức về vũ trụ. Đứng
trước những bí ẩn hài hòa và tuyệt
vời của nó, ông không ngừng chiêm
ngưỡng và sau đó cố gắng tìm hiểu để
lĩnh hội những bí ẩn đó. Ta có thể
gọi thứ ‘‘tôn giáo tính’’ đó như là
một ‘‘đạo vũ trụ’’.
“Tôi hiểu được
rằng, sau cái thế giới mà chúng ta
biết được, còn ẩn giấu một cái gì
vượt khỏi tri thức của chúng ta. Một
cái gì đó, mà vẻ đẹp và sự vượt trội
chỉ đến với chúng ta một cách phảng
phất, như một ánh sáng hiu hắt.
Trong ý nghĩa đó, tôi là một người
có tôn giáo. Tôi cố mường tượng
những bí ẩn mà tôi chiêm ngưỡng và
bằng tri thức hạn hẹp, tôi cố thu
nạp và tìm hiểu chút ánh sáng phản
chiếu từ sự cấu tạo tuyệt vời của
cái Hiện Thể”.
(Qui était Albert
Einstein – 1930)
Đó là một niềm
tin tâm linh mãnh liệt, mà theo ông,
sẽ đem đến sự giải thoát cho con
người : chính vì ý thức được sự nhỏ
bé của mình trước những tuyệt vời
của vũ trụ, và qua nỗi khát khao tìm
kiếm những câu trả lời cho những bí
ẩn đó, con người sẽ lĩnh hội sâu xa
tất cả những Chân, Thiện, Mỹ.
“Nhà bác học,
sau khi đã chiêm nghiệm quy luật
nhân-quả khoa học, sẽ cố gắng tìm
hiểu những sự kiện thuộc tương lai
và quá khứ. Tôn giáo tính của ông sẽ
khiến ông ngạc nhiên, chiêm ngưỡng
những nét hài hòa tuyệt vời của vũ
trụ, và trước những quy luật thông
minh tuyệt vời đó, ông hiểu rằng
bao nhiêu trí óc và tài năng của cả
nhân loại chỉ là một sự nực cười vô
nghĩa. Hiểu được điều đó, ông sẽ
định cho mình một lối sống can đảm
và hướng thượng, vượt lên trên những
dục vọng ích kỷ. Hiển nhiên, tinh
thần đó giống với tinh thần sáng tạo
tôn giáo của mọi thế hệ”.
(Comment je vois le monde)
Thiên đường của
ông là một thiên đường không mang
tính chất thần linh, một thiên đường
không giống thiên đường tôn giáo với
những hứa hẹn cứu rỗi, nhưng cũng
mang đến một sự giải thoát nội tại.
“Ngoài kia, là
cả một thế giới bao la, hoàn toàn
độc lập với con người, đang sừng
sững hiện ra trước mặt. Nó như một
bí ẩn, vĩ đại và vĩnh cữu, nhưng
phần nào vói tới được qua sự cảm
nhận và suy nghĩ của chúng
ta. Chiêm ngưỡng thế
giới đó, là một hứa hẹn đưa chúng ta
đến giải thoát, và chẳng mấy chốc,
tôi hiểu được rằng, tất cả những
người mà tôi hằng ngưỡng mộ và kính
phục đều là những người đã bỏ công
làm chuyện đó và họ đã tìm ra sự tự
do nội tại và niềm tin xác thực.
Trong khuôn khổ những giới hạn của
chúng ta, tôi nghĩ rằng, mục đích
siêu việt mà chúng ta phải đạt tới
là làm sao dùng trí tuệ để lĩnh hội
được cái thế giới ngoại lai đó, cách
biệt hoàn toàn với con người. Những
người hôm qua và hôm nay, cùng chia
sẻ tư tưởng trên và qua đó, đã gặt
hái được biết bao kiến thức, đều là
những người bạn không bao giờ mất
của tôi. Con đường dẫn đến thiên
đường đó không dễ dàng cũng như
không quyến rũ như thiên đường tôn
giáo, tuy nhiên, tôi tin là nó an
toàn và tôi không bao giờ hối tiếc
đã lựa chọn nó”. (Notes
autobiographiques, 1949)
Trong việc chiêm
ngưỡng, tìm hiểu và lĩnh hội những
bí ẩn tuyệt vời của vũ trụ, con
người phải biết vượt thoát cái
“tôi”, vượt thoát những ảo tưởng gây
ra bởi những thành kiến và cố chấp,
để hướng cái nhìn và tư tưởng của
mình đến những chân trời mới lạ. Chỉ
trong điều kiện đó, nghiên cứu vũ
trụ mới thật sự đem đến cho con
người một ý nghĩa khai phóng và giải
thoát.
"Nhân loại là
một phần của cái mà ta gọi là vũ
trụ, cái phần hữu hạn bởi thời gian
và không gian. Chúng ta tự cho rằng
con người của chúng ta, những tư
tưởng và cảm xúc của chúng ta như
là những gì tách rời với thế giới
còn lại. Đây là một ý thức ảo tưởng.
Sự ảo tưởng này giống như một thứ
ngục tù, thu hẹp chúng ta vào những
khát vọng cá nhân và quyến luyến của
một vài người lân cận. Chúng ta phải
phá bỏ những xiềng xích đó bằng cách
mở rộng vòng tay nhân ái đến tất cả
chúng sinh và vạn vật tuyệt vời. Giá
trị thật sự của con người được xác
định qua kích thước và cảm nhận có
được từ sự giải thoát của cái
« tôi»”.
(http://www.spaceandmotion.com/Albert-Einstein-Quotes.htm)
Dĩ nhiên, trong
suốt cuộc đời suy luận và sáng tạo
của ông, như đa số các nhà bác học
khác, Einstein thường xuyên chung
đụng với những câu hỏi liên quan đến
tôn giáo, đến Thượng Đế.
Einstein có cái
nhìn tiêu cực và đôi lúc khắt khe về
tôn giáo. Theo ông, tôn giáo và giới
cầm quyền thường kết hợp với nhau để
củng cố quyền lợi và quyền lực.
"Trước hết,
tôn giáo phát nguồn từ sự lo sợ.
Thường khi, một lãnh tụ, một quốc
vương, hay một giai cấp đặc quyền,
tùy theo sức mạnh và với ý định bảo
vệ quyền lực nhất thời, sẽ tự khoác
cho mình chức năng tôn giáo. Hoặc
là, giai cấp lãnh đạo chính trị và
giai cấp tôn giáo kết hợp với nhau
vì quyền lợi chung”. (Comment
je vois le monde)
Sau đó, do nhu
cầu xã hội, và do tinh thần yếu đuối
của con người, giai cấp lãnh đạo lại
tạo ra khái niệm về một Thượng Đế có
quyền thưởng phạt, cứu rỗi và phán
xét.
Ông cũng không
tin vào một Thượng Đế được nhân cách
hóa bởi con người, như một thần
linh, đứng ngoài vũ trụ, có quyền
năng phán xét và can thiệp vào những
quy luật tự nhiên hay có thể thay
đổi sự vận hành khách quan của vũ
trụ. Ông cũng không tin vào một
Thượng Đế do con người tạo dựng, có
quyền năng thưởng phạt, ban phúc hay
giáng họa và ảnh hưởng lên hành vi
con người.
Năm 1936, một học
sinh lớp 6 trung học gửi thư hỏi
Einstein rằng các nhà khoa học có
cầu nguyện không và nếu có thì họ
cầu nguyện điều gì. Einstein trả lời
như sau :
"Tôi sẽ cố trả lời câu hỏi của
em một cách dễ hiểu nhất mà tôi có
thể làm được. Việc nghiên cứu khoa
học dựa trên tư tưởng cho rằng tất
cả mọi sự việc xảy ra đều được
quyết định bởi những quy luật tự
nhiên, và do đó điều này cũng áp
dụng cho mọi hoạt động của con
người. Vì lẽ đó, một nhà nghiên cứu
khoa học khó có khuynh hướng tin
rằng những sự kiện đó lại có thể bị
ảnh hưởng bởi một lời cầu nguyện,
nghĩa là, một điều mong ước được
khấn với một thực thể siêu nhiên”.
(http://www.geocities.com/HotSprings/6072/1einstein.html)
"Tôi không thể
tưởng tượng một Thượng Đế khen
thưởng hay trừng phạt những vật do
chính đấng đó tạo ra. Tôi không thể
tạo ra trong tôi hình ảnh một Thượng
Đế thể hiện ý muốn của mình qua
những việc làm của tôi”.
(Comment je vois le monde -
Einstein)
Ngược lại, theo
ông, Thượng Đế chính là vũ trụ, chứa
đựng biết bao bí ẩn mà tri thức hạn
hẹp con người luôn luôn khát khao
tìm hiểu, đồng thời còn được thể
hiện qua những nét hài hòa tuyệt vời
mà con người phải biết cảm nhận và
chiêm ngưỡng. Theo quan niệm đó, ông
đồng ý với Spinoza.
“Tôi tin vào
Thượng Đế của Spinoza, thể hiện qua
giai điệu hài hòa trong vũ trụ, chứ
không phải một Thượng Đế quan tâm
đến số phận và những hành vi của con
người”.
(http://fr.wikipedia.org/wiki/Panth%C3%A9isme)
Năm 1929, ông
viết như sau :
‘‘Tất cả đều
được định trước, từ khởi đầu cũng
như kết thúc, bởi những lực mà chúng
ta không làm chủ được. Điều đó đúng
cho côn trùng, cũng như cho những
tinh tú. Con người, cây cỏ hay bụi
của vũ trụ, tất cả đều nhảy múa theo
một vũ điệu định sẵn, do một ai đó
vô hình điều khiển từ xa xăm’’.
(Qui était Albert Einstein)
Một lần khác, ông
diễn tả như sau :
‘‘Tư tưởng con
người không đủ sức hiểu được vũ trụ.
Chúng ta giống như đứa bé trong một
thư viện vĩ đại, chứa rất nhiều
sách, chất đầy trên tường, đến tận
trần nhà, viết trong nhiều ngôn ngữ
khác nhau. Đứa bé cảm nhận là phải
có ai đó đã viết ra những sách đó.
Nó không biết tác giả là ai, và làm
sao đã viết ra được. Nó không hiểu
ngôn ngữ trong những sách đó. Nhưng
nó nhận thấy chúng được sắp xếp theo
một thứ tự chính xác. Đúng là một sự
sắp xếp huyền nhiệm mà nó không hiểu
được nhưng nó cảm nhận một cách mơ
hồ’’.
(http://www.rebelle.net/penser/einstein.htm)
Qua những nhận
xét trên, phải chăng Einstein tin
vào một đấng sáng tạo, hay đúng hơn,
một nguyên lý sáng tạo vô cùng mầu
nhiệm, mà con người luôn luôn khát
khao tìm hiểu, bởi vì, nếu không,
làm sao vũ trụ có thể tuyệt vời và
hoàn hảo khi chỉ sinh ra từ vật chất
vô tri và vô nghĩa ?
Đó phải chăng là
Thượng Đế của ông ?
Do đó, khi bàn
luận chủ đề tâm linh này trong tư
tưởng Einstein, có lẽ điều đầu tiên
và thiết thực mà chúng ta phải làm
là tìm hiểu định nghĩa ‘‘Thượng Đế’’
của ông để so sánh với các tôn giáo
khác.
‘‘Hãy cho tôi
định nghĩa của bạn về Thượng Đế, tôi
sẽ nói với bạn là tôi tin hay
không’’.
Chính vì có quan
niệm không chấp nhận một Thượng Đế
được nhân cách hóa, có quyền năng
thần linh, tạo ra muôn loài, ảnh
hưởng lên mọi vật, nên khi tìm hiểu
về Phật Giáo, Einstein đã tìm thấy
nhiều điểm thích hợp với mình.
Thật vậy, Phật
Giáo không nói đến một đấng sáng tạo
đã dựng nên vũ trụ. Hai tư tưởng
quan trọng của tôn giáo này là giải
thích nguyên nhân của sự khổ và quan
niệm giác ngộ, niết bàn. Ngoài ra,
những khái niệm về không gian, về
thời gian, sự vô thường, về tính
« Không » qua câu Bát Nhã Tâm Kinh
‘‘sắc bất dị không, không bất
dị sắc, sắc tức thị không, không tức
thị sắc’’ có rất nhiều điểm tương
đồng với những thuyết vật lý cận
đại.
Đức Phật đã chẳng
một lần nói rằng : ‘‘thời gian ngài
giảng một bài kinh trên thế gian thì
hàng ngàn năm đã trôi qua nơi một
thế giới khác’’ và hình ảnh này phải
chăng chính là thuyết Tương Đối của
Einstein đề ra gần 2500 năm sau đó ?
Thiện cảm của
Einstein, dù rằng chưa bao giờ ông
tự nhận mình là người có tư tưởng
Phật Giáo, đã được nêu lên trong bài
viết ngày 09/11/1930 trên báo New
York Times với đề tài ‘‘ Khoa
học và tôn giáo’’ :
"Tôn giáo của
tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ,
vượt lên trên ý niệm Thượng Đế nhân
cách hóa, và thoát ra khỏi giáo
điều, thần học. Tôn giáo này bao
quát hai phương diện tự nhiên lẫn
siêu nhiên, đặt căn bản trên ý thức
đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm của
mọi vật, tự nhiên, siêu nhiên để
tổng hợp thành một nhất thể trọn vẹn
ý nghĩa. Phật giáo thỏa được những
điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo
nào đáp ứng được những nhu cầu của
khoa học cận đại, thì đó chính là
Phật Giáo".
Bàn về mối tương
quan giữa khoa học và Phật Giáo,
Einstein đã viết :
"Phật giáo
không cần xét lại quan điểm của mình
để cập nhật hóa với những khám phá
mới của khoa học. Phật giáo không
cần phải từ bỏ quan điểm của mình để
đi theo xu hướng của khoa học, vì
Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng
như vượt qua khoa học".
Chúng ta ghi nhận
là càng ngày càng thấy nhiều nhà
khoa học quan tâm đến Phật Giáo nói
riêng, và những tôn giáo, triết học
Đông Phương nói chung. Một trong
những lý do giải thích sự kiện này
là họ cố gắng tìm câu trả lời cho
những bài toán tâm linh gặp phải ở
một thời điểm nào đó trong cuộc đời
nghiên cứu khoa học của họ, đúng như
Einstein đã nói :
"Khoa học
thiếu tôn giáo sẽ khập khiễng. Tôn
giáo thiếu khoa học thì mù quáng".
Thêm một điều
nữa : nếu Einstein đã nhiều lần bày
tỏ thiện cảm và sự đồng ý của mình
đối với những quan niệm về đấng sáng
tạo, về tương quan giữa tôn giáo và
khoa học trong Phật Giáo, thì mặt
khác, chúng ta không biết ông nghĩ
gì về những quan niệm khác như niết
bàn, diệt khổ, nghiệp quả hay luân
hồi.
Một câu hỏi
thường được đặt ra cho những nhà
khoa học : thái độ của họ trước tuổi
già, trước cái chết và sự “bất
tử” ?
Năm 1953, trong
một bức thư viết cho hoàng hậu
Elisabeth, vương quốc Bỉ, ông
viết :
“Khi già, con
người như bị đưa đẩy đến vô cực, ít
nhiều sống trong cô đơn. Ta không
còn hy vọng, không còn sợ sệt, và
chỉ thản nhiên quan sát… Khi còn
trẻ, ta có ý nghĩ là mỗi cá nhân,
mỗi sự kiện đều độc nhất trong bản
chất của nó. Nhưng với tuổi đời, ta
thấy là nhiều sự kiện được lập đi
lập lại. Khi về già, ta sẽ bớt kích
động, bớt ngạc nhiên nhưng đồng thời
cũng bớt “vỡ mộng” như khi còn trẻ.
Ta trở thành một người quan sát đầy
khoan dung và an ủi”.
Đầu năm 1955, sau
khi thoát khỏi cơn bệnh nặng,
Einstein có những thao thức và băn
khoăn trước cái chết. Vào thời điểm
này, ông thất vọng nhiều trước những
biến chuyển chính trị trên thế giới,
cộng thêm sức khỏe suy giảm, và về
phương diện khoa học, ông vẫn còn
thao thức vì chưa tìm ra lý thuyết
«trường thống nhất» mà ông hằng ao
ước.
“Cái chết đối
với tôi là một món nợ lâu đời mà sau
cùng hết chúng ta phải trả. Dù thế,
theo bản năng, chúng ta luôn luôn
làm đủ mọi cách để trì hoãn việc trả
nợ đó. Đó là trò chơi mà thiên nhiên
bày ra với chúng ta. Chúng ta có thể
mỉm cười trước sự kiện đó nhưng
không bao giờ chúng ta có thể thoát
khỏi những bản năng có sẵn trong
người”.
Ông cho rằng cái
chết là một trạng thái an toàn nhất
của con người :
“Sợ chết khi
nghĩ đến cuối của đời của mình, là
một điều thông thường nơi con người.
Đó là một trong những phương tiện
được thiên nhiên sử dụng để bảo tồn
nòi giống. Nhưng nhìn vấn đề dưới
khía cạnh thuần lý, đó là một nỗi lo
sợ khó biện minh nhất, bởi vì sẽ
không có tai nạn rủi ro nào có thể
xảy đến cho một người chết. Tóm lại,
đó là một lo sợ vô lý nhưng chúng ta
không tránh khỏi”.
(Albert Einstein
- Entre science et engagements)
Einstein không
tin vào thuyết linh hồn bất tử sau
cái chết.
“Sự bất tử ư? Có hai loại.
Loại thứ nhất nằm trong trí tưởng
tượng của con người và do vậy chỉ là
ảo tưởng. Có một sự bất tử tương
đối, đó là sự duy trì hình ảnh của
một người trong ký ức của một số thế
hệ. Nhưng chỉ có một sự bất tử chân
chính duy nhất, trên phạm vi vũ trụ,
đó là sự bất tử của chính vũ trụ.
Không có sự bất tử nào khác”. (http://www.positiveatheism.org/hist/quotes/einstein.htm)
Tháng 03 năm
1955, khi bạn ông, Michele Besso qua
đời, Einstein đã viết : “Besso từ
giã cuộc đời này trước tôi. Điều đó
không có gì quan trọng. Đối với
những người nghiên cứu vật lý như
chúng tôi, sự phân biệt giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai, chỉ là
ảo tưởng, dù là ảo tưởng đó vô cùng
dai dẳng, ray rứt, khó dứt bỏ được”.
(http://nv2r.club.fr/philosophie/Prigogine/prigogine-temps3.htm)
Một tháng sau,
đến phiên ông lìa đời. Những ngày
cuối cùng, ông nói : “tôi đã làm
xong việc của tôi trên Quả Đất”.
Theo di chúc, ông
muốn được hỏa thiêu và rải tro ở một
nơi nào đó, hoàn toàn bí mật, vì ông
không muốn có bia mộ để đời sau tôn
vinh.
Mấy ai làm được
chuyện đó như ông, một người đã từng
nổi tiếng và vinh quang khi còn
sống, nhưng lúc chết, lại chọn trở
về với vô danh cát bụi ?
(Trích từ quyển
« Albert Einstein, nhà bác học đam
mê và chân thật », Bruxelles tháng
01-2007 của Nguyễn Thế Tài)