|
NOBEL VÀ
THUỐC SÚNG

Alfred NOBEL (Stockholm, 1833 - San Remo, 1896)
Cha của Alfred Bernhard NOBEL là kỹ sư và thành
lập những xưởng chế tạo vũ khí
ở Saint-Pétersbourg. Alfred và các anh em ông được
học tiếng Nga và Thụy Điểnở bên Nga .
Alfred tiếp tục học lên ở Thụy Điển
rồi Nga rồi Hoa kỳ, nơi này ông ở 4 năm.
Lúc 20 tuổi ông đă say mê ngành Cơ học và Hóa
học và đă đăng kư 2 bằng sáng
chế.Khoảng 1863 ông đăng kư bằng sáng
chế chât nổ bằng Fulminate thủy ngân.
THUỐC SÚNG
Chất bột đen và bột bông g̣n là những
chất nổ nổi tiếng . Năm 1846, Ascanio
SOBRERO, nhà Hóa học Ư đă khám phá ra chất
Nitroglycérine.Hỗn hợp Trinitrate de glycérol (Nitroglycérine)
là chất nổ rất mạnh, Là một lỏng không
màu, nhớt như dầu, tỷ trọng 1,58, đông
đặc ở 13°C. Rất nhạy với nhiệt và
sự va chạm nó không bền nên rất nguy hiển
khi xử dụng nên người ta ít dùng nó ở
trạng thái tinh chất mà trộn với những
chất trơ như bột mạt cưa hay chất
nổ khác thí dụ như nitrocellulose. Nó là thành
phần chính của chất nổ.
Nitroglycérine cũng được dùng trong Y khoa để
làm thuốc giăn mạch van (vasodilatateur coronarien)
Vào năm 1863, NOBEL t́m kiếm cách cách
kiểm soát được nitroglycerine. Đó là dùng
một ng̣i nổ, có thể gây nổ chất
nitroglycerine bằng cách đốt cháy một ít
thuốc súng. Ông kỹ nghệ hóa
chất Nitrolycérine. Nhưng những thí nghiệm đă
ngừng lại khi em trai út ông, Emil bị chết v́
pḥng thí nghiệm ở Helenborg bị nổ.Vài năm
sau ông t́m ra cách sáng chế ra chất nổ an toàn hơn
gọi là dynamite, tức là chất Nitroglycérine.
Năm 1875 ông đăng kư sở hữu bằng sáng
chế một chất nổ mạnh hơn nữa,
dynamite extra Nobel. Hỗn hợp Nitroglycérine và Nitrate de
cellulose được keo hóa, được biết dưới
tên quen thuộc là Plastic
Tiếp theo Nobel phát minh ra những chất nổ
mới không cho ra khói.
Người chế tạo ra
thuốc nổ Dynamite
Alfred Nobel là một người kín đáo, rụt rè
và chuộng ḥa b́nh. Khó ai nghĩ rằng ông đă phát
minh ra thứ thuốc nổ có sức công phá mạnh
nhất kể từ khi thuốc súng ra đời.
Người chế tạo ra thuốc nổ đă
phải chịu rất nhiều phiền toái v́ phát
minh của ḿnh, nhưng rốt cuộc những ǵ ông
chế tạo ra rất đáng giá. Tên ông là Alfred
Nobel và ông là một nhà hóa học người
Thụy Điển sống vào thế kỷ 19.
Khi Nobel c̣n là một cậu bé con, một nhà hóa
học người Ư tên là Ascanio Sobrero đă khám phá
được một chất làm đảo lộn
cả thế giới về vũ khí và trang bị
chiến tranh. Sobrero đă cho một ít chất glycerine
vào hỗn hợp acid nitric và sulphuric trong một
chậu nước và nhận thấy rằng có
một lớp dầu màu vàng ch́m xuống đáy
chậu. Chất dầu ấy có khả năng gây
nổ rất lớn và dễ dàng phát nổ nếu
bị va lắc mạnh. Thuốc súng - một chất
nổ cơ bản khác , chỉ phát nổ nếu
được mồi lửa. Sobrero gọi hợp
chất mới phát minh này là nitroglycerine. Nitroglycerine là
một loại thuốc nổ hữu hiệu nhưng
khả năng gây họa rất lớn và khó chế
ngự.
Đến năm 1863, chàng thanh niên Alfred Nobel đă phát
minh ra cách kiểm soát được nitroglycerine. Đó
là dùng một ng̣i nổ, có thể gây nổ chất
nitroglycerine bằng cách đốt cháy một ít
thuốc súng.
Nobel và gia đ́nh bắt đầu cho sản xuất
ngay loại "Dầu nổ Nobel". Nhưng tai
họa đă mau chóng ập đến. Một vụ
nổ trong xưởng làm việc của Nobel đă
giết chết đứa em trai và làm bị thương
ông bố của anh. Tuy vậy, công việc vẫn
được tiến triển. Trong ṿng 5 năm, xí
nghiệp tại Đức của nhà phát minh đă
phát nổ hai lần. Khi các nhà khoa học trên thế
giới t́m cách sử dụng chất nitro-glycerine nguy
hiểm chết người này, lượng tử
vong ngày càng gia tăng.
Nobel nhận ra rằng, ng̣i nổ chưa đủ an
toàn để kiểm soát khối thuốc nổ. Ông
cần một loại tốt hơn. Cuối cùng, Nobel
cũng t́m được câu trả lời - kieselguhr,
một loại đất đặc biệt xốp có
rất nhiều ở miền Bắc nước Đức.
Nobel khám phá ra rằng, nếu trộn nitro-glycerine
với đất kieselguhr, nó sẽ ngấm vào đất
mà vẫn không mất đi đặc tính gây nổ
của ḿnh. Nobel sấy khô loại đất đó
thành từng thanh một và gọi nó là
"dynamite" (thuốc nổ) - một từ mới
lấy từ chữ Hy Lạp dynamis - có nghĩa là
sức mạnh.
Découverte
Alfred continua donc de faire seul ses
travaux, vu l'invalidité de son père. Il installa d'autres usines en
Norvège et en Allemagne. La nitroglycérine était vraiment très
dangereuse, surtout quand elle était manipulée sans précaution. À
cause de la nitroglycérine, il y eut plusieurs autres accidents: l'usine
Nobel d'Allemagne prit feu, au large de Panama, un bateau s'enflamma également
et d'autres explosions eurent lieu à San Francisco, à New York et en
Australie.
Enfin, Nobel trouva la solution à ce problème
(les explosions) en 1866-1867. Puisque la nitroglycérine est un liquide
instable, il décida donc de lui ajouter des matériaux absorbants. À
partir de cela, le savant réussit à l'emmagasiner et à la transporter
en toute sécurité. Il eut l'idée de faire absorber le liquide huileux
(nitroglycérine) par une terre inerte, le kieselguhr, qui peut en fixer
jusqu'à 75 % en poids, sans que le liquide ne s'échappe. Il obtenut
ainsi un explosif solide et beaucoup plus sécuritaire. Il fallait alors
un détonateur spécial pour la faire exploser. La nouvelle forme du
produit fut appelée dynamite. Nobel fit breveter son invention en 1867.
Elle fut connue du public sous le nom de "poudre de sécurité
Nobel". Il fabriqua alors des dynamites de puissances diverses,
contenant 20, 30, 40, 50 ou 60 % de nitroglycérine. Puis, il perfectionna
la formule, remplaçant l'absorbant inerte par le mélange d'un absorbant
combustible (farine de bois) et de nitrate de sodium. Il y ajouta par la
suite un peu de soufre et de carbonate de calcium. On obtenait ainsi,
suivant le dosage des différents éléments , une gamme de dynamites plus
puissantes que les précédentes. Les
usines de Nobel se développèrent très rapidement. En 1871, il en créa
une à peu près dans chaque pays d'Europe et deux aux États-Unis. En
1875, Nobel fit breveter les dynamites-gélatines. Elle sont faites de
gels formés à chaud par réaction de la nitroglycérine (environ 90%)
sur une nitrocellulose (coton poudre). En 1887, il inventa la
"balistite". C'est une poudre de nitroglycérine brûlant sans
fumée et que la majorité des pays utilisèrent bientôt comme poudre à
canon. Nobel reçut au total plus de 100 brevets d'invention.
Très riche, il devint une sorte de "citoyen
du monde", voyageant sans cesse et s'occupant activement de ses établissements
à l'étranger. Pleinement conscient de l'instrument de mort qu'il avait
mis entre les mains des puissances militaires, il apporta son appui à
plusieurs organismes européens en faveur de la paix.
Nhà hóa học đă xuất khẩu thuốc nổ
dynamite ra khắp châu Âu vào năm 1867 một cách trót
lọt, nhưng khi ông đem phát minh mới này sang Anh
và Mỹ, ông đă đụng phải nhiều
phiền toái.
Công chúng sợ nó, c̣n các nhà sản xuất thuốc
súng e rằng nó có thể làm hỏng việc làm
ăn buôn bán của họ, và các công ty hỏa xa v́
sợ nổ đă từ chối chuyên chở
loại thuốc nổ này.
Nhưng Alfred Nobel là một người đầy
nghị lực. Nếu tàu lửa không chịu chở
chất dynamite, ông sẽ chuyển nó bằng ngựa
thồ và xe kéo. Và ông làm như vậy thật! Tuy
nhiên, những rắc rối đến đây mới
chỉ là bắt đầu. Các nhà kinh doanh Hoa Kỳ
đă sao chép công thức thuốc nổ dynamite
của Nobel rồi tạo ra những loại thuốc
nổ mới với những tên gọi mới như
là vigorite hay hercules.
Trong thời kỳ này, Nobel vẫn tiếp tục các
thí nghiệm của ḿnh. Năm 1875, ông sáng chế ra
một loại thuốc nổ có thể nổ
được dưới nước. Nó gồm
một hỗn hợp để mồi thuốc súng trông
như thạch và nitroglycerine. Phát minh này nhanh chóng kéo
theo những vụ nổ mới.
Suốt cuộc đời, Alfred Nobel chưa bao giờ
có ư định áp dụng phát minh của ḿnh vào
mục đích giết người. Ông gọi
chiến tranh là "nỗi khủng khiếp nhất
của những điều khủng khiếp, tội
lỗi ghê tởm nhất trong mọi tội
lỗi". Ông chỉ muốn sử dụng dynamite
trong việc phá đá, khai thác mỏ, làm đường
xe lửa và xa lộ. Và loại thuốc nổ này
đă được dùng trong những mục đích
ḥa b́nh như thế. Nhưng khốn thay, các quốc
gia trên thế giới cũng không ngại tiêu phí
thời gian để t́m cách sử dụng thuốc
nổ phục vụ những mục đích hủy
diệt.
Thuốc nổ dynamite khiến Nobel trở thành một
người giàu sang. Đến năm ông chết -
1896 - ông đă làm chủ 93 xí nghiệp trên khắp
thế giới, sản xuất 66.000 tấn dynamite
mỗi năm. Ngày nay, con số ấy đă lên đến
400.000 tấn chỉ riêng ở Hoa Kỳ.
Nhà phát minh ra thuốc nổ dynamite cảm thấy có
tội v́ phát minh của ḿnh, ông đă cố t́m
mọi cách để làm nhẹ tội lỗi ấy.
Trong bản di chúc, Nobel yêu cầu sử dụng tài
sản của ông để làm giải thưởng hàng
năm trao cho những người có cống hiến
lớn đối với nhân loại trong những lĩnh
vực khác nhau. Ngày 10 tháng 12 năm 1901, giải Nobel
đầu tiên được trao cho 5 lĩnh vực:
vật lư, hóa học, y học, văn học - và quan
trọng nhất đối với Alfred Nobel: giải
thưởng ḥa b́nh!
Veneto
ĐẾ QUỐC
KỸ NGHỆ
Nhờ sự thành công, Nobel làm chủ một gia tài
khổng lồ.
Những công ty của Nobel:
Nobel Company, Nitroglycerin Ltd , 5 pḥng thí nghiệm (Đức,
Pháp, Tô Cách Lan, Thụy Điển, Ư), 90 xưởng
trong trên hai mươi nước, khai thác khoảng
350 bằng sáng chế của nhà phát minh không mỏi
mệt này. Đă chế tạo khỏang 65000 tấn
chất nổ mỗi năm.
NỖI CÔ ĐƠN
Nhưng báo chí và dư luận oán trách ông đă làm
giàu nhờ chế tạo ra nhưũng bộ máy
giết người mặc dù ông thuyết phục
họ rằng ông không hề nghĩ đến
chiến tranh mà chỉ có dụng ư xử dụngđể
khai thác hầm mỏ, và những công tŕnh dân sự.
Sức khỏe mong manh, tâm hồn ray rứt, người
giàu nhất Âu châu lang thang không gia đ́nh, không
vợ con và chết bên cạnh người đầy
tớ.
CHÚC THƯ
CỦA NOBEL
Tháng 1 năm 1897, ông giao gia tài khổng lồ, rải
rác khắp nơi trong nhiều nước, cho một
tổ chứx để mỗi năm phát cho 5 NGƯỜI
ĐĂ GIÚP ÍCH CHO NHÂN LOẠI về Vật lư, Hóa
học, Y học, Văn chương và Ḥa b́nh trong năm
vừa qua. Tổ chức khoảng tháng 10.
Năm 1968 thêm một giải thưởng nữa là
về Khoa học Kinh tế.
Phải tốn 4 năm, nhờ sự can thiệp
của vua Thụy Điền và Na uy mới giải
quyết được nhiều vấn đề
luật pháp, chính trị và tài chánh của tổ
chức.
Năm 1901 những giải thưởng Nobel đầu
tiên được giao cho những tổ chức liên
hệ:
- Giải Vật lư và Hóa học được giao
cho Hàn lâm viện Khoa học Thụy Điển (Académie
royale des sciences de Suède),
về Y khoa cho Viện Karolinska ở Stockholm,
- Giải Ḥa b́nh được giao cho một ban
gồm 5 hội viên được bầu cử
bởi quốc hội Na Uy, sau khi 2 vương quốc
Na Uy và Thụy Điển tách rời nhau.
|