Trên đất nước Hoa Kỳ, không
một người Mỹ nào được vinh
danh hơn ông George Washington. Thủ Đô của
quốc gia Hoa Kỳ được đặt
bằng tên của ông và cũng tại Thủ
Đô D.C., đài kỷ niệm Washington vươn
lên chót vót, cao hơn tất cả các công trình
kiến trúc trong toàn vùng. Trong 50 tiểu bang
của đất nước Hoa Kỳ, duy
nhất có một tiểu bang được mang
tên một vị Tổng Thống : tiểu bang
Washington ở miền Tây Bắc. Danh tiếng
của ông George Washington còn được dùng
tại rất nhiều thành phố, công viên,
hồ nước, cầu lớn, đại
lộ, trường học… và hình ảnh
của ông Washington được in lên trên
tờ giấy bạc một Mỹ kim, trên
tiền kim loại 25 xu và trên các con tem Bưu
Điện.
Ông George Washington là "Người Cha của
Đất Nước Hoa Kỳ" và trong
mọi trái tim của người Mỹ luôn luôn
ghi khắc hình ảnh của vị khai sáng ra
một quốc gia mới, một xứ sở
thịnh vượng và hùng mạnh. Ông George
Washington đã đóng góp rất nhiều
bằng 3 công lao: ông đã chỉ huy quân đội
lục địa để chống lại người
Anh, giành lấy Độc Lập trong cuộc
chiến tranh Cách Mạng, ông cũng là chủ
tịch của Uûy Ban soạn thảo ra Bản
Hiến Pháp và cuối cùng, ông đã được
bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên
của xứ Hoa Kỳ, đã điều
khiển quốc gia non trẻ này trong thời
kỳ lập quốc khó khăn. Vì thế, tên
họ của ông đã là những từ
ngữ tượng trưng cho niềm danh
dự, lòng trung thành và tình yêu đất nước.
1- Giòng họ Washington.
Ông cụ thân sinh ra ông nội của George
Washington là John Washington (1632-1677), đã từ nước
Anh tới châu Mỹ trên một con tầu
nhỏ, lên bờ tại vùng sông Potomac vào năm
1656 hoặc 1657. Trong khi con tầu đang
được sửa chữa, ông John quyết
định ở lại miền Bắc Mỹ,
lập gia đình và định cư tại
xứ Virginia ngày nay. Sau 20 năm làm việc
gồm khai khẩn đất hoang, buôn bán và lãnh
đạo binh đội, ông John đã mua
được hơn 2,000 hecta đất
thuộc hạt Westmoreland và cả vùng đất
mà sau này được gọi là Mount Vernon. Người
con trai lớn của ông John tên là Lawrence
Washington (1659-1698) là ông nội của George
Washington. Không có tài liệu ghi chép về ông
cụ Lawrence nhưng một người con trai
nhỏ nhất của ông cụ này tên là
Augustine Washington (1694-1743) là một người
nhiều nghị lực, đã tham gia vào
nhiều phạm vi hoạt động như canh
nông, thương mại, hầm mỏ và khai
khẩn đất rừng nhờ đó, vùng
đất sở hữu của gia đình
Washington đã được mở rộng như
một bán đảo, giữa hai miền Popes
Creek và Bridges Creek.
Ông Augustine Washington có 4 người con với bà
vợ trước tên là Jane Butler nhưng hai người
con chết sớm, rồi vì bà vợ này
mất vào năm 1729 nên ông đã cưới bà
Mary Ball (1709-1789), người đã sinh ra ông
George Washington. Cha của bà Mary Ball là Đại
Tá William Ball, đã tới định cư
tại Virginia vào khoảng năm 1650. Bà Ball
bị mồ côi cha mẹ năm 13 tuổi nên
đã thừa hưởng 400 mẫu đất
của vùng này, một số nữ trang, nhà
cửa, gia súc và một số nô lệ.
George Washington là con trai lớn của ông Augustine
và bà Mary Ball, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732 (theo
lịch thời đó là ngày 11 tháng 2), tại
đồn điền Bridges Creek mà sau này
được gọi là Wakefield. George Washington còn
có 5 anh chị em cùng mẹ là Elizabeth, Samuel, John
Austine, Charles và Midred và hai người anh khác
mẹ là Lawrence và Augustine, lớn hơn 14 và 12
tuổi nhưng cả ba anh em này rất hòa
thuận và giúp đỡ lẫn nhau.
2- Tuổi trẻ
của George Washington.
Khi George lên 3 tuổi, gia đình dọn về
một đồn điền rộng lớn hơn,
tọa lạc tại phía bắc giòng sông Potomac
với tên gọi là Epsewasson hay Little Hunting Creek.
Vào năm 1738, ông Augustine lại mua thêm nông
trại Ferry Farm hay River Farm tại Rappahannock,
đối diện với Fredericksburg và mang
cả gia đình về nơi đây cư
ngụ. George Washington lớn lên trong khung cảnh
miền rừng đồi vắng vẻ này. Có
lẽ tại Fredericksburg, George Washington đã
đi học. Không còn tài liệu nào ghi chép ai
đã là các vị thầy cô giáo của
miền này. George Washington đã theo học
khoảng 7 hay 8 năm, và môn học ưa thích
nhất của George là Số Học. Ngoài ra
George còn học thêm về môn lịch sử và
địa dư nhưng thiếu hiểu
biết về văn chương, ngoại
ngữ, và George Washington không hiểu biết
nhiều lịch sử như Thomas Jefferson hay
James Madison.
Năm George Washington lên 11 tuổi, người
cha qua đời. Miền đất Epsewasson
được giao cho người anh cùng cha khác
mẹ là Lawrence. Vùng Wakefield, nơi George đã
chào đời, thuộc về người anh
Augustine. Lawrence cưới cô Anne Fairfax là một
thiếu nữ rất giàu có nên đã thừa
hưởng một miền đất rộng
lớn, được sát nhập với khu cư
ngụ Epsewasson và gọi bằng tên Mount Vernon,
để tưởng nhớ tới Đô Đốc
Vernon là người đã phục vụ tại
vùng biển Tây Aán (West Indies).
George Washington sống với mẹ và lớn lên
tại Ferry Farm. Nơi này là một đồn
điền với 20 nô lệ, trồng thuốc
lá, trái cây, ngũ cốc và rau tươi. Chính
tại nơi đây George đã học cách câu
cá, chèo thuyền, săn bắn và giúp công vào
việc chặt cây, bửa củi. Đời
sống tại vùng thuộc địa Bắc
Mỹ có tính cách khai phá, đòi hỏi sự
kiên nhẫn và sức mạnh, đã khiến
cho George có được các đức tính
tốt.
George Washington rất kính phục người anh
cùng cha khác mẹ tên là Lawrence. Người anh này
được giáo dục tại nước Anh
và đã xuống Nam Mỹ phục vụ
với cấp bậc Đại Uùy trong cuộc
chiến tranh giữa nước Anh và nước
Tây Ban Nha. Anh Lawrence tuy không tham chiến nhưng
đã trở về Virginia, kể cho George nghe
nhiều câu chuyện chiến đấu, làm tăng
thêm trí tưởng tượng của George.
Đây cũng là lý do tại sao George thường
tới thăm anh Lawrence tại căn nhà mới
xây cất nơi vùng Mount Vermon. Anh Lawrence có ý
định để George tham gia Hải Quân Hoàng
Gia Anh nhưng bà mẹ không muốn xa con. Do
giỏi về Toán Học, George Washington học
nghề đo đất và đã vẽ
được các bản đồ trong vùng.
Năm 1748, George tới sống với anh Lawrence
tại Mount Vernon và nhờ đó, đã làm quen
được với một số người
danh tiếng địa phương, trong đó có
Lord Fairfax, một người bà con của
chị Lawrence và là chủ nhân của 5 triệu
sào đất thuộc Virginia. Lord Fairfax đã
nhờ George đo đạc các miền đất
ở bên ngoài rặng núi Blue Ridge, một công
việc vừa cực nhọc, vừa nguy
hiểm nhưng George đã làm xong trong hơn
một năm. Sau đó, cũng do ảnh hưởng
của Lord Fairfax, George được bổ
nhiệm làm nhân viên đo đạc của
hạt Culpeper, một công vụ đầu tiên.
George Washington nhận chức vụ ngày 20/7/1749.
Ngoài việc đo đất, George Washington
với dáng người cao lớn, to mập,
đã sống như một thanh niên trưởng
giả nông thôn.
Năm 1751, anh Lawrence bị bệnh nặng nên
muốn cùng với George đi tới Barbados là
miền nắng ấm thuộc vùng Trung Mỹ.
Hai anh em đã ra đi và tại miền
nhiệt đới này, George bị bệnh đậu
mùa khiến cho sau này còn mang vài vết sẹo
trên mặt. George Washington trở lại Virginia lúc
20 tuổi và đã gặp cô Betsy Fauntleroy, con gái
của một chủ đồn điền và
chủ tầu giàu có, nhưng mối tình đầu
của George đã bị cự tuyệt. Tháng 6
năm 1752, anh Lawrence trở về Bắc Mỹ
rồi chết vì bệnh lao phổi, để
lại miền Vernon cho vợ và cũng đã dành
cho George một phần đất tại thung lũng
Shenandoah cùng với ba người anh em khác.
3- Cuộc đời binh nghiệp.
Vào tuổi 20, George Washington không được
huấn luyện hay không có kinh nghiệm gì
về quân sự nhưng các câu chuyện
chiến tranh của anh Lawrence đã làm cho George
quan tâm. George liền xin vị Thống Đốc
địa phương một chức vụ quân
sự. Năm 1753, Thống Đốc Dinwiddie ban
cho George cấp bậc thiếu tá để
huấn luyện dân quân địa phương
tại miền nam Virginia. Có lẽ vào thời
gian này, George Washington đã tìm đọc các sách
vở về chiến thuật và huấn
luyện quân đội.
Tháng 10 năm 1753, Thống Đốc Dinwiddie
cử George Washington đi tới miền thung lũng
của giòng sông Ohio để đưa một
bức thư cho vị chỉ huy đồn Le
Boeuf. Bức thư này phản kháng việc người
Pháp xây dựng một dãy đồn lũy trên
phần đất nằm giữa hồ Ontario và
sông Ohio. Cả người Anh và người Pháp
thời đó đều muốn giành miền
thung lũng này làm nơi trao đổi lông thú
với dân da đỏ. George Washington đã ra
đi, giao bức thư phản kháng và nhận
xét đầy đủ các hoạt động
của người Pháp. Cuộc hành trình kéo dài
10 tuần lễ với khá nhiều nguy hiểm.
Hai lần George bị thổ dân da đỏ
bắn khá gần và một lần bị
rớt từ một cái bè xuống giòng sông
Allegheny đầy đá lạnh.
Ngày 16 tháng 1 năm 1754, George Washington trở
lại Williamsburg, Va., và giao bức thư trả
lời của người Pháp cho Thống Đốc
Dinwiddie đồng thời cũng khuyên ông
Thống Đốc nên cho lập một đồn
lũy tại nơi gặp nhau của 2 giòng sông
Ohio và Allegheny, địa điểm mà sau này là
thành phố Pittsburgh. Vì thế ông Thống Đốc
đã ra lệnh cho một số người biên
giới xây dựng đồn lũy đó,
biết đâu rằng sự việc này đã
mở đầu cuộc chiến tranh với người
Pháp và dân Da Đỏ (the French and Indian War).
Không lâu sau đó, George Washington được
phong cấp bậc Trung Tá của dân quân địa
phương rồi nhận lệnh cùng với
200 binh lính loại này, tiến tới đồn
lũy mà người Pháp đặt tên là Fort
Duquesne. Ngày 28/5/1754, George Washington đã ra
lệnh tấn công bất ngờ, khiến cho toán
quân Pháp bị chết 10 người, 1 người
bị thương, 21 người đầu hàng.
Các binh lính của George Washington sau chiến
thắng, đã xây đắp một đồn
lũy mới, cách Fort Duquesne 97 cây số về
phía nam và được đặt tên là Fort
Necessity. Vào lúc này, George Washington được
phong cấp bậc Đại Tá.
Tại Fort Necessity, George Washington có vào khoảng
180 dân quân Virginia rồi tới ngày 14/6/1754,
gần 100 binh lính Anh cũng tới tăng cường
cho đồn lũy này. Ngày 3/7, quân đội
Pháp phối hợp với dân da đỏ, đã
tấn công đồn và sau trận đánh, 30
người của George Washington đã bị
giết, hơn 70 người bị thương,
lương thực đã cạn, thời
tiết rất xấu… tất cả đã
khiến cho George Washington phải đầu hàng,
trả lại các tù binh cũ. George Washington
trở lại Williamsburg hai tuần lễ sau và
được Nghị Viện Burgess của
Virginia khen ngợi vì lòng cam đảm.
Qua tháng 10 năm đó, George Washington trở
lại Williamsburg thì được Thống
Đốc Dinwiddie cho biết lệnh từ nước
Anh không cho phép một sĩ quan thuộc địa
nào được mang cấp bậc cao hơn
Đại Uùy, trong khi George Washington lại đang
muốn theo đời binh nghiệp. Vì thế ông
liền từ chức, trở về miền
Vernon, thuê thêm đất đai để
trồng thuốc lá.
Tháng 3 năm 1755, George Washington nhận được
một bức thư của Thiếu Tướng
Edward Braddock. Vị tướng người Anh này
muốn mời George Washington giúp công vào
chiến dịch chống người Pháp
tại Fort Duquesne. Washington nhận lời vì cho
rằng đây là một cơ hội để
học hỏi kinh nghiệm quân sự. Tướng
Braddock liền tập trung quân lực tại Fort
Cumberland, Md., 140 cây số về phía đông nam
của Fort Duquesne rồi vào ngày 7 tháng 6, theo
lối diễn hành, binh phục sặc sỡ,
đoàn quân Anh ra trận. Nhìn thấy cảnh
tiến quân của vị Tướng người
Anh này, Washington rất bất mãn. Ông đã
cảnh giác Tướng Anh về cách đánh lén
của quân Pháp và dân Da Đỏ. Toán quân Anh
sau đó đã lọt vào địa điểm
phục kích của người Pháp và kết
quả là 3 phần 4 trong số 1,400 binh lính chính
quy Anh bị giết hoặc bị thương và
chính Tướng Braddock cũng tử trận.
Tại các khu vực biên giới, người Pháp
thời đó đã khuyến khích dân da đỏ
tấn công những người định cư
Anh vì thế, vào tháng 8/1755, Thống Đốc
Dinwiddie phải mời George Washington giữ
chức Đại Tá, coi toàn thể dân quân
Virginia để kiểm soát phần biên
giới trải dài 350 dậm hay 563 cây số.
Đây là một danh dự lớn lao cho một
sĩ quan trẻ 23 tuổi.
George Washington thường khuyên người Anh nên
đánh chiếm Fort Duquesne nên vào năm 1758, quân
chính quy người Anh và dân quân của George
Washington đã tập trung tấn công đồn
lũy đó. Trước tình thế không
chống đỡ nổi, người Pháp đã
đốt trụi đồn lũy này và rút
về Canada. Cuộc chiến tranh với người
Pháp và dân Da Đỏ coi như kết thúc.
George Washington trở nên vị sĩ quan thuộc
địa nổi danh nhất. Ông đã
chứng tỏ có đầy đủ lòng cam
đảm, tính kiên nhẫn cùng tài năng
huấn luyện và lãnh đạo binh lính.
4- Các năm thái bình.
Vào tuổi 26, George Washington trở về đời
sống dân sự. Mùa xuân năm 1758, ông kết
hôn với một góa phụ trẻ đẹp và
giàu có, bà Martha Dandridge Curtis, người đã
có hai con riêng tên là Patty và Jack và sở hữu
hơn 7,300 hecta đất gần Williamsburg. Đám
cưới được tổ chức rất
sang trọng có lẽ tại hạt New Kent.
Sau 6 tuần lễ trăng mật, George Washington
đem gia đình về Williamsburg, ông trở nên
một chủ trại giàu có nhất và khôn
ngoan nhất vùng Virginia. Ông nghiên cứu các phương
pháp trồng trọt đồng thời cũng
được bầu làm nhân viên lập pháp
địa phương, thuộc nghị viện
Burgess. George Washington được cả
giới quý tộc lẫn giai cấp bình dân kính
trọng và quý mến vì tư cách, vẻ nghiêm
trang và lòng tử tế, nhân hậu của ông.
Ông cũng làm quen và đạt được
niềm tin tưởng của các nhà lãnh đạo
thuộc địa Virginia, những vị này
bắt đầu nói về sự chống đối
chính quyền cai trị của nước Anh
trong đó phải kể tới Thomas Jefferson và
Patrick Henry. Cũng nhờ thời gian phục
vụ tại Nghị Viện Virginia, George
Washington đã học hỏi được các
phương thức của một chính quyền
dân cử, nhận thấy rõ các khó khăn khi
một đạo luật được thông
qua. Những kinh nghiệm sống này đã giúp
cho George Washington có được đức tính
nhẫn nại cần thiết cho cuộc
chiến tranh Cách Mạng và về sau này, dùng
để thương lượng với
Quốc Hội khi làm Tổng Thống Hoa Kỳ.
Vào tháng 4/1759, George Washington dọn về Mount
Vernon vì cả người chị dâu Lawrence
lẫn con gái đã qua đời. Ông mua lại
phần đất chung quanh rồi tới năm
1770, đã đi quan sát tới tận miền
đất xa xôi mà ngày nay là thành phố
Gallipolis, Ohio. Năm 1773, George Washington đã làm
chủ được 16,000 hecta đất,
trồng nhiều loại hoa màu, từ thuốc
lá tới lúa mạch rồi khai thác cả
về xay bột và đánh bắt cá.
5- Tham gia cuộc Cách
Mạng Hoa Kỳ.
Vào cuối thập niên 1760 và đầu
thập niên 1770, các người thuộc địa
Bắc Mỹ đã trở nên giận dữ vì
nước Anh áp đặt các loại thuế
cao lên đầu họ. Cuộc chiến tranh
với người Pháp và dân Da Đỏ
(1754-63) đã làm gia tăng phần đất
sở hữu của nước Anh tại
Bắc Mỹ và chính quyền Anh Quốc vì
thế quyết định phải đặt quân
đội Anh tại các xứ thuộc địa
này để ngăn chặn người Pháp và
bảo vệ dân thuộc địa khỏi
sự tấn công của thổ dân Da Đỏ.
Sự kiện kể trên đã khiến người
Anh cho rằng các xứ thuộc địa
phải đóng góp vào các chi phí yểm trợ
quân đội. Để làm giảm bớt
nợ nần, chính phủ Anh đã thông qua
một đạo luật, có tên là Đạo
Luật Tem Thuế (the Stamps Acts) vào năm 1765,
theo đó tất cả các tài liệu quan
trọng, các tạp chí, sách lịch, sách
mỏng và các cỗ bài… đều phải
chịu thuế.
Loại tem thuế này đã gây công phẫn nơi
dân địa phương vì 3 lý do : thứ
nhất, dân thuộc địa Bắc Mỹ gánh
chịu thuế mà không có đại diện;
thứ hai, họ phản đối sự có
mặt của quân đội Anh và thứ ba,
thuế phải trả bằng tiền
"bạc". Các phản đối đã
khiến ông Benjamin Franklin phải qua bên Anh
Quốc để thương thảo, đồng
thời 9 thuộc địa Bắc Mỹ đã
lập nên Nghị Viện Tem Thuế (the Stamp Act
Congress), họp tại thành phố New York vào ngày
7/10/1765 và Nghị Viện đã tuyên bố
rằng chỉ các "nghị viẹân
thuộc địa" mới có quyền đánh
thuế người dân xứ này. Việc
phản đối luật tem thuế đã
khiến cho nhiều cửa hàng thương
mại không dán tem và các thương gia đồng
ý không nhập cảng hàng hóa từ nước
Anh. Các xáo trộn kinh tế, luật pháp…
đã khiến cho vào mùa đông năm 1766,
giới dân nghèo bị thất nghiệp,
chịu thiệt hại nhiều nhất.
Là một nhà lập pháp địa phương
và một chủ trại giàu có, ông George
Washington rất quan tâm đến sự liên
lạc với nước Anh. Ông đã đọc
rất nhiều sách báo bàn thảo về các
khủng hoảng chính trị thời đó,
về các công việc của các xứ thuộc
địa, đồng thời ông cũng tham
khảo với những người hiểu
biết, học rộng, trong đó có ông George
Mason, một chính trị gia hàng đầu
của thời đại.
Sự khủng hoảng địa phương
đã khiến cho vị Thống Đốc người
Anh của miền Virginia là Lord Botetourt ra lệnh
giải tán Nghị Viện Virginia vào năm 1769
vì các đại biểu đã phản đối
đạo luật tem thuế. Ông George Washington
liền cùng các nhà lập pháp khác hội
họp tại một quán rượu của
Williamsburg và đề nghị một chương
trình tẩy chay hàng hóa nhập cảng từ nước
Anh và chương trình này đã được
với ông George Mason bàn luận tới trước
kia. Ông George Washington trở nên một trong các lãnh
tụ người địa phương đầu
tiên muốn cứu xét việc dùng sức
mạnh để "duy trì nền tự do
của các xứ thuộc địa".
Sự chống đối luật tem thuế, không
nhập cảng hàng hóa Anh cũng làm cho các thương
gia bên Anh Quốc bị ảnh hưởng,
họ đã áp lực chính phủ Anh phải
duyệt xét lại đạo luật và ngay
tại Quốc Hội Anh, ông William Pitt Già (the
Elder) đã đồng ý với công cuộc
tranh đấu của các người thuộc
địa Bắc Mỹ. Vào tháng 3 năm 1766,
đạo luật Tem Thuế đã được
thay bằng một đạo luật khác (the
Declaratory Act), trao quyền tối cao cho Quốc
Hội và quy định rằng chỉ Quốc
Hội Anh mới có quyền lập pháp và
quyền đánh thuế các xứ thuộc địa.
Các rắc rối của nước Anh đối
với xứ thuộc địa Bắc Mỹ còn
tiếp tục. Năm 1774, người Anh đã
đóng cửa hải cảng Boston cho đến
khi nào đòi được tiền bồi thường
về số lượng trà bị các người
thuộc địa Bắc Mỹ ném xuống
biển vào năm 1773. Sau đó tới Đạo
Luật Chính Quyền Massachusetts (the Massachusetts
Government Act) đã cho phép thiết lập một
chính quyền quân sự và Đạo Luật Tư
Pháp Hành Chánh (the Administration of Justice Act) đã
biệt đãi các nhân viên phạm pháp người
Anh được xét xử khi về Anh Quốc
hay qua một xứ thuộc địa khác.
Sự áp chế của chính quyền Anh đối
với xứ thuộc địa Bắc Mỹ
đã khiến cho các nhà chính trị tại
Massachusetts kêu gọi triệu tập vào tháng
6/1774 một hội nghị bao gồm tất
cả các xứ thuộc địa ngoại
trừ xứ Georgia. 44 đại biểu đã
tới họp vào ngày 5 tháng 9 năm 1774 tại
phòng lớn Carpenter thuộc thành phố
Philadelphia. Đây là Quốc Hội Lục Địa
Thứ Nhất (the First Continental Congress) với ông
Peyton Randolph thuộc miền Virginia được
đồng thanh bầu làm chủ tịch và
mỗi xứ thuộc địa được
chia một phiếu bầu bất kể tới
diện tích lớn nhỏ, dân số nhiều ít.
Trong số các đại biểu ban đầu
đã có các ông George Washington, John Jay, Patrick Henry,
John Adams và Samuel Adams. Tới năm sau, 1775,
Quốc Hội này còn có thêm Benjamin Franklin và
Thomas Jefferson tham gia. Các đại biểu
của Quốc Hội Lục Địa đã
bỏ phiếu công nhận một bản tuyên
bố về Dân Quyền (a declaration of rights)
gồm các quyền về đời sống,
tự do, tài sản, hội họp và quyền
được xét xử do một bồi
thẩm đoàn.
Tại Quốc Hội Lục Địa Thứ
Nhất, ông George Washington đã có cơ hội
gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các
xứ thuộc địa khác. Nhiều đại
biểu đã phải khâm phục kiến
thức quân sự và tài xét đoán của ông
Washington. Quốc Hội này cũng đồng ý
tẩy chay sự giao dịch thương mại
với nước Anh.
Vào tháng 3/1775, các đại biểu của
xứ Virginia họp nhau tại một nhà
thờ của thành phố Richmond, Va., và ông
Washington cũng như các vị khác đã nghe bài
diễn văn hùng hồn của Patrick Henry trong
đó có câu: "Cho tôi Tự Do hay cho tôi
Chết" (Give me liberty or give me death). Sau đó,
các đại biểu này đồng tâm bầu
ông George Washington đi đại diện xứ
Virginia tại Quốc Hội Lục Địa
Thứ Hai (the Second Congress).
Khi Quốc Hội Thứ Hai khai mạc vào ngày
10/5/1775, đã xẩy ra các trận chiến
giữa người thuộc địa Bắc
Mỹ và người Anh tại Lexington và Concord
thuộc xứ Massachusetts. Trong 6 tuần lễ
tranh luận, phần lớn đại biểu
trong đó có ông Washington muốn tránh chiến
tranh, nhưng sự tranh chấp với người
Anh càng trở nên căng thẳng khiến cho ông
George Washington được Quốc Hội
chỉ định vào một ủy ban quân
sự. Ông được yêu cầu lập ra
một kế hoạch phòng thủ thành phố
New York, viết ra các chương trình xây
dựng quân đội, các quy luật cho binh lính
và các cách thức mua súng đạn.
Sau đó vào tháng 6, Quốc Hội Lục Địa
họp tại các xứ Pennsylvania, Maryland và
Virginia, đã bàn tới việc gửi quân
trợ giúp thành phố Boston là nơi đang
nằm dưới quyền kiểm soát của
người Anh. Ông John Adams đã trình bày trước
Quốc Hội rằng cần phải có một
vị Tổng Tư Lệnh và đã ca ngợi
ông George Washington là người có thể đoàn
kết các xứ thuộc địa trong khi các
đại biểu của xứ Tân Anh Cát
Lợi lại muốn bầu cho một người
miền bắc nhưng cuối cùng, ông George
Washington đã được đồng thanh
chấp thuận.
Các người thuộc địa Bắc
Mỹ vào thời kỳ này đã được
dạy dỗ phải kính trọng Vua nước
Anh. Họ cũng không dễ dàng chấp
nhận các ý niệm về Độc Lập,
ngoài ra còn hàng ngàn người thuộc địa
trung thành và có cảm tình với nước Anh
(the Loyalists), đã từ chối tranh đấu
cho một nền Độc Lập mới. Do
nhận thấy các quyền lợi của dân
thuộc địa bị vi phạm, Quốc
Hội Lục Địa Bắc Mỹ đã công
bố Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (the
Declaration of Independence) vào ngày 4 tháng 7 năm 1776 và
ông George Washington đã là niềm tin của
cả những kẻ chống đối lẫn
các người ủng hộ Quốc Hội.
Hầu Tước De Lafayette về sau đã
phải viết rằng ngoài ông George Washington, không
ai tại Bắc Mỹ có thể duy trì
được quân đội và Cuộc Cách
Mạng lâu hơn 6 tháng.
Từ khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
được công bố, Tướng George
Washington đã là vị chỉ huy quân đội
lục địa. Ít khi ông có hơn 15,000 quân sĩ.
Dưới quyền ông vào thời đó có hai
loại lính: lính được tổ chức
bởi Quốc Hội và dân quân do các xứ
thuộc địa tuyển mộ. Các binh lính
của Quốc Hội Lục Địa thường
phục vụ ngắn hạn, hàng ngàn người
bỏ về nhà khi hết thời hạn, còn
loại dân quân gồm các nông dân, chủ
tiệm nhỏ, thợ thuyền… thiếu
huấn luyện, họ thường bỏ
chạy khi thấy binh phục màu đỏ
của quân đội Anh. Việc đào ngũ
của binh lính cũng là một trở ngại
lớn lao đối với ông George Washington. Ngoài
ra còn có các sĩ quan kém khả năng và các
cấp tướng được Quốc
Hội bổ nhiệm vì lý do chính trị mà không
hỏi ý kiến ông George Washington. Các vị tướng
như Charles Lee và Horatio Gates đôi khi không tuân
lệnh ông Washington vì họ tin rằng họ
đáng được tuyển chọn làm
Tổng Tư Lệnh quân đội. Tướng
Thomas Conway còn chỉ trích ông George Washington vì có
sự yểm trợ từ Quốc Hội.
Vào giai đoạn ban đầu như vậy,
đội quân của Tướng George Washington
vừa thiếu huấn luyện, vừa
thiếu thực phẩm, quần áo và súng đạn.
Năm 1777, Tướng Washington đã phải ra
lệnh rút lui khỏi thành phố Philadelphia trước
khi quân Anh tiến tới. Mùa đông năm
đó, Tướng Washington đặt bộ
chỉ huy tại Valley Forge, Pa., một nơi cách
thành phố Philadelphia 32 cây số về phía tây
bắc. Sở dĩ nơi này được
chọn lựa vì là một địa điểm
chiến lược nằm giữa quân đội
Anh và Quốc Hội Lục Địa khi đó
đang đóng đô tạm tại thị
trấn York, Pennsylvania.
Sau các trận đánh Brandywine và Germantown, đội
quân thuộc địa chỉ còn 11,000 binh lính.
Đây là những người thiếu ăn,
thiếu quân trang và súng đạn, hàng trăm
người lính không có giầy, phải đi
chân không, hơn 2,000 lính đào ngũ và Tướng
Nathanael Greene đã mô tả đạo quân
của Tướng George Washington là "một
nửa trơ trụi, hai phần ba đói ăn…".
Đoàn ngựa chiến cũng ở trong hoàn
cảnh thiếu thực phẩm. Quốc Hội
Lục Địa cũng không có phương cách
nào khác hơn để trợ giúp quân đội
trong thời kỳ đen tối của cuộc
Chiến Tranh Cách Mạng này. Nhưng quân đội
thuộc địa này đã không thiếu lòng
cam đảm và tinh thần hy sinh. Dưới tài
huấn luyện của Bá Tước Frederick
William von Steuben, các binh lính được
tập dượt để trở nên một
lực lượng chiến đấu có kỷ
luật và hữu hiệu.
Trong cuộc chiến tranh giành Độc Lập
này, người Mỹ thuộc địa đã
có nhiều lợi điểm. Họ hiểu rõ
địa hình hơn, dễ dàng tập trung
hỏa lực tại nơi hiểm yếu để
đánh phá quân đội Anh vào lúc cần,
trong khi binh lính Anh lại thiếu tinh thần
chiến đấu và binh lực Anh chỉ đủ
người tấn công các xứ thuộc địa
trung tâm của lãnh thổ Bắc Mỹ rộng
lớn, trải dài từ Maine tới Georgia và sâu
vào trong lục địa tới 300 dậm.
Việc chuyên chở tiếp liệu từ nước
Anh qua Bắc Mỹ cũng là một trở
ngại trái ngược với việc dân quân
thuộc địa có thể tự túc lâu dài.
Vào thời gian đầu của cuộc Cách
Mạng Hoa Kỳ, Quốc Hội Lục Địa
đã gửi tới nước Pháp các đại
sứ để yêu cầu trợ giúp về
quần áo và súng đạn. Chiến thắng
Saratoga vào năm 1777 là do võ khí và quân trang
từ nước Pháp, và các cá nhân người
Pháp, đứng đầu là Hầu Tước
De Lafayette, đã sang Bắc Mỹ và giúp đỡ
quốc gia non trẻ Hoa Kỳ.
Ngay từ đầu cuộc chiến, ông George
Washington đã nhận ra sức mạnh của
Hải Quân Anh. Các tầu chiến Anh có thể
chở quân lính tới bất cứ nơi nào
trên miền duyên hải Bắc Mỹ trong khi quân
đội Anh lại di chuyển rất chậm
chạp trên bộ. Từ kinh nghiệm trong
cuộc chiến tranh với người Pháp và
dân Da Đỏ, ông George Washington cho rằng ông
có thể đánh bại quân đội Anh
nếu có hạm đội Pháp tới giúp, ngăn
chặn không cho lực lượng Hải Quân
Anh bỏ chạy. Cách tính toán này đã đến
vào ngày 28 tháng 9 năm 1781, khi Tướng George
Washington hạ lệnh tấn công đội quân
của Lord Charles Cornwallis và hạm đội Pháp
đã bao vây ngoài biển. Kết quả là Tướng
Cornwallis và 8,000 binh lính Anh đã phải đầu
hàng vào ngày 19 tháng 10 năm đó tại thành
phố Yorktown, Virginia.
Sau cuộc chiến thắng rực rỡ này,
một số sĩ quan quân đội lục
địa cảm thấy họ bị Quốc
Hội đối xử bất công. Tháng 5 năm
1782, Đại Tá Lewis Nicola gửi tới ông
George Washington lời thỉnh cầu của đa
số sĩ quan muốn thiết lập nên
một chế độ quân chủ theo đó ông
Washington sẽ làm Vua. Ông George Washington đã
"ghê sợ" đề nghị đó và ra
lệnh cho Đại Tá Nicola nên dẹp bỏ
ý định trên.
Vào tháng 11 năm 1783, tin tức về Hiệp
Ước Paris đã được ký kết
bay tới Bắc Mỹ và các binh lính Anh
cuối cùng xuống tầu tại thành phố
New York để về xứ vào ngày 25 tháng 11 năm
đó.
Ngày 4 tháng 12 năm 1783, ông George Washington từ
giã các sĩ quan dưới quyền tại
Fraunces Tavern và trên đường trở về
Virginia, ông đã tạt qua tham dự buổi
họp của Quốc Hội Lục Địa
tại Annapolis, Md., và trả lại quyền
Tổng Tư Lệnh. Ông đã nói : "Tôi xin
từ chức sau khi đã hoàn thành nhiệm
vụ chỉ định mà tôi đã nhận
với lòng thiếu tự tin. . .".
6- Phục vụ chính
quyền.
Ông George Washington trở về Mount Vernon năm
1783 như một công dân bình thường, lúc này
ông đã 51 tuổi với mái tóc bắt đầu
bạc và mắt phải mang kính. Ông lại quan
tâm về canh nông, dùng phương pháp luân canh
và phân bón, nuôi cừu và lừa, khai phá đất
hoang và thỉnh thoảng vẫn tiếp đón
các khách phương xa, các bạn bè tạt qua
thăm viếng. Ông George Washington vẫn tin tưởng
vào việc phát triển xứ sở về phía
tây. Năm 1784, ông đã làm một cuộc hành
trình trên lưng ngựa dài 680 dậm (1,090 cây
số) theo hướng tây để thăm thú
vùng đất hoang nằm tại phía tây nam
Pittsburgh. Ông cũng giúp đỡ 2 công ty đào
các con kênh dọc theo sông Potomac và sông James đồng
thời tham dự vào chương trình cải
tạo đồng lầy Dismal ở miền nam
Virginia.
Vào năm 1786, tình trạng rối loạn và vô
chính phủ đã xẩy ra tại xứ
thuộc địa Bắc Mỹ. Tại
Massachusetts có cuộc nổi loạn Shay. Cuối
cùng các tiểu bang non trẻ Hoa Kỳ đồng
ý phải hội họp vào năm 1787 để
cứu xét lại các Điều Lệ của
Liên Bang (the Articles of Confederation). Hiến Pháp
đầu tiên của Hoa Kỳ được
viết ra vào năm 1776 khi cuộc chiến tranh
Cách Mạng còn đang diễn tiến và
được gọi bằng danh hiệu "Các
Điều Lệ của Liên Bang". Văn
kiện này đã không được tất
cả các tiểu bang phê chuẩn khi Hoa Kỳ
tuyên bố độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm
1776. Trong thời gian này, Quốc Hội Lục
Địa là chính quyền trung ương duy
nhất. Người dân Hoa Kỳ vào năm 1776
đã không tin tưởng một chính quyền
tập trung, có quá nhiều quyền hành. Vì
thế 7 tiểu bang đã đề nghị văn
bản Luật Dân Quyền (the Bill of Rights) theo
đó có nhiều điều mà chính quyền
trung ương không được phép vi
phạm, chẳng hạn như chính quyền không
thể tước đi tài sản của công dân
mà không bồi thường, không được
phép bắt giam công dân nếu không có lý do chính
đáng và người công dân có quyền
được xét xử trước bồi
thẩm đoàn.
Quốc Hội Lập Hiến của Hoa Kỳ
được trù liệu tổ chức tại
Philadelphia vào tháng 5 năm 1787. Ông George Washington
được đồng thanh cử làm vị
đứng đầu đoàn đại
biểu của xứ Virginia. Khi ông tới
Philadelphia, nhiều người đã nghênh đón
ông, chuông nhà thờ đã đổ nhiều
hồi, chào mừng ông. Các đại biểu
đã bầu ông George Washington làm Chủ
Tịch của Quốc Hội Lập Hiến.
Các cuộc thảo luận sôi nổi về
một bản Hiến Pháp mới đã kéo dài
suốt mùa hè năm đó, rồi tới tháng
9, mới đạt được sự đồng
ý cuối cùng. Sau khi bản Hiến Pháp
được phê chuẩn, cử tri đoàn
bắt đầu bầu Tổng Thống vào tháng
2 năm 1789. Ông George Washington được toàn
thể 69 phiếu bầu, đắc cử
Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên. Trúng
cử Phó Tổng Thống là ông John Adams với
34 phiếu.
Lễ nhậm chức Tổng Thống được
trù liệu vào ngày 30 tháng 4 năm 1789. Ong George
Washington đi từ Mount Vernon tới thành
phố New York, dọc đường tất
cả các thành phố, thị xã… đều chào
mừng ông như một vị anh hùng dân
tộc. Ngày hôm đó, ông George Washington, 57
tuổi, đã ngồi trên cỗ xe ngựa màu
ngà để đi tới Phòng Lớn Liên Bang
(Federal Hall) trên đường Broad và Wall. Hàng
ngàn người đã thấy ông bước lên
Tòa Nhà Thượng Viện và trên bao lơn, ông
George Washington đã đưa tay phải lên tuyên
thệ, tay trái đặt trên cuốn Thánh Kinh,
trước mặt vị Thẩm Phán Robert R.
Livingston của thành phố New York.
Vào thời kỳ ông Washington làm Tổng
Thống đầu tiên, Hoa Kỳ chỉ là
một quốc gia nhỏ và yếu, với 11
tiểu bang trải dài xa nhất về phía tây
tới giòng sông Mississippi. Phần lớn dân chúng
sống bằng nghề nông. Rất ít trẻ em
đi tới trường học và đa số
người trưởng thành không biết đọc
và không biết viết. Các phương tiện
giao thông, chuyên chở còn sơ sài và chính ông
Washington cũng phải mất 3 ngày để
đi quãng đường 90 dậm (140 cây
số) từ New York tới Philadelphia. Thành
phố New York là thủ đô đầu tiên
của quốc gia. Ông George Washington đã tổ
chức Nội Các gồm các ông John Jay làm Chánh
Aùn Tòa Tối Cao, ông Edmund Randolph được
bổ nhiệm Bộ Trưởng Tư Pháp, ông
Thomas Jefferson lãnh chức Bộ Trưởng
Ngoại Giao, Tướng Henry Knox làm Bộ Trưởng
Chiến Tranh và ông Alexander Hamilton lo Bộ Ngân
Khố…
Tổng Thống George Washington đã điều
hành Nội Các đồng thời cơ quan
lập pháp cũng bắt đầu trắc
nghiệm các quyền hạn. Các đạo
luật về tài chính, thuế vụ…
được thông qua và Quốc Hội Hoa
Kỳ cũng chấp thuận thuyên chuyển
Thủ Đô về Philadelphia cho tới năm
1800 rồi sau đó, dời về khu vực liên
bang bên giòng sông Potomac. Tháng 4 năm 1792, cuộc
thống kê đầu tiên cho thấy Hoa Kỳ có
dân số 3,929,214 người gồm cả
697,000 nô lệ.
Việc điều hành chính quyền của
Tổng Thống Washington không khỏi không
gặp các chia rẽ. Các người ủng
hộ ông Hamilton, với chủ trương
một chính quyền quốc gia mạnh, đã
lập ra đảng Liên Bang (the Federalist Party) là
đảng của các tiểu bang miền
Bắc, của các chủ ngân hàng và kỹ
nghệ gia, trong khi ông Jefferson lại bênh vực
các quyền lợi được quy định
bởi Hiến Pháp, nên đã lập ra đảng
Dân Chủ-Cộng Hòa (the Democratic-Republic Party)
với sự hậu thuẫn của giới
trại chủ và các tiểu bang miền Nam. Trước
sự chia rẽ này, Tổng Thống George
Washington đã cố giữ lập trường
trung lập và cố gắng làm suy giảm
sự phát triển của các đảng phái chính
trị.
Tháng 12 năm 1792, cử tri đoàn Hoa Kỳ
đã bầu lại chức vụ Tổng
Thống. Cuộc kiểm phiếu được
thực hiện xong vào ngày 13 tháng 2 năm 1793 và
ông George Washington được tái cử
với số thăm cao nhất là 132. Ông Adams
lại trở nên Phó Tổng Thống với 77
phiếu bầu. Lễ nhậm chức Tổng
Thống kỳ thứ hai của ông George
Washington được tổ chức tại Phòng
Lớn Quốc Hội (Congress Hall) của thành
phố Philadelphia vào ngày 4 tháng 3 năm 1793. Trong
nhiệm kỳ thứ hai này, vị Tổng
Thống 61 tuổi đã phải giải
quyết nhiều vấn đề khó khăn hơn.
Vào tháng 4 năm 1794, nước Cộng Hòa Pháp
non trẻ đang giao chiến với các nước
Anh, Aùo, Phổ và Tây Ban Nha. Mặc dù vào năm
1778, Hoa Kỳ đã ký hiệp ước liên
minh với Vua nước Pháp, Tổng Thống
Washington vẫn muốn giữ cho Hoa Kỳ ở
vị thế trung lập và lập trường
này được ông Hamilton ủng hộ trong
khi ông Jefferson lại thiên vị cuộc Cách
Mạng Pháp. Do lệnh của Tổng Thống,
ông Bộ Trưởng Tư Pháp đã thảo
ra bản tuyên bố "trung lập" và văn
kiện này được ông George Washington ký vào
ngày 22 tháng 4 năm đó, xác định tính cách
thân thiện và trung lập đối với các
quốc gia lâm chiến ở châu Aâu. Bản tuyên
bố kể trên cũng cấm cản các
tầu biển Hoa Kỳ không được phép
chuyên chở các tiếp liệu chiến tranh
tới các vùng biển giao chiến.
Quyết định của Hoa Kỳ đứng
ngoài cuộc chiến của châu Aâu đã làm
vừa lòng nước Anh nhưng lại làm
giận dữ người Pháp. Các nhà lãnh đạo
Cách Mạng Pháp đòi hỏi Hoa Kỳ phải
về phe với họ, nhưng khi Vua Louis 16
bị hành quyết, Hoa Kỳ lâm vào một tình
trạng khó xử. Vị đại sứ
của nước Pháp tại Hoa Kỳ là ông
Edmond Genêt đã bí mật vận động
với đảng Dân Chủ-Cộng Hòa để
lôi kéo Hoa Kỳ về phía nước Pháp đồng
thời cố gắng trang bị các tầu
chiến tại các hải cảng Hoa Kỳ
rồi gửi đi chống Hải Quân Anh.
Việc làm của ông Genêt đã gây ra tranh
luận sôi nổi trong Nội Các của
Tổng Thống Washington vào tháng 7/1793 và
cuối cùng, chính Tổng Thống Washington đã
yêu cầu nước Pháp phải triệu
hồi ông Genêt về nước. Vấn đề
trung lập nhờ đó đã được
giải quyết và được Hoa Kỳ duy
trì, cho tới 20 năm về sau, ý tưởng
Trung Lập được Tổng Thống James
Monroe xác định rõ ràng bằng chủ
thuyết đứng ngoài các cuộc chiến
tranh của châu Aâu.
Vào nhiệm kỳ thứ hai của Tổng
Thống Washington, nước Anh vẫn còn
chiếm đóng các đồn lũy và các
địa điểm trao đổi hàng hóa
tại bờ phía nam của Ngũ Hồ (Great
Lakes) trong khi những nơi này theo Hiệp Ước
Hòa Bình, phải được trao trả
về cho Hoa Kỳ. Tại miền nam, Tây Ban Nha
cũng đang chiếm giữ các phần
tiểu bang Mississippi, Alabama và Tennessee.
Năm 1794, chiến tranh giữa nước Anh và
Tây Ban Nha sắp bùng nổ. Tổng Thống
Washington bèn cử ông John Jay làm đại
sứ đặc quyền, tới London để
ký hiệp ước thương mại và dàn
xếp các tranh chấp biên giới. Nước
Anh sau đó đồng ý nhượng lại các
vùng Niagara, Detroit, đảo Mackinac và vài nơi
khác cho Hoa Kỳ. Một vị đại sứ
đặc quyền khác là ông Thomas Pincknay cũng
tới Madrid vào năm 1795 và đạt
được sự ưng thuận của Tây
Ban Nha tôn trọng vĩ tuyến 31 là lằn ranh
giữa Hoa Kỳ và Florida, mở cửa vùng
Mississippi cho Hoa Kỳ buôn bán và đặt thành
phố New Orleans là hải cảng miễn
thuế cho người Mỹ.
Trên vùng lục địa, các người
Mỹ khẩn hoang đã đi đến
miền Cincinnati và các nông trại của họ
đã lan rộng tới gần các giòng sông
Muskingum, Scioto và Miami nhưng tại nơi biên
giới, thường xẩy ra các giao tranh.
Tổng Thống Washington bèn cử Tướng
"Mad Anthony" Wayne thiết lập một dãy
đồn lũy từ Cincinnati tới Fort
Defiance và cuối cùng, cac người da đỏ
đã bị đánh bại tại Fallen Timbers.
Tại vùng biên giới phía nam, các tiểu bang
Georgia và Tennessee cũng được ổn
định và Liên Bang Hoa Kỳ sau này tiếp
nhận tiểu bang Kentucky vào năm 1792 và
Tennessee vào năm 1796.
Trước năm 1794, theo đề nghị
của ông Bộ Trưởng Tài Chính Hamilton và
để làm giảm nợ nần quốc gia,
chính phủ Hoa Kỳ phải đánh một
thứ thuế lên rượu huýt-ki (whiskey) và
việc áp dụng thu thuế mới này đã gây
ra công phẫn cho các chủ trại tại 4
hạt (counties) ở phía tây của tiểu bang
Pennsylvania. Rượi huýt-ki là một sản
phẩm quan trọng nơi vùng biên giới. Do không
thể bán ngũ cốc xa nhà và để tránh
cước phí chuyên chở, các trại chủ
đã nấu rượu, và rượu huýt-ki còn
trở nên một thứ tiền trao đổi.
Trước thứ thuế mới này, các
trại chủ đã võ trang và tấn công nhân
viên Liên Bang. Để duy trì luật pháp và ý tưởng
tôn trọng các quy luật đóng thuế, tháng
11/1794, Tổng Thống Washington đã gửi
15,000 dân quân của các tiểu bang gần đó,
tiến đến Bedford, Pa., và đóng tại các
miền núi lân cận. Trước áp lực quân
sự, các kẻ dấy loạn đã đầu
hàng. Việc thi hành Luật Pháp này đã
khiến cho về sau, các người khẩn
hoang miền Tây thiên về đảng Dân
Chủ-Cộng Hòa của ông Jefferson.
Vào cuối nhiệm kỳ hai, Tổng Thống
George Washington cảm thấy buồn nản vì các
trận tấn công chính trị. Hạ Viện vào
thời kỳ này lại gồm đa số là
các dân biểu thuộc đảng Dân
Chủ-Cộng Hòa thiếu thiện cảm. Ông
George Washington cũng e ngại rằng nền hòa
bình của quốc gia non trẻ này có thể
bị phá hủy bởi cuộc nội
chiến. Ngoài ra, ông Washington cũng cảm
thấy cao tuổi. Ông cho rằng nắm
quyền hành quá lâu là một hành động
thiếu khôn ngoan. Ông đã khước từ
một nhiệm kỳ Tổng Thống lần
thứ ba và điều này đã trở thành
một tiền lệ đối với các
vị Tổng Thống về sau, ngoại
trừ trường hợp đặc biệt
của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt.
Vào tháng 5 năm 1796, ông Washington đã bàn
thảo với các ông Madison, Jay và Hamilton,
duyệt lại bài "Diễn văn từ
biệt" và cuối cùng vào tháng 9, văn
bản này đã được gửi cho
chủ bút của tờ báo American Daily Advertiser,
một nhật báo của Philadelphia, để
phổ biến vào ngày 19 tháng 9.
Trong cuộc vận động tranh cử sau
đó, ông George Washington đã ưa thích ông John
Adams, một ứng viên của đảng Liên
Bang trong khi ứng viên đối thủ là ông
Thomas Jefferson thuộc đảng Dân
Chủ-Cộng Hòa. Tuy nhiên, Tổng Thống
Washington đã không tích cực tham dự vào
việc vận động tranh cử.
Sau cuộc bầu cử năm 1796, ông Jefferson
được 68 phiếu cử tri, thua ông Adams
3 phiếu. Vào lễ nhậm chức tháng 3 năm
1797, ông John Adams trở nên Tổng Thống Hoa
Kỳ, Phó Tổng Thống là ông Jefferson. Sau
cuộc bầu cử này, ông George Washington đã
rất vui mừng và đã nói với ông Adams:
"Tôi ra khỏi và anh bước vô, hãy coi ai
trong chúng ta sung sướng hơn ?".
Khi ông George Washington bắt đầu nhậm
chức Tổng Thống, quốc gia non trẻ
Hoa Kỳ chỉ có 11 tiểu bang. Sau nhiệm
kỳ 2 của Tổng Thống Washington, nước
Hoa Kỳ đã bao gồm 16 tiểu bang.
7- Các năm cuối
đời.
Vào tuổi 65, ông George Washington trở lại
miền Mount Vernon. Công việc quản trị nông
trại rộng tới 3,075 hecta đã chiếm
hết thời giờ của ông. Ngoài ra, ông
Washington còn làm giám đốc một ngân hàng
tại Alexandria, Va., và đôi khi ông cũng đi
thăm viếng công cuộc xây cất một thành
phố mới là Washington D. C. mà vào thời
bấy giờ, được gọi bằng tên
"Thành Phố Liên Bang" (the Federal City).
Trong khi ông George Washington đang vui hưởng
cảnh hưu trí thì liên lạc ngoại giao
giữa Hoa Kỳ và nước Pháp trở nên
xấu đi. Chính phủ Hoa Kỳ quyết
định tăng cường quân lực.
Tổng Thống Adams đành kêu gọi sự giúp
đỡ của ông Washington. Ngày 4/7/1798,
Tổng Thống John Adams đã bổ nhiệm ông
George Washington làm Trung Tướng và Tổng Tư
Lệnh quân lực Hoa Kỳ, nhưng rồi các
đe dọa chiến tranh suy giảm khiến cho
ông George Washington đã không phải nắm
chức vụ.
Tại nông trại vùng Mount Vernon, ông George
Washington thường có các bạn bè lại thăm.
Người ta kể rằng ông bà Washington đã
sống rất thanh lịch và điều độ.
Mỗi ngày, bữa điểm tâm được
dọn ra lúc 7 giờ, 3 giờ là bữa ăn
trưa, bữa uống trà lúc 7 giờ chiều
và 9 giờ là bữa ăn tối. Ông Washington
đã dùng thời giờ ban sáng để cưỡi
ngựa, đi dạo quanh nông trại. Ông
được kể là một nhân vật đáng
kính.
Sáng ngày 12 tháng 12 năm 1799, ông George Washington cưỡi
ngựa đi dạo quanh nông trại trong 5
giờ liền. Trời bắt đầu đổ
tuyết rồi chuyển sang mưa đá. Khi
về nhà, ông Washington đã để nguyên
quần áo ướt và ngồi vào bàn ăn. Ngày
hôm sau, ông bị đau cổ họng. Tới
tối ngày 13, ông bị cảm nặng rồi
qua đời đêm hôm thứ Bẩy, 14/12/1799.
Ông George Washington được chôn cất trong
phần mộ của gia đình tại Mount
Vernon. Tại Hoa Kỳ, hàng ngàn người
đã đau buồn về cái tang lớn này.
Tin buồn cũng được loan tới
nhiều nước trên thế giới và
mọi người đều thương
tiếc một vĩ nhân của đất nước
Hoa Kỳ.
Trong bài điếu văn đọc lên nhân ngày
an táng của ông Washington, ông John Marshall đã
dẫn chứng một câu nói đáng nhớ
của Henry Lee, một viên sĩ quan của Tướng
George Washington, và câu nói này đã mô tả
những gì mà mọi công dân Hoa Kỳ đã nghĩ
về Vị Tổng Thống đầu tiên
của họ và về vị trí của ông
Washington trong nền Lịch Sử Hoa Kỳ,
đó là câu: "Ông George Washington xứng đáng
là Danh Nhân "bậc nhất trong Chiến Tranh,
bậc nhất trong Hòa Bình và bậc nhất
trong Trái Tim của tất cả đồng bào
của Ông" (First in war, first in peace, and first in
the hearts of his countrymen).
|