Mô hình lon bia tự làm mát.
Các nhà khoa học Anh vừa
sáng chế ra một loại lon bia mà chỉ cần vặn một cái là
đồ uống bên trong sẽ được làm mát. Nó có thể giảm nhiệt
độ chất lỏng xuống 3 độ C và giữ lạnh được khoảng 1
tiếng.
Lon bia IC (Instant
Cool) hoạt động dựa vào sự bay hơi nước. Nửa trên được
bao quanh bởi một lớp gel lỏng. Phần đáy chứa chất
dessicant hút nước trong chân không và một khoang đặc
biệt hút hơi nóng. Khi phần đáy bị vặn, lớp ngăn cách
giữa 2 phần bị vỡ. Chân không hút gel và hơi nóng vào
phần đáy. Dessicant hút gel và hơi nóng thì bị hút vào
khoang, từ đó đồ uống trở nên mát.
Các cuộc thử nghiệm
cho thấy trung bình nhiệt độ đồ uống giảm 16 độ C khi hệ
thống khởi động. Đồ uống được giữ mát trong 1 tiếng.
Barney Guarino, Giám đốc điều hành hãng Tempra
Technology, tác giả lon bia IC, cho biết: "Chúng tôi hy
vọng sẽ đưa sản phẩm ra thị trường vào mùa hè này".
Đồ uống đắt sẽ là
những mặt hàng đầu tiên hưởng lợi từ lon bia làm mát,
bởi khách hàng đã quen với việc trả giá cao hơn cho
những sản phẩm này. "Nhưng qua thời gian, chúng tôi hy
vọng lon bia kiểu này sẽ trở nên thông dụng", Guarino
nói.
vnexpress (theo ThisisLondon)
|
Bộ não lấy lại ký ức như thế nào?
|
|
Các nhà khoa học
Mỹ vừa phát hiện ra cách não bộ gợi lại kỷ niệm từ
quá khứ xa xôi, nhờ một vùng não được gọi là bó liên
hợp khứu hải mã trước. Phát hiện sẽ là nền tảng cho
sự ra đời hàng loạt liệu pháp điều trị căn bệnh
Alzheimer và các dạng mất trí khác.
Khoa học từ lâu đã
biết đến một cấu trúc não được gọi là chân hải mã,
chuyên xử lý trí nhớ gần. Đây cũng là nơi lưu trữ
thông tin vĩnh viễn. Tuy nhiên, khả năng não bộ phục
hồi những ký ức xa vời cho đến nay vẫn còn là ẩn số
Mới đây, trên tạp
chí Science danh tiếng, các nhà nghiên cứu đến từ
Đại học Tổng hợp California Los Angeles (UCLA), Mỹ,
đã trình bày về một công trình thử nghiệm, trong đó
hé mở nhiều điểm nghi vấn về mối liên quan giữa trí
nhớ xa và một vùng não gọi là bó liên hợp khứu hải
mã trước. Đây có thể là con đường phục hồi ký ức của
não bộ.
Trong thí nghiệm
thứ nhất, nhóm đã làm cho một số con chuột mất đi
khả năng hồi tưởng, bằng cách biến đổi một gene có
tên là kinase II. Tiếp đó, họ huấn luyện
cho số chuột này nhận dạng một cái chuồng, rồi kiểm
tra trí nhớ của chúng về vật thể này sau 1, 3, 18,
36 ngày. Kết quả cho thấy, số chuột trên đã nhận ra
cái chuồng trong vòng 3 ngày kể từ thời điểm huấn
luyện, song lại không hề có phản ứng vào những ngày
sau đó. Điều này chứng tỏ gene kinase II
đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng thông
tin một thời gian dài.
Trong thử nghiệm
thứ hai, nhóm đã tiến hành kiểm chứng một luận điểm
trước đây, rằng lớp vỏ não trực tiếp tham gia vào
quá trình lưu trữ và phục hồi ký ức. Họ đã sử dụng
phương pháp hình ảnh để theo dõi hoạt động của lớp
vỏ não ở một con chuột bình thường trong quá trình
kiểm tra trí nhớ tương tự như thí nghiệm thứ nhất.
Kết quả là không có phần vỏ não nào loé sáng khi con
vật tiếp cận với cái chuồng sau thời điểm huấn luyện
1 ngày. Tuy nhiên, vào 36 ngày sau đó, bó liên hợp
khứu hải mã trước trên vỏ não hoạt động tích cực khi
con chuột nhìn thấy cái chuồng. Hiện tượng này chưa
bao giờ xuất hiện ở những con bị biến đổi gene
(những con chuột mà vùng não trên không hề hoạt động
trong toàn bộ quá trình xử lý trí nhớ xa). Kết quả
này đã cho thấy có mối liên hệ giữa bó liên hợp khứu
hải mã trước và khả năng lấy lại ký ức.
Trong thử nghiệm
thứ 3, các nhà khoa học đã tiêm cho một số con chuột
bình thường loại thuốc làm tê liệt tạm thời bó liên
hợp khứu hải mã trước. Việc này đã không ảnh hưởng
đến trí nhớ của số chuột trên về cái chuồng trong 1
tới 3 ngày sau thời điểm huấn luyện, song lại làm
gián đoạn trí nhớ từ 18 đến 36 ngày sau đó.
"Thí nghiệm chứng
tỏ bó liên hợp khứu hải mã trước đóng vai trò mấu
chốt trong việc duy trì ký ức xa", trưởng nhóm
nghiên cứu Alcino Silva kết luận. Vùng não này còn
làm nhiệm vụ thu thập và lắp ráp các tín hiệu về một
thông tin lâu ngày từ các phần khác nhau của não bộ.
Quá trình tập hợp này có thể bị gián đoạn do chứng
mất trí, làm suy chức năng của bó hợp khứu hải mã
trước. Khi đó, trí nhớ trở nên vụn vặt, không thể
hợp thành một thông tin ý nghĩa.
"Tuổi già, bệnh
Alzheimer và các dạng mất trí khác như sự lo âu, suy
nhược, sự lãnh cảm và mất tập trung - tất cả đều
liên quan đến hiện tượng suy chức năng của bó liên
hợp khứu hải mã trước", tiến sĩ Harriet Millward đến
từ Viện nghiên cứu bệnh Alzheimer nhận định. Theo
giới chuyên môn, nghiên cứu của nhóm UCLA đã giúp
phân biệt chính xác trí nhớ ngắn và dài, đồng thời
mô tả chi tiết mối liên qua giữa ký ức với bó liên
hợp khứu hải mã trước. Tuy nhiên, công trình này mới
chỉ dừng trên phạm vi động vật. Nếu kết quả tương tự
cũng được ghi nhận trên người, thì khoa học sẽ sớm
hiểu được sâu sắc căn bệnh Alzheimer và những chứng
mất trí khác, đồng thời tìm ra cách điều trị hiệu
quả. |
|
Không khí trong phòng
họp của khách sạn Prince tại Kuala Lumpur cực kỳ căng
thẳng. Ngồi ở từng bàn riêng lẻ, trán nhăn lại vì chờ
đợi, 46 đối thủ nhìn chăm chăm vào cỗ bài trước mặt.
Cuối cùng, một giọng nói mang sắc thái Anh quốc rõ và
nhanh cất lên: "Các đấu thủ đã sẵn sàng - Bắt đầu!".
Các đấu thủ tại cuộc
thi quán quân trí nhớ thế giới năm 2003 bắt đầu lật cỗ
bài của mình, cố gắng nhớ lại tất cả 52 lá bài xếp theo
chuỗi càng nhanh càng tốt. Người thắng cuộc là người làm
được điều đó trong ít hơn một phút.
|
Andi Bell, quán quân năm 2003. |
"Chúng tôi chưa từng
có cuộc thi nào đông như thế này", Tony Buzan, người
giám sát môn thi đấu cuối cùng của ngày hôm nay, nói.
Vốn là tác giả và diễn giả gốc London về cách học và
luyện trí nhớ, Buzan tạo ra 10 môn thi đấu tranh giải
quán quân vào năm 1991 và tin rằng, cũng giống như cử tạ
tạo nên thể hình, sự ghi nhớ có tác dụng rèn luyện trí
óc của bạn: "Và khi rèn luyện các "cơ" của trí nhớ, bạn
cũng đồng thời rèn luyện sức lực cho sự sáng tạo, suy
nghĩ tổng hợp, sự tồn tại và giải quyết vấn đề".
Ngồi ở dãy đầu là Andi
Bell, 36 tuổi, đương kim vô địch đến từ London. Anh lật
bài còn nhanh hơn người chia bài ở Las Vegas. Anh giữ kỷ
lục thế giới cho việc nhớ một cỗ bài trong 34,03 giây.
Nhưng Bell đang đối mặt với những thách thức mạnh mẽ từ
ba đối thủ khác.
Trước hết là Astrid
Plessl, sinh viên y khoa 20 tuổi, người Áo, dễ dàng tiến
vào trận chung kết. Những người tổ chức đang hết lòng cổ
vũ cho Plessl vì họ tin rằng cô sẽ là một đại diện quyến
rũ cho môn thể thao rèn luyện trí nhớ và là người phụ nữ
đầu tiên giành ngôi vô địch.
Ngay phía trước Plessl
là Gunther Karsten, 42 tuổi, một nhà hóa học người Đức
rất đáng chú ý không chỉ vì anh đang đeo tai nghe - cũng
như tất cả những người khác để tránh nghe các âm thanh
không cần thiết - mà anh còn đeo cặp kính râm tự thiết
kế với một lỗ nhỏ ở mỗi tròng kính để lọc các hình ảnh
không mong muốn. Trong lúc đang lật bài, đôi lông mày
của anh nhướng lên. Đây là một trong những môn thi đấu
yếu nhất của anh. Karsten mạnh nhất ở môn thi các con số
nhị phân (gồm số 0 và 1). Anh có thể nhớ nhiều dãy của
hàng nghìn chữ số nhị phân trong 30 phút.
Phía bên kia là cựu vô
địch Ben Pridmore, 27 tuổi, kế toán đến từ Derby, Anh
quốc. Xung quanh anh ta là 42 đấu thủ còn lại sốt sắng
tập trung mong lọt vào top 10 đến từ các nước Singapore,
Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Australia, Nam Phi, Đức,
Áo, Anh và Mỹ.
Trong 9 môn thi đấu tổ
chức trong 3 ngày, 5 kỷ lục thế giới đã bị phá, những
"vận động viên trí nhớ" này đã nhớ được hàng trăm con số
lộn xộn chỉ trong vòng 10 phút và hàng trăm từ ngữ ngẫu
nhiên, được viết thành chuỗi, chỉ trong 15 phút.
Nhưng chính môn thi
đấu cuối cùng này, Lá bài tốc độ, sẽ quyết định người
chiến thắng.
Bí quyết để đưa một
khối lượng khổng lồ các dữ liệu vào trí nhớ trong một
thời gian ngắn được gọi là thuật nhớ (mnemonics), đặt
theo tên của nữ thần trí nhớ Hy Lạp Mnemosyne. Hệ thống
của thuật nhớ đặt logic và cấu trúc lên các vật chất
không liên quan gì với nhau. Chẳng hạn, gán chữ lên các
con số, ví dụ số 58 (mẫu tự thứ 5 (chữ E) và thứ 8 (chữ
H) trong bảng chữ cái) được nhớ bằng cái tên Ernerst
Hemingway.
Tất cả các đấu thủ
tham dự môn Lá bài tốc độ ở đây đều sử dụng thuật nhớ -
tạo ra những hình ảnh, câu chuyện, sự liên tưởng và vị
trí liên kết các lá bài đặc biệt đến những thứ đã biết
rồi. Các đấu thủ phân bổ hình ảnh vào một nơi phổ biến,
chẳng hạn như ngôi nhà của ai đó hoặc vùng lân cận.
Người ta cho rằng nhà thơ Hy Lạp Simonides đã phát minh
ra "cuộc đi bộ về mặt tinh thần" này trong thế kỷ 5
trước Công nguyên sau khi ông thoát chết trong gang tấc
vì một vụ sập đền. Người ta yêu cầu ông nhận ra thi thể
của các nạn nhân đã bị dập nát. Ông đã thực hiện bằng
cách nhớ người nào đã ngồi ở đâu trong đền. Giờ đây,
khoảng 3000 năm sau, Andi Bell đang nhớ cỗ bài của mình
bằng cách gán cho mỗi lá bài một hình ảnh và sau đó đặt
nó tại một trong hơn 2000 vị trí mà anh sử dụng khắp
London. Dưới mắt anh, con bồi chuồn, con chín rô và và
con hai bích là con gấu, cái cưa và quả dứa. Trong đầu,
anh đặt cả ba hình ảnh này tại tòa nhà Quốc hội. Trong
một vài phút, anh sẽ nhớ lại tất cả các lá bài bằng cách
tái tạo ra một cuộc dạo chơi tinh thần kỳ lạ quanh
London.
Hai ngày trước đó,
cuộc so tài bắt đầu khi các đấu thủ cố nhớ một bài thơ
chưa hề xuất bản. Người ta thưởng điểm cho mỗi dòng được
nhớ chính xác. Astrid Plessl là người duy nhất trong số
các đấu thủ không sử dụng phương pháp"cuộc dạo chơi" cho
môn thi đấu này. Thay vào đó, cô nhớ từng-chữ-một theo
kiểu học sinh phổ thông học thuộc lòng thơ Shakespeare.
"Tôi nghĩ bạn phải hiểu ngữ cảnh của bài thơ - tác giả
đã chọn chữ như thế nào và tại sao", cô giải thích. Kết
quả thật là ấn tượng, trong 15 phút, Plessl nhớ được 71
dòng của bài thơ theo từng chữ một, phá vỡ tiêu chuẩn cũ
của thế giới là 52 dòng. Thắng lợi của cô thật thuyết
phục và cô trở thành người được yêu mến nhất tiến đến
chức vô địch chung cuộc.
Không ngoài dự đoán,
Gunther Karsten về đầu trong cuộc thi số nhị phân. Sử
dụng một hệ thống phức tạp chuyển đổi chuỗi những chữ số
thành hình ảnh ví dụ như cây kéo (110100), con chuột
(100001) và cái mũi của chính mình (010000), Karsten nhớ
được 3009 chữ số trong 30 phút.
Andi Bell về nhất
trong môn thi đấu Những lá bài một giờ bằng cách nhớ 21
cỗ bài theo chuỗi, sử dụng hệ thống thử và kiểm nghiệm
(để xác định lá bài thứ 17 trong cỗ bài thứ 20, Bell
hình dung Socrate ném một cái lao vào quả lê trên cầu
Wesminster).
Ngày thứ hai, người ta
đưa cho các cầu thủ 99 bức hình, phía dưới ghi các tên
hư cấu như Paradorn Sirichapo, Paul Beratagui, Olive
Provosky và Katie Feldbusch. Sau 15 phút, người ta lại
đưa các đấu thủ những bức hình y hệt nhưng không có tên
và yêu cầu họ nhớ lại các tên trước đó. Bell thắng cuộc
với 66 bức hình gắn đúng tên. Plessl về nhì với 62 bức
và vẫn đang dẫn đầu tính đến môn thi này.
Môn thi kế tiếp là Các
mốc lịch sử. Các đấu thủ nhận được 80 tờ giấy ghi các sự
kiện hư cấu (1227 - Lạc đà đi qua vùng Vịnh). Họ có 5
phút để nhớ càng nhiều càng tốt. Pridmore lập một kỷ lục
thế giới mới do nhớ được 60 sự kiện. Anh liên tưởng một
hình ảnh với mỗi năm để tạo ra một bức tranh tinh thần
của một sự kiện. Ví dụ năm 1976 - giày Nike mang trong
không trung đầu tiên được sử dụng - anh gán hình ảnh con
chó săn thỏ cho năm 1796 và sử dụng hình ảnh một con chó
săn mang đôi giày vận động viên. Chiến tích này đưa
Pridmore lên vị trí đầu tiên và lần đầu tiên anh nghĩ
rằng mình có thể đoạt chức quán quân. Nhưng thảm họa
đang chờ anh.
Năm phút trước khi bắt
đầu môn thi đấu đầu tiên của ngày cuối cùng, môn Từ ngữ
ngẫu nhiên, 45 trong số 46 đấu thủ đã vào chỗ. Bell đang
đợi ở bàn, hai tay đan vào nhau, thư giãn. Cách đó 5
bàn, Plessl tinh nghịch liếc Karsten, đang tung 4 quả
banh (anh tin rằng trò này kích thích trí nhớ). Nhưng
ghế của Pridmore trống trơn.
Đột nhiên Pridmore lao
vào phòng, đầu tóc bù xù và ngồi xuống khi chỉ còn không
đầy 2 phút nữa. Anh thức giấc cách đây 15 phút sau khi
ngủ quá giờ báo thức. Việc ngủ quá lố này làm anh phải
trả giá - anh sẽ thi môn Từ ngữ ngẫu nhiên và môn áp
chót - môn Những con số biết nói - tệ hơn bình thường.
Các nhà tổ chức dành
thử thách hào hứng nhất cho môn cuối cùng: Những lá bài
tốc độ. Hiện thời Plessl đang dẫn đầu với 6212 điểm,
Bell thứ nhì với 6174 điểm, Pridmore và Karsten hơi tụt
lại phía sau, với khoảng cách chừng 400 điểm.
Khi Buzan ra hiệu,
Bell lật 3 lá bài một lúc. Bộ ba đầu tiên này gồm con 3
cơ, con 7 rô và con bồi rô. Con quỷ, con dao và hộp sơn.
Anh tưởng tượng một con quỷ đang đâm con dao vào bức
tranh và đặt hình ảnh này dưới cái bàn ăn. Anh xây dựng
thêm 17 hình ảnh nữa theo cách này.
Trong lúc đó, Plessl
thấy ba lá bài và chuyển đổi thành một người (mẹ cô),
một hành động (nghĩ về) và một mục tiêu (mụ phù thủy).
Cô đặt hình ảnh này vào một công viên gần nhà. Pridmore
nhìn ra cái quạt và quả chanh và đặt chúng vào một cửa
hiệu trong vùng. Karsten, quẫn trí và lo lắng, cứ bị mất
các hình ảnh.
Bell đưa tay lên
trước, anh mất 58 giây. Sáu giây sau, Plessl đưa tay
lên. Pridmore hoàn tất trong 102 giây. Karsten mất 84
giây nhưng anh không nhớ đúng cỗ bài.
Bell, người chiến
thắng chung cuộc với số điểm 6701, chỉ dẫn trước Plessl
28 điểm, đứng dậy ôm cô sinh viên y khoa trẻ tuổi và
chúc mừng cô. Pridmore xếp thứ ba với 6367 điểm. Lần
lượt từng người một, các đấu thủ còn lại giơ tay lên để
thông báo là họ đã nhớ các cỗ bài. Không ai mất quá 3
phút.
Buzan nhìn khắp mọi
người một cách đầy tự hào. "Có một bài học dành cho tất
cả chúng ta ở đây", ông nói. "Sức chứa của bộ não chúng
ta - và khả năng nhớ lại những gì đã lưu giữ ở đó - vượt
rất xa sự mong đợi của các nhà tâm lý học".
Bí quyết của nhà vô
địch
Andi Bell, quán quân
trí nhớ thế giới năm 2003 tiết lộ những bí quyết để tăng
cường khả năng lưu trữ thông tin của anh.
1. Hãy tập trung. Bất
cứ điều gì bạn ghi nhớ, hãy tập trung hoàn toàn vào sự
chú ý đó.
2. Sử dụng không gian
tự nhiên xung quanh bạn để hình dung các thông tin.
Trước khi bạn đi đến cửa hàng, thử hình dung những món
từ danh sách mua sắm của bạn được sắp xếp xung quanh
nhà.
3. Biến những thông
tin khó thành cái gì đó liên quan đến thị giác. Nếu
người ta nói đến Catherine, Mike và Tom, hãy nhanh chóng
hình dung một con mèo cầm cái micro hướng về phía quả cà
chua.
4. Chia sự vật thành
những nhóm hợp lý. Ví dụ như, khi học từ vựng tiếng
Pháp, bạn hãy lập danh sách những danh từ giống đực ở
bên trái tờ giấy và những danh từ giống cái ở bên phải.
Việc nhớ một từ xuất hiện của bên nào tờ giấy sẽ cho bạn
biết về giống của từ.
5. Sự lặp đi lặp lại
làm cho sự vật dễ nhớ hơn. Vì thế, hãy đọc đi đọc lại
những bí quyết này!
Kiến thức ngày nay
(theo Reader's Digest) |
Bức ảnh đầu tiên của hành tinh ngoài hệ mặt trời?
Bích Hạnh
|
Hành tinh mới tìm thấy (trên) và sao
mẹ của nó.
|
Đài thiên văn Hubble vừa thu
được hình ảnh hồng ngoại, có thể là chân dung đầu tiên của
một hành tinh ngoài hệ mặt trời. Mặc dù tới nay chúng ta đã
biết đến 120 hành tinh không thuộc thái dương hệ, song chưa
có hành tinh nào trong đó được chụp trực tiếp.
Nhóm nghiên cứu từ Đại học
bang Pennsylvania, khi phân tích bức ảnh đã phỏng đoán vật
thể tròn mờ nhạt này là một hành tinh. Các quan sát trong
vòng 6 tháng tới có thể xác nhận điều đó, John Debes, thành
viên của nhóm cho biết. Các nhà nghiên cứu không tiết lộ tên
hay vị trí chính xác của ngôi sao mẹ, bởi họ e ngại thành
quả này sẽ lọt vào tay các nhà thiên văn khác.
Song họ cho biết nếu đúng
là một hành tinh, nó sẽ có khối lượng lớn gấp 5-10 lần sao
Mộc, và nằm cách trái đất khoảng 100 năm ánh sáng. Quỹ đạo
của nó tương tự như của sao Hải Vương, cách sao mẹ khoảng
4.500 triệu km.
Trước nay, các hành tinh
ngoài hệ mặt trời thường được xác định gián tiếp, qua sự đảo
của sao mẹ, hoặc qua hiện tượng bẻ cong ánh sáng đến từ sao
mẹ (gravitational microlensing). Hầu như không thể chụp trực
tiếp hành tinh vì ánh sáng của nó bị át đi bởi ánh sáng của
ngôi sao (mạnh hơn cả tỷ lần).
Nhóm nghiên cứu tại
Pennsylvania đã nâng cao cơ hội tìm kiếm của mình bằng cách
quan sát trong bức xạ hồng ngoại. Ở bức xạ này, độ tương
phản giữa sao mẹ và hành tinh giảm đi hàng nghìn lần so với
trong ánh sáng nhìn thấy, vì thế, hành tinh đỡ bị "chìm
nghỉm" trong biển sáng của ngôi sao. Thêm nữa, nhóm nghiên
cứu chỉ tập trung tìm kiếm hành tinh quanh các ngôi sao lùn
trắng - những quả cầu lửa đã tàn. Vì thế, ánh sáng từ các
thiên thể quanh nó dễ được nhận ra hơn.
Tuy vậy, các nhà nghiên
cứu không dám chắc vật thể tìm thấy là một hành tinh. Vẫn
còn khoảng 3% khả năng nó là một ngôi sao khác ở rất xa
trong vũ trụ.
(theo Nature,
15/5/2004, vnexpress)
Cánh tay khoẻ giúp cá nguyên thuỷ bò lên cạn
Bích Hạnh
|
|
Các nhà khoa học Mỹ vừa
khám phá ra mẩu xương tay 365 triệu năm ở Pennsylvania,
thuộc về một trong những sinh vật đầu tiên có khả năng
chống đẩy. Phát hiện giúp họ hiểu được điều gì xảy ra
khi các sinh vật dưới nước tiến hoá để chuyển lên sống
trên đất liền.
Mẩu xương dài 7,6 cm
thuộc về một động vật nước ngọt, mang những đặc điểm cho
thấy đó là một phần của một chi rất khoẻ - khoẻ hơn
nhiều suy đoán trước đây của giới khoa học. Rất có thể
động vật nguyên thủy này đã sử dụng cánh tay để chống
đẩy, chứ không chỉ vầy nước xung quanh.
|
|
|
|
"Các nhà khoa học từng cho
rằng những cái tay đó được dùng để khoả nước, chứ không phải
để bước đi", Jennifer Clack, một nhà động vật học tại Đại
học Cambridge, cho biết. Giờ đây họ tin là động vật này thực
hiện một hành động trung gian giữa bơi và đi bộ ở trong
nước.
Chúng có đuôi và mang
giống như cá, nhưng bề ngoài lại hao hao với kỳ giông. Người
ta đã tìm thấy rất nhiều mảnh xương của chúng và định tuổi
theo tuổi khối đá bao quanh. Tuy nhiên, mảnh xương mới có
một cấu trúc đặc biệt chưa từng thấy trên những sinh vật
này: một loạt dải xương cho thấy nó từng gắn vào một bó cơ
ngực khoẻ. "Xương cánh tay trên rất quen thuộc ở cá, nhưng
chiếc xương này là độc nhất vô nhị", Neil Shubin, một chuyên
gia về tiến hoá tại Đại học Chicago, tác giả chính của
nghiên cứu, cho biết.
Ngoài việc thể hiện sức
mạnh, hướng của các dải xương cũng cho thấy chuyển động
chính của cánh tay là lên - xuống, chứ không phải là sang
ngang, Clack nói.
Sinh vật này có lẽ đã sử
dụng những cánh tay mạnh mẽ của chúng để đẩy mình lên khỏi
mặt nước khi chúng tiến hoá thành động vật sống trên cạn,
khoảng 350 triệu năm trước. Tuy nhiên, chi tiết về lộ trình
tiến hoá này rất sơ sài. Chẳng hạn, chúng ta không biết các
sinh vật đã đạt đến ngưỡng nào trước khi bò lên đất liền.
Phát hiện mới có thể bổ sung đường nét cho "bức tranh" đó.
vnExpress.net 02/04/2004
(theo Nature)
Chân dung đầu tiên của pharaoh tìm thấy ở Ai Cập
Bích
Hạnh
Hatshepsut |
Tượng Sphinx là
hính tượng của Hatshepsut, đặt
tại đền Deir el-Bahari của bà
Hatshepsut, là con
gái của vua Thutmose I và nữ hoàng Ahmose
Như thường xảy ra
trong hoàng tộc, bà lấy người anh cùng cha khác mẹ
là Thutmose II. Vị vua này có được một trai là
Thutmose III với bà thứ phi. |
Năm 1479 TCN,
Thutmose II chết. Lấy cớ Thutmose III còn nhỏ (lúc
Thutmose II mất, ông cỡ 4-5 tuổi) nên 7 năm sau
Hatshepsut lên ngôi vua Pharaoh. Bà mặc y
phục nam . Bà cai trị nước trong vòng hai mươi năm.. Bà
cải tổ nước Ai Cập. Dưới thời đại của bà, nghệ thuật và
thương mại bành trướng. Bà khuyến khích buôn bán với châu
Á, cho xây và sửa chữa nhiều công trình nghệ thuật, nổi
tiếng nhất là đền Deir el-Bahari
Thutmose III nổi dậy. . Bà bỗng nhiên
biến mất. Thutmose III lên ngôi Phraon và đập gãy nhiều
tượng của bà.
BBT Vietsciences
o0o
Những mảnh vỡ ghép lại để lộ
khuôn mặt nhìn thẳng của pharaoh Tuthmosis III (hoặc bà mẹ
Hatshepsut của ông) thay vì những phác thảo trông nghiêng
trước đây. Bức họa được vẽ trên một tấm ván gỗ, chôn trong
cái sân nhỏ phía trước một ngôi mộ ở phía nam thị trấn
Luxor.
Hatshepsut, thường được mô
tả như một người đàn ông, cai trị song song với con trai bà
trong khoảng 20 năm, từ năm 1503 trước Công nguyên. Thị trấn
Luxor, còn được biết đến với cái tên Thebes, là thủ đô của
triều đại này.
Khúc gỗ tìm thấy khá đặc
biệt vì người Ai Cập cổ đại thường vẽ chân dung cho dân Ai
Cập ở dạng nhìn nghiêng. Chân dung nhìn chính diện chỉ dành
cho người nước ngoài, ma quỷ dưới âm phủ và các sinh vật kỳ
lạ khác.
Nhà Ai Cập học người Tây
Ban Nha, Jose Manuel Galan, phỏng đoán bức họa hoàng gia này
hoặc là phác thảo cho một bức tượng, là một bức tranh tình
cờ do một sinh viên tạo ra để chứng tỏ tài năng của mình
hoặc chỉ để giải trí. Thực tế là tấm ván gỗ còn chứa một
hình hoạ tương tự nhưng thô vụng hơn, cho thấy một sinh viên
nào đó có thể đã sử dụng nó để sao chép công trình của thầy
mình.
Các nhà Ai Cập học tìm
được một mảnh của tấm gỗ vào năm 2002 và 13 mảnh khác vào
năm 2003. Một năm qua, họ gắn các mảnh với nhau và nay chuẩn
bị đưa ra triển lãm tại bảo tàng Luxor.
Galan tin tưởng đây là một
pharaoh, bởi người trong tranh đội chiếc vương miện "nemes",
làm từ một loại vải sọc chỉ dành cho các hoàng đế. "Chúng
tôi tìm thấy bức họa tương tự với vật này trên một tấm gỗ ở
Bảo tàng Anh. Và cái cách mà mắt, môi, mũi và hình dáng của
họ được thể hiện rất đặc trưng cho thời kỳ này", ông nói.
Tấm bản gỗ rộng 50x30 cm,
và được phủ bởi một lớp vữa màu vàng kem. Bức tranh vẽ bằng
phẩm màu đen, trên nền một lưới ô vuông màu đỏ được dùng để
đánh dấu tỷ lệ.
Galan cho biết tấm gỗ có
thể là một phần tài sản được chôn theo viên quan có tên gọi
Djehuty, từng là giám thị cho các công trình công cộng và
tài chính dưới thời Hatshepsut, hoặc có thể là một thành
viên trong gia đình Djehuty. Mộ của Djehuty được tìm thấy
Chuẩn bị đón sự kiện thiên văn hiếm
gặp
|
B.H. |
B.H. |
Châu
Âu, Trung Đông và phần lớn châu Á, Phi sẽ là địa điểm quan
sát lý tưởng trong tháng tới với sự kiện chưa từng diễn ra
trong 122 năm qua - sao Kim đi qua giữa mặt trời và trái
đất.
Nếu thời tiết cho phép,
trong vòng 6 giờ ngày 8/6, các nhà thiên văn và công chúng
có thể nhìn thấy hành tinh mang tên nữ thần tình yêu và sắc
đẹp (Venus) đi ngang qua mặt trời. Sau lần gặp gỡ này, sự
kiện tương tự chỉ diễn ra vào ngày 6/6 năm 2012, nhưng khi
đó Anh và nhiều vùng khác của châu Âu sẽ không có cơ hội
chiêm ngưỡng.
"Đây là một sự kiện thiên
văn cực kỳ hiếm hoi", Gordon Bromage, giáo sư thiên văn học
tại Đại học Central Lancashire của Anh, nhận định.
Trong khoảnh khắc trên
cùng đường thẳng này, sao Kim sẽ xuất hiện dưới hình dạng
một nốt đen với kích cỡ 1/30 đường kính mặt trời. Tại Anh,
phần lớn châu Âu và châu Phi sẽ quan sát được hiện tượng vào
buổi sáng, còn tại Trung Đông, Nga và Ấn Độ là buổi chiều,
muộn nữa là vùng Cận Đông với góc quan sát rất hẹp.
Các nhà khoa học cũng cảnh
báo người dân không nên nhìn trực tiếp vào mặt trời hoặc qua
camera hay kính thiên văn vì có thể bị mù mắt. Nên dùng kính
lọc để quan sát nhật thực và chỉ nên dùng trong một lúc rất
ngắn.
Sao Kim và Trái đất bay
quanh mặt trời trên hai quỹ đạo khác nhau, lệch nhau một góc
nhỏ. Thời điểm thẳng hàng là khi hai quỹ đạo này trùng lên
nhau. Nó xảy ra 4 lần trong chu kỳ 243 năm. Trong số này có
2 lần vào tháng 12, diễn ra cách nhau 8 năm. Và sau 121,5
năm là hai lần nữa diễn ra vào tháng 6, mỗi lần cũng cách
nhau 8 năm. Tiếp đó 105,5 năm, chu kỳ mới sẽ bắt đầu.
Hiện tượng các hành tinh
xếp thẳng hàng với mặt trời thường là cơ hội rất tốt cho
giới thiên văn đo đạc các khoảng cách trong vũ trụ, hoặc tạo
cơ sở để tìm kiếm các hệ hành tinh ngoài mặt trời.
B.H. (theo
Reuters, 12/05/04)
|
Chuột chuyển gene thọ '136 năm'
|
|
|
Tất nhiên đó không phải là 136 năm thực, mà là tuổi
đời tương ứng với số năm của con người. "Cụ" chuột tý
hon có tên gọi Yoda vừa kỷ niệm lần sinh nhật thứ 4, trở
thành con chuột già nhất thế giới và nếu so với người
thì nó đã qua cái tuổi "bách niên" từ lâu
Khả năng sống dai kỳ diệu này của Yoda là nhờ những
biến đổi gene tác động đến tuyến yên và tuyến giáp của
nó, giảm bớt sự sản sinh insulin. |
Yoda (trái) và bạn tình Leia. |
|
Điều này cũng khiến cho nó nhỏ hơn 1/3 so với chuột
thường và rất nhạy cảm với cái lạnh. |
Tuy đã ở cái tuổi cổ lai hy, tương đương 136 năm ở người,
song "cụ" Yoda vẫn rất năng động, vẫn tìm bạn tình và vẫn
rất đẹp mã, tiến sĩ Richard A. Miller, giám đốc chương trình
nghiên cứu thuộc trường Y, Đại học Michigan, cho biết
Yoda hiện sống trong một phòng thí nghiệm được bảo quản
nghiêm ngặt với khoảng 100 con chuột đực già nua khác. Tuổi
trung bình của chuột thí nghiệm chỉ khoảng hơn 2 năm
Bạn tình cùng chuồng với Yođa, Công chúa Leia, là một con
cái to lớn hơn nhiều. Chính "cô nàng" đã sử dụng thân thể ấm
áp của mình để che chở cho "cụ" chuột lùn khỏi chết cóng
Các nhà nghiên cứu đang dựa vào những đột biến gene để
tìm hiểu bằng cách nào mà sự thay đổi lượng hoóc môn có thể
làm chậm quá trình lão hoá, với hy vọng nó sẽ mở ra những
phương pháp trường sinh mới mà thậm chí có thể áp dụng cho
người
B.H theo AP,
vnexpress
Chuột ra đời không cần cha
Các
nhà khoa học Nhật Bản và Hàn Quốc đã tạo ra hai con
chuột cái từ những quả trứng không thụ tinh. Chúng nhận
được hai bộ nhiễm sắc thể từ hai bà mẹ, thay vì từ 1 ông
bố và 1 bà mẹ như phôi thông thường.
Hiện tượng sinh sản này - sinh sản đơn
tính - không phải là hiếm với ong, kiến, rệp vừng và một
số loài cá hay bò sát, song chưa từng diễn ra với các
loài thú trong tự nhiên. Thông thường, con thú được thừa
hưởng một bộ nhiễm sắc thể từ mẹ, và một từ bố. Các phôi
chỉ chứa nhiễm sắc thể của mẹ thường chết ngay trong tử
cung, còn những phôi chỉ chứa vật liệu gene của bố thì
phát triển bất thường.
Tomohiro Kono, thuộc Đại học Nông
nghiệp Tokyo, Nhật Bản và cộng sự đã vượt qua trở ngại
này bằng việc trộn lẫn trứng của hai con cái, sau khi đã
"khoá" một gene chủ chốt trong trứng hiến, vốn là trở
ngại cho quá trình sinh sản đơn tính.
"Côn trùng có thể sinh sản theo phương
pháp này. Ngay cả gà cũng có thể được tạo ra từ sinh sản
đơn tính. Chúng tôi muốn biết tại sao đối với thú lại
khó khăn đến vậy", Kono nói.
Thực tế, một trong hai bà mẹ là một
con chuột sơ sinh bị đột biến gene - ADN của nó đã được
thay đổi để hoạt động giống như vai trò của con đực.
Tiếp đó, nhóm nghiên cứu cấy gene từ trứng của "ông bố"
chưa trưởng thành này vào trứng của một bà mẹ trưởng
thành khác. Sau đó, họ "kích hoạt" để chúng phát triển
thành phôi.
Quy trình cụ thể như sau: Trước tiên,
nhóm nghiên cứu "khoá" gene có tên gọi H19 trong trứng
của chuột non. Nhờ đó, họ đã làm tăng hoạt động của một
gene khác, gọi là Igf2. Gene này sản xuất ra một protein
chịu trách nhiệm điều chỉnh sự tăng trưởng ở bào thai.
H19 và Igf2 còn được gọi là gene đánh dấu, nghĩa là
chúng chỉ hoạt động trên ADN của con cái và "ngủ yên"
trên ADN của con đực, hoặc ngược lại. Thao tác trong thí
nghiệm đã cho phép nhóm nghiên cứu tạo ra trứng hiến có
đặc tính của con đực.
Trứng sau khi đã có hai loại vật liệu
di truyền sẽ phát triển thành phôi, và được cấy vào tử
cung của chuột. Tuy nhiên, hiệu quả của quá trình cấy
ghép này rất thấp. Chỉ có 2 trong tổng số 598 phôi chuột
phát triển đến giai đoạn cuối cùng.
"Hiệu quả của kỹ thuật này hiện khá
thấp. Vì thế, nó chưa sẵn sàng để áp dụng rộng rãi trong
thực tế", giáo sư Azim Surani, một chuyên gia về gene
đánh dấu tại Đại học Cambridge, Anh, nhận xét.
Một trong hai con chuột sống sót được
nhóm nghiên cứu đưa vào thử nghiệm, con còn lại (có tên
gọi Kaguya) được nuôi lớn đến tuổi trưởng thành và sinh
sản.
Kono cho biết kết quả của ông chứng tỏ
rằng hiện tượng đánh dấu gene theo dòng cha đã ngăn cản
quá trình sinh sản đơn tính ở thú, và đảm bảo vai trò
của con đực trong thiên chức sinh sản.
Một số chuyên gia tin rằng quy trình
này có thể được áp dụng trong các nghiên cứu về tế bào
gốc, nhưng các tác giả của công trình khẳng định nó sẽ
không được áp dụng cho người, ít nhất vì những thách
thức về mặt đạo đức mà kỹ thuật này sẽ vấp phải.
B. H 22/4/2004
vnexpress (theo BBC, Reuters) |
Một anh chàng bống đang mon men lại bạn tình.
|
|
Để quyến rũ các nàng,
một số cá bống đực xung phong đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc
trứng, trong khi những anh chàng khác lại cất lên những
bản tình ca mà các nhà nghiên cứu ví nó như tiếng ngáy
của con người.
Nghiên cứu công bố
trên tạp chí Behavioral Ecology cho thấy cá
bống đực - sống ở những vùng nước châu Âu -tỏ ra như một
người mẹ khi những con cái có mặt. Các ông bố này đóng
vai người mẹ bằng cách xây tổ, trông nom trứng, thậm chí
quạt cho trứng bằng những cái vây của mình. Tuy nhiên,
khi các cô nàng không có mặt ở đó thì những ông bố liền
lộ nguyên hình là các anh chàng chày bửa và đôi khi còn
xơi luôn cả trứng. |
Đây là lần đầu tiên người
ta tìm ra hình thức tán tỉnh nhau như vậy trong loài vật.
Colette St. Mary, giáo sư động vật học tại Đại học Florida,
phát biểu: "Những anh chàng đó hy vọng ghi thêm điểm qua
những nỗ lực của mình. Chúng chỉ mong muốn quyến rũ các cô
nàng giao phối với chúng".
Theo St. Mary, điều này
không khác ở con người, một ông bố tốt, đảm nhiệm vai trò
của người mẹ, sẽ trở nên hấp dẫn với bất cứ cô nàng nào.
Trong một nghiên cứu khác
công bố trong tạp chí Acoustical Society of America,
các nhà khoa học lại tìm thấy một số con cá đực tạo ra những
âm thanh vui tai khi chúng cố gắng quyến rũ một cô nàng nào
đó. Ở cá bống thì những âm thanh đó nghe như tiếng "khò
khò".
Các nhà nghiên cứu đã thu
lại được âm thanh tình yêu dưới nước tại Bahamas. David
Mann, tại Đại học Khoa học Hải dương ở South Florida đã nhận
ra âm thanh đó đến từ một anh chàng si tình. Nhưng ông vẫn
chưa xác định được chính xác loài này, có thể là cá tuyết,
grenadier, cá moury chấm đen hoặc cá nhám.
"Với con người thì những
tiếng gọi tình yêu của loài cá này nghe như tiếng ngáy hoặc
cái que kéo trên mặt sắt, nhưng nó lại là âm nhạc với những
con cái".
Theo Mann, những con đực
đã phải cố gắng để tạo nên âm thanh từ những cơ dọc theo
bong bóng, bởi việc tán tỉnh dưới nước là rất khó khăn.
"Dưới nước sâu thì việc xác định vị trí của bạn tình là một
trở ngại lớn, và khó có thể dựa vào những giác quan nào
khác".
Một số con có khả năng kêu
to đến mức có thể nhận ra được ở ngoài mặt nước. Thực tế
trong nhiều năm gần đây có những câu chuyện kể về người dân
ven biển nghe được những âm thanh kỳ quái trong đêm. Mann
giải thích đó chính là tiếng gọi tình của những anh chàng cá
trống hoặc cá cóc.
|
Cleopatra đã quyến rũ Antony như thế nào?
|
|
Minh Thi
|
|
|
Thiên tình sử bất hủ giữa nữ hoàng Ai
Cập Cleopatra và viên tướng La Mã Marc Antony đã được
bất tử hoá trên một chiếc bình cổ La Mã hiện được trưng
bày tại bảo tàng Anh
Susan Walker, nguyên phó giám đốc bộ
phận cổ vật Hy Lạp và La Mã tại Bảo tàng Anh, tin rằng
hình ảnh trên chiếc bình Portland có chạm trổ thuỷ tinh
chứng tỏ Cleopatra đã quyến rũ Antony, trong khi thần
tình ái và Anton, con trai của anh hùng Hercules, thì
đứng nhìn. Dòng họ của Marc Antony vẫn tuyên bố họ là
hậu duệ của Anton |
|
|
|
Nếu giả thuyết của Walker là đúng, thì
chiếc bình sẽ bổ sung thêm vào một số ít những hình ảnh đã
được biết tới về Cleopatra trong thế giới cổ xưa. Theo Lisa
Schwappach-Shirriff, tại Bảo tàng Ai Cập Rosicrucian ở San
Jose, California, hiện mới xác định được 7 bức tượng của
Cleopatra. Tất cả được làm bằng đá, chứ không phải thuỷ tinh
Trong buổi thuyết trình
tháng trước tại Bảo tàng Anh, Walker đã khẳng định rằng
chiếc bình thể hiện hình ảnh "cơ hội cuối cùng của Antony để
gìn giữ danh tiếng La Mã của mình, trước khi sự quyến rũ của
nữ hoàng Ai Cập trở nên không thể cưỡng lại đối với ông".
Sau thất bại tại cuộc
chiến Actium (năm 31 trước Công nguyên), Antony tìm đến chỗ
ở của Cleopatra ở Alexandria, tại đó ông nghe được tin đồn
về cái chết của nàng. Antony liền tự sát và theo truyền
thuyết, Cleopatra sau đó cũng tự kết liễu đời mình bằng nọc
độc của rắn. Hình ảnh con rắn đã được minh hoạ quanh cơ thể
người đàn bà trên chiếc bình.
Bảo tàng Anh đã gọi chiếc
bình Portland là tạo vật chạm trổ thuỷ tinh nổi tiếng nhất
từ đời xưa. Để tạo nên những hình chạm trổ, thợ thổi thuỷ
tinh đã phải hoà thuỷ tinh đen vào thuỷ tinh trắng và sau
khi để nguội, mài giũa nó để cho ra các hình hài.
Với kiểu chế tác như vậy
nên rất khó xác định niên đại chiếc bình. Xác định bằng
carbon thì không có tác dụng bởi nó cần những mẫu vật lấy từ
động thực vật. Dùng phương pháp phát quang thì cũng không
thành công, bởi nó chỉ dựa trên những vật thể được nung nóng
ở nhiệt độ ít nhất 350 độ C. Các phương pháp khác thì cần
mẫu vật mà có thể làm hỏng chiếc bình.
Hình ảnh trên chiếc bình
cũng làm đau đầu các chuyên gia trong nhiều năm. Nguồn gốc
của nó vẫn chưa được xác định. Người ta chỉ biết đến bình cổ
này vào năm 1601 và do một hồng y giáo chủ Italy sở hữu.
Tháng 8/2003, Jerome Eisenberg, thuộc tạp chí nghệ thuật và
khảo cổ Minerva, tuyên bố chiếc bình được làm từ thế kỷ 16.
Eisenberg cũng tin rằng hình ảnh trên đó mang phong cách
Phục Hưng hơn là La Mã.
Nhưng Schwappach-Shirriff
thì ủng hộ giả thuyết của Bảo tàng Anh về thời gian xuất xứ
của chiếc bình. "Nghệ thuật chạm trổ kính La Mã chỉ phổ biến
ở 2 giai đoạn chính là từ năm 27 trước Công nguyên đến 68
sau Công nguyên, và một quãng trong thế kỷ 4. Chúng thường
rất đắt và được coi là những món đồ xa xỉ".
Schwappach-Shirriff cho
rằng giả thuyết về hình ảnh trên chiếc bình của Walker là
thú vị, đặc biệt khi những nghệ sĩ cổ điển thường muốn giấu
đi danh tính và ý nghĩa trong các tác phẩm của mình. Tuy
nhiên, do nguồn gốc của chiếc bình không được ghi chép rõ
ràng, nên chưa thể khẳng định giả thuyết này là đúng hay
sai.
"Tôi chưa thể nói đó là
Antony và Cleopatra, cũng như tôi có thể khẳng định đây
không phải là Caesar và Octavia".
14/4/2004 vnexpress
(theo Discovery)
Công bố bản đồ chi tiết gene người
Mỹ Linh
|
|
Chuỗi gene. |
Khoảng 150 nhà khoa học
đến từ các viện nghiên cứu và đại học trên thế giới đã
chung sức xây dựng một bản đồ chi tiết 21.000 gene
người. Công trình được xem là bước tiến quan trọng, giúp
việc giải mã ADN có ý nghĩa hơn trong trong lĩnh vực tìm
hiểu và chăm sóc sức khỏe con người.
Năm 2003 là dấu mốc
quan trọng đối với cộng đồng khoa học thế giới, khi mà
trình tự gene người chính thức được hoàn thiện. Tuy
nhiên, người ta vẫn cần phải là sáng tỏ một khối lượng
lớn thông tin thô về thế giới gene.
|
- Phân tử ADN chuỗi xoắn kép được
liên kết với nhau bằng các thành phần hoá học gọi là
các đơn vị cơ bản. - Đó là Adenine (A) gắn với
Thymine (T); Cytosine(C) gắn với Guanine (G). - Sự
sắp xếp các chữ cái này tạo thành "mã của sự sống".
Có khoảng 2,9 tỷ cặp đơn vị cơ bản trong trình tự
gene người, kết tụ thành 24 nhiễm sắc thể riêng
biệt. - Trong một ADN có khoảng 30.000 gene. Tế bào
người sử dụng những gene này như những khuôn cố định
để tạo nên protein. |
Công trình nghiên cứu, phân tích và
xuất bản một bản đồ tổng hợp về gene người của Tập đoàn
H-Invitational sẽ hỗ trợ tích cực cho công việc trên.
H-Invitational là một tổ chức khoa học quốc tế, dẫn đầu
là Takashi Gojobori đến từ Viện Khoa học và công nghệ
tiên tiến Nhật Bản. Họ đã thu thập cơ sở dữ liệu của tất
cả các gene được nhận dạng từ trước tới nay, đồng thời
tiến hành một cuộc phân tích thấu đáo 41.118 bộ ADN bổ
sung (cDNAs) và các phân tử tổng hợp có nguồn gốc từ ARN
tương ứng với mỗi gene trong trình tự. Công việc này cho
phép nhóm xác nhận 21.037 gene chức năng và 5.155 gene
ứng cử mới.
"Gene vẫn còn là một khái niệm mơ hồ"
- Anthony J Brookes thuộc Viện Karolinska, Thuỵ Điển,
một thành viên trong nhóm nói. "Một chuỗi trình tự có
thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau để tạo nên
các ARN và protein khác nhau. Chúng có thể được biểu
diễn dưới dạng vô số tế bào ở những vị trí khác nhau và
tại các thời điểm khác nhau. Đây là vấn đề cần được làm
sáng tỏ hiện nay".
Quá trình phân tích của H-Invitational
cũng cho thấy khoảng 4% trình tự gene người đang bị thất
lạc và nhiều ADN không hề có chức năng cụ thể. "Hệ gene
không phải là chương trình máy tính, nó liên tục tiến
hóa theo thời gian. Một số mảnh gene và phân tử ARN
không hoạt động. Chúng có thể từng hoạt động, song đang
nghỉ ngơi để chờ cơ hội tiến hóa".
Dữ liệu của H-Invitational có chứa các
dạng protein khác nhau được đánh mã gene, được gọi là
các dạng ghép nối đồng nhất. Đó là những lời tiên tri về
các protein sẽ ra đời và những vị trí hoạt động của gene
trong cơ thể.
vnexpress.net (theo BBC) |
Công bố bản đồ mã gene chuột lớn
B.H.
Bản đồ gene chuột lớn - loài
thú thứ ba trên thế giới từng được giải mã di truyền sau
người và chuột nhắt - sẽ đẩy nhanh quá trình tìm kiếm các
liệu pháp chữa bệnh cho con người. Công trình do một nhóm
khoa học quốc tế, dẫn đầu là Mỹ, công bố hôm qua.
Chuột lớn được ưu tiên
giải mã gene là do tầm quan trọng của nó trong các nghiên
cứu y học. Gần 200 năm qua, các nhà khoa học đã sử dụng loài
động vật này như là một "mô hình" để thử nghiệm các ý tưởng
về sinh học người. Ngày nay, cùng với họ hàng chuột nhắt,
chuột lớn có mặt trong hơn 80% các loại thí nghiệm. Người ta
đã tạo ra hàng trăm chủng chuột nhắt và chuột lớn để cho mắc
những căn bệnh ở người. Chuột lớn cũng rẻ và dễ kiếm hơn.
Ngoài ra, việc sử dụng chúng cho mục đích khoa học cũng ít
gặp phải sự phản đối như với linh trưởng.
Từ những thông tin lưu trữ
trong bộ gene chuột lớn, giờ đây các nhà nghiên cứu sẽ thuận
lợi hơn trong việc tạo ra những mô hình bệnh gần giống ở
người, để từ đó tìm ra phương pháp trị liệu hiệu quả nhất.
"Các mô hình bệnh tốt hơn
sẽ làm giảm số lần thất bại trong quá trình thử nghiệm lâm
sàng (hiện đang chiếm đến 90%), do đó hạ chi phí sản xuất và
thời gian để đưa thuốc ra thị trường", giáo sư Howard Jacob,
từ trường Y Wisconsin, Mỹ cho biết.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng
giống chuột lớn Nauy màu nâu (Rattus norvegicus), với
mẫu lấy từ hai con cái và một con đực. Hơn 90% ADN của chúng
đã được đọc, phân loại và phân tích sơ bộ. Phần còn lại chưa
đầy 10%, theo các nhà nghiên cứu, là không chứa dữ liệu có
nghĩa và do đó chưa ai có ý định tiếp tục giải mã nó.
Nhóm nghiên cứu phát hiện
bộ gene chuột lớn có kích cỡ gần giống như bộ gene người -
với 2,75 tỷ ký tự, hay các đơn vị ADN cơ bản, và cũng chứa
một lượng gene tương đương, khoảng 25.000 gene. Ngoài ra,
một điều rõ ràng là hầu hết gene tìm được trên sinh vật này
cũng xuất hiện trên người.
Tất nhiên, có sự khác biệt
cơ bản giữa bộ gene của hai loài. Chẳng hạn sự thay đổi thứ
tự nhiều gene, hay ở chuột lớn, xuất hiện những nhóm gene
tạo cho chúng một khứu giác tuyệt vời và khả năng kháng lại
các độc tố.
Bằng việc so sánh mã gene
chuột lớn với gene người và chuột nhắt, các nhà nghiên cứu
cũng có thể hình dung được sự tiến hóa của các loài thú rõ
nét hơn. Trong cả 3 loài này, khoảng 40% mã di truyền là kế
thừa từ một tổ tiên chung, tồn tại gần 10 triệu năm trước.
Công trình về khứu giác đoạt giải Nobel y học
|
|
Linda B. Buck. |
Giải Nobel Y học 2004 vừa được
trao cho hai nhà nghiên cứu Mỹ, Richard Axel và
Linda B. Buck, với công trình tìm hiểu sự hoạt
động của giác quan bí ẩn nhất - khứu giác. Chẳng
hạn, bằng cách nào một người có thể ngửi thấy
cây đinh tử hương trong mùa xuân, và nhớ lại nó
trong mùa đông.
Axel và Buck, "trong những
nghiên cứu độc lập, đã làm sáng tỏ hệ thống khứu
giác của con người, từ cấp độ phân tử tới sự tổ
chức của các tế bào", hội đồng trao giải viện
dẫn trong bản tuyên dương thành tích của hai
người vừa diễn ra tại Viện Karolinska,
Stockholm, Thụy Điển.
Trong các nghiên cứu tiên
phong của mình, hai nhà khoa học đã khám phá ra
một họ gene lớn, là nền tảng cho khả năng nhận
biết khoảng 10.000 mùi hương khác nhau của con
người, như đinh tử hương, rượu vang, dâu tây, và
ghi nhớ chúng trong suốt cuộc đời.
Axel, 58 tuổi, làm việc tại
Viện y học Howard Hughes và Đại học Columbia ở
New York, đã chia sẻ giải thưởng danh giá này
với Buck, 57 tuổi, làm việc tại Trung tâm nghiên
cứu ung thư Hutchinson ở Seattle.
Hai người kết hợp công bố các
phát hiện về gene vào năm 1991, và từ đó làm
việc độc lập để làm sáng tỏ hoạt động của hệ
thống khứu giác.
Khi được hỏi liệu có nghĩ rằng
mình sẽ đoạt giải Nobel, Axel nói: "Không, đây
là điều tôi chưa hề nghĩ tới, tôi chỉ nghĩ về
khoa học của mình". Được hỏi ông sẽ làm gì trước
tiên sau khi nhận được tin này: "Tôi sẽ đi uống
một cốc cà phê", ông nói.
Việc trao giải Nobel y học đã
mở đầu một tuần lễ Nobel, kết thúc bằng việc
trao giải Nobel kinh tế vào ngày 11/10. Giải Hòa
bình - giải duy nhất trao tặng tại Oslo, Nauy -
sẽ được công bố vào 8/10. Giải Vật lý công bố
vào ngày mai (5/10) và giải Hóa học vào ngày kia
(6/10) tại thủ đô của Thụy Điển.
Ngày trao giải Nobel văn học
chưa được Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển ấn
định, nhưng có thể vào 7/10.
Các giải thưởng cũng được giới
thiệu vào ngày 10/12, nhân kỷ niệm ngày mất của
Nobel. Giải thưởng trị giá 1,3 triệu USD.
Thuận An
(5/10/2004, theo vnexpress.net, AP, AFP) |
|
Con người mất 1.000 năm để thuần giống thực vật
|
|
Minh Thi
Những hoá thạch
sót lại từ các hạt lúa mỳ, lúa mạch, quả sung và
quả hồ trăn gần 10.000 tuổi đã giúp các nhà khoa
học giải đáp một bí ẩn, đó là khi nào và làm thế
nào những người săn bắt hái lượm du mục trở
thành các nông dân định cư.
Nhóm nghiên
cứu do nhà khảo cổ Phillip Edwards tại Đại học
La Trobe, Australia, đứng đầu, cho biết những gì
tìm thấy ở Trung Đông cho thấy con người đã trải
qua giai đoạn 1.000 năm trồng các cây hoang dại
trước khi bắt đầu nhân giống chúng một cách có
hệ thống.
Nhóm nghiên
cứu đã phân tích những mẫu vật còn sót lại tại
một khu vực gần Biển Chết ở Jordan, đại diện cho
thời kỳ đồ đá tiền thời kỳ đồ gốm A (Pre-Pottery
Neolithic A - PPNA), khi đó con người bắt đầu
định cư. Các nhà khoa học xác định khu vực có
niên đại 9.600-9.300 năm BP (tức là 9.600-9.300
năm trước hiện tại - hiện tại được xác định là
năm 1950 sau Công nguyên).
Đến gần đây,
kỷ PPNA cũng được công nhận là khoảng thời gian
con người bắt đầu thuần hoá thực vật. Nhưng điều
vẫn gây tranh cãi là bất cứ dấu vết thực vật nào
có từ kỷ PPNA đều chưa phải là bằng chứng xác
đáng cho thấy chúng thuộc những loài đã được
thuần giống.
"Các ngôi làng
mọc lên dày đặc trong giai đoạn này, và nếu
không phải vì có một nguồn thực phẩm mới thì
nguyên nhân là gì, vẫn chưa ai lý giải được",
Edwards cho biết.
Các nhà khảo
cổ đã nghiên cứu những hạt lúa mạch cổ tại khu
vực Biển Chết và thấy chúng tuy to hơn những hạt
trong tự nhiên, nhưng lại không to bằng những
hạt được trồng tìm thấy trong kỷ tiếp theo
Pre-Pottery Neolithic B (PPNB). Đó là một bằng
chứng cho thấy có một giai đoạn trước khi có sự
trồng trọt đích thực, gọi là "pre-domestication
cultivation".
"Chúng tôi cho
rằng họ vẫn là những người săn bắt hái lượm,
nhưng có kết hợp thêm hoạt động trồng trọt một
số cây hoang dã như lúa mỳ, lúa mạch và cây họ
đậu, vì vậy mà chúng tôi gọi đó là giai đoạn
trồng trọt tiền thuần hoá", Edwards nhận định.
Mặt đất bằng
phẳng và những con suối nhỏ cũng chứng tỏ những
hạt lúa mỳ và lúa mạch đã được trồng ở đó. Các
nhà khảo cổ còn tìm thấy cối, chày và một số
dụng cụ xay xát khác. Tuy vậy, những hạt sung
hoặc hồ trăn được tìm thấy tại vùng đất rất khô
và mặn chứng tỏ chúng không được trồng mà có thể
được hái từ trên đồi. Bằng chứng này bổ sung giả
thuyết rằng cư dân ở Biển Chết là những người
săn bắt hái lượm bán thời gian.
Cuộc nghiên
cứu cũng xác định lại khoảng thời gian mà kỷ
PPNA kết thúc. Thông thường nó được cho là bắt
đầu vào năm 10.300 BP và kết thúc vào năm 9.600
BP. Nhưng nhóm của Edward cho rằng giai đoạn này
kết thúc vào khoảng 9.300-9.200 BP. Còn kỷ tiếp
theo, PPNB, bắt đầu vào khoảng 9.400-9.300 BP.
vnExpress 13/04/04
(theo ABC Online)
Có thể du hành về quá khứ và tương lai?
|
|
ngày 03 tháng
04 năm 2004 |
|
|
|
Nhà vật lý Ronald
Mallett thuộc Đại học tổng hợp
Connecticut (Mỹ) cho biết đã có cách
chế tạo cỗ máy thời gian để đưa con
người hành trình ngược dòng về quá
khứ và du lịch vào tương lai.
Theo Ronald
Mallett, đó là một kiểu “khí tài
bay” có khả năng di chuyển mọi vật
và con người từ quá khứ đến tương
lai và ngược lại. Khác với đa số các
nhà khoa học, giáo sư 57 tuổi này
không hy vọng thực hiện được ước mơ
xa xưa của loài người là du ngoạn
theo hai chiều của thời gian mà ông
chỉ nghiên cứu tìm ra phương pháp để
di chuyển các nguyên tử cũng như con
người đang sống đi theo thời gian
Giáo sư Mallett
tuyên bố: “Tôi không phải là một kẻ
lập dị. Tôi có ý định xây dựng một
mô hình hoạt động và sẽ sớm bắt đầu
các cuộc thí nghiệm. Đây cũng không
phải là một lý thuyết gì mới mẻ về
vật chất, để rồi sẽ mang tên tôi
kiểu như “Lý thuyết Mallett”, mà
hoàn toàn dựa vào lý thuyết tương
đối của Einstein. Tóm lại, tất cả
đều được dựa trên những quy luật vật
lý đã được biết đến từ trước đến nay" |
Ronald L. Mallett
Ph.D., Professor of Physics
Research Group Affiliation
Particle and
Field Theory
University of Connecticut U-3046
2152 Hillside Road
Storrs, CT 06269-3046
|
Room
No:
|
P-414
|
|
Tel:
|
(860) 486-4693
|
|
Fax:
|
(860) 486-3346
|
|
Email:
rlmallett@aol.com
|
|
|
Theo lý thuyết về
trường hấp dẫn của Einstein, bất kỳ
vật thể nào có khối lượng và năng
lượng đều làm méo không gian và dòng
thời gian xung quanh nó, hệt như khi
quả cầu rơi xuống một tấm cao su
căng phẳng, nó làm cho bề mặt tấm
cao su võng xuống tại điểm quả cầu
rơi. Theo nhận xét của Mallett,
những tia laser một khi bị làm chậm
lại khi đi qua đường cáp quang và
các tinh thể đặc biệt, có thể tạo
nên sự méo mó không gian và thời
gian tương tự và có thể dịch chuyển
theo thời gian.
Giáo sư Mallett
và cộng sự tại Đại học dự kiến xây
dựng một thiết bị để kiểm tra xem
liệu các hạt cơ bản như nơtron có
thể di chuyển theo dòng thời gian
hay không. Theo dự kiến của Mallett,
năng lượng của chùm tia laser đang
quay có khả năng làm biến dạng không
gian trong vành khuyên ánh sáng sao
cho lực hấp dẫn sẽ buộc các nơtron
thay đổi hướng quay của nó.
Ông cho rằng, khi
sử dụng một khối lượng năng lượng
lớn hơn có thể làm xuất hiện một
nơtron thứ hai. Hạt vật chất thứ hai
này sẽ là tương lai của hạt thứ
nhất. Trong thực tế, để cho con
người có thể du ngoạn trong thời
gian cần phải có năng lượng nhiều
tới mức mà hiện nay chúng ta chưa
thể tạo ra được. Nhưng điều này
không làm cho Mallett bận tâm. Theo
ông, đây chỉ là vấn đề thuần tuý về
mặt kỹ thuật, còn điều quan trọng
nhất là đã tạo ra một khả năng
có tính nguyên tắc để du ngoạn
trong thời gian.
vnExpress.net |
Summary of Research Activity
Gravitational
Field of Circulating Light Beams
In Einstein's
general theory of relativity, both
matter and energy can create a
gravitational field. This means that
the energy of a light beam can
produce a gravitational field. My
current research considers both the
weak and strong gravitational fields
produced by a single continuously
circulating unidirectional beam of
light. In the weak gravitational
field of a unidirectional ring
laser, it is predicted that a
spinning neutral particle, when
placed in the ring, is dragged
around by the resulting
gravitational field [R. L. Mallett,
"Weak gravitational field of the
electromagnetic radiation in a ring
laser," Phys. Lett. A 269, 214
(2000)
http://temporology.bio.msu.ru/EREPORTS/mallett.pdf].
For the strong
gravitational field of a circulating
cylinder of light, I have found new
exact solutions of the Einstein
field equations for the exterior and
interior gravitational fields of the
light cylinder. The exterior
gravitational field is shown to
contain closed timelike lines [R. L.
Mallett, "The gravitational field of
a circulating light beam,"
Foundations of Physics 33, 1307
(2003)]. The presence of closed
timelike lines indicates the
possibility of time travel into the
past. This creates the foundation
for a time machine based on a
circulating cylinder of light.
Popular articles
on this research are given, for
example, by
www.villagevoice.com/issues/0216/edlim.php
or
http://www.walterzeichner.com/thezfiles/timetravel.html.
An audio presentation of an invited
lecture entitled "A Brief History of
Time Travel" given at the Boston
Museum of Science on April 5, 2002
can be found at
http://streams.wgbh.org/forum/forum.php?lecture_id=1203
Additional information can also be
obtained by doing a google search
under Ronald L. Mallett.
The Learning
Channel aired an hour long
documentary on December 3, 2003
featuring some of my current time
travel research.
Cosmic
Degenerate Bose-Einstein Dark Matter
In collaboration
with Mark P. Silverman of the
Department of Physics of Trinity
College, a general relativistically
covariant theory of a self coupled
scalar field has been developed as a
possible solution of the missing
mass problem. We have shown that
spontaneous symmetry breaking of a
neutral scalar field coupled to
gravity leads directly to ultra-low
mass bosons, with a critical
temperature far above the
temperature of the universe, for
most of its duration. The particles
are therefore expected to condense
into a degenerate Bose Einstein gas,
providing a potential candidate for
nonbaryonic nonluminous matter [M.P.
Silverman and R.L. Mallett, "Cosmic
degenerate matter: a possible
solution to the problem of missing
mass," Class. Quantum Grav. 18, L37
(2001); M. P. Silverman and R. L.
Mallett, "Dark matter as a cosmic
Bose-Einstein condensate and
possible superfluid," Gen. Rel.
Grav. 34, 633 (2002)]
|
|
|
|
Cuộc sống tình cảm qua thơ ca Ai Cập cổ
Minh Thi
|
Bức hoạ trên tường trong lăng
mộ của Tutankhamun tại Thung lũng các ông hoàng. |
Kim tự tháp, xác
ướp, hầm mộ và những hiện vật tượng trưng cho tầng
lớp quý tộc và thế giới bên kia thống trị hình ảnh
của chúng ta về Ai Cập cổ đại. Nhưng những bài thơ
được sáng tác cách đây hàng nghìn năm có thể mang
tới một cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống thường
ngày của người Ai Cập xưa.
"Thơ ca có thể là
tài sản bị lãng quên lớn nhất trong thế giới Ai Cập
cổ đại", Richard Parkinson, chuyên gia văn học Ai
Cập cổ tại Bảo tàng Anh, phát biểu.
Trong khi những
ghi chép lịch sử và các tác phẩm được miêu tả bên
trong các ngôi mộ thường đưa ra những giải thích
mang tính lý tưởng hoá về cuộc sống Ai Cập thời xưa,
thì thơ ca mang đến một cái nhìn thực tế về bản chất
con người và những khiếm khuyết của họ.
Một tập thơ tình
vừa được phát hiện trong ngôi làng Deir el-Medina,
từng là nơi sinh sống của các thợ xây lăng mộ, bên
ngoài Thung lũng các ông hoàng. Những áng thơ này
cho phép người yêu thơ và say mê Ai Cập thâm nhập
vào cuộc sống tình cảm của những người dân bình
thường nhất.
"Mọi người thường
cho rằng tất cả những tác phẩm của Ai Cập cổ đều
mang tính tôn giáo, nên tính chất đời thường của
những bản tình ca này không ngừng làm ngạc nhiên các
độc giả", Parkinson cho biết.
Được viết vào thời
kỳ New Kingdom (1539-1075 trước Công nguyên), những
bản tình ca này ca ngợi tình yêu và sự lãng mạn, với
cách sử dụng đầy bất ngờ thuật ẩn dụ, lặp từ và
những kỹ thuật khác, tương tự nền thơ văn ngày nay.
The
Flower Song (Excerpt)
To hear your
voice is pomegranate wine to me:
I draw life from hearing it.
Could I see you with every glance,
It would be better for me
Than to eat or to drink.
Bài ca
loài hoa (trích)
Giọng nói em
ngọt ngào như rượu lựu
Tôi có thêm sinh lực khi nghe giọng nói ấy
Được nhìn thấy em thoáng qua thôi
Cũng là tuyệt vời rồi
Chẳng cần ăn hay uống.
(tạm dịch)
Theo Jacco
Dieleman, nhà Ai Cập học tại Đại học California, nền
thơ ca sơ khai tại Ai Cập có thể là một phần của nền
văn nói truyền thống. Các bài thánh ca, câu chuyện
và lời cầu nguyện được truyền từ người này sang
người khác. Thời đó, có thể chỉ một trong một trăm
người biết đọc và viết.
Hệ thống chữ viết
tượng hình của Ai Cập (Hieroglyph) có thể đã được
sáng tạo để giúp những nhà buôn ghi chép hàng hoá và
tính toán tiền nong. Sau này, chữ tượng hình được
khắc trên các ngôi mộ hoàng gia để ghi lại tiểu sử
chủ nhân của ngôi mộ. Qua nhiều thời gian, những bản
tiểu sử dài hơn, các bài thơ và bài hát cũng dần
xuất hiện.
Để đọc được những
áng văn thơ của người Ai Cập xưa, phải trải qua một
quá trình gồm 2 bước. Hầu hết những tác phẩm được
viết bằng chữ thầy tu (hieratic) - một dạng viết tắt
của hieroglyph. "Để viết ra tất cả những chữ
hieroglyph đẹp đẽ về chim chóc, đàn ông, đàn bà, bạn
sẽ mất vài ngày để hoàn thành bức thư", Dieleman cho
biết.
Để giải mã chữ
viết cổ, Dieleman nghiên cứu kỹ lưỡng những bức chụp
chi tiết về các tác phẩm được khai quật, cùng với sự
quan sát hiện vật thực, nếu có thể. Sau đó, ông dịch
từ hieratic sang hieroglyph. Tại giai đoạn này, ông
bổ sung âm thanh cho các chữ cái và nhặt ra các từ,
câu và cả đoạn.
Những giai thoại
lịch sử và các bài thánh ca thường được khắc trên
tường trong mộ, viết trên giấy cói hoặc được vẽ
nguệch ngoạc lên các mảnh gốm. "Những mảnh gốm này
được coi là giấy nháp của người Ai Cập xưa", Terry
Wilfong, nhà Ai Cập học tại Đại học Michigan, cho
biết.
Những tác phẩm
được tìm thấy tại ngôi làng Deir el-Medina chứng tỏ
người dân thời đó khá hay chữ. Những bài thơ tình
thường mang tính nhạc và sử dụng các sự kiện trong
cuộc sống thường nhật, như trồng lúa, bắt chim, đánh
cá bên dòng sông Nile, như một ẩn dụ về tình yêu.
The Crossing
(Excerpt)
I'll go down
to the water with you,
and come out to you carrying a red fish,
which is just right in my fingers.
Qua
sông (trích)
Tôi sẽ bước
xuống nước cùng em
và mang tới cho em một con cá đỏ
chìa ngay ra trên những ngón tay.
(tạm dịch)
Tiếng nói của phụ
nữ khá mạnh mẽ trong thơ ca Ai Cập cổ - như trong
vai người kể chuyện hoặc người lựa chọn bạn tình.
Điều này chứng tỏ phái yếu có vị trí cao hơn trong
nền văn hoá Ai Cập xưa. Phụ nữ cũng có thể là tác
giả của một số bài thơ.
Một trong những
tác phẩm yêu thích của nhà khảo cổ Wilfong là bài
thơ ca tụng một người chơi đàn hạc. Có từ năm 1160
trước Công nguyên, bài thơ này được tìm thấy trên
ngôi mộ của Inherkhawy, người giám sát công nhân tại
khu mộ hoàng gia ở thành phố Thebes cổ.
The
Harper's Song for Inherkhawy (Excerpt)
So seize the
day! hold holiday!
Be unwearied, unceasing, alive
you and your own true love;
Let not the heart be troubled during your
sojourn on Earth,
but seize the day as it passes!
Bài ca
đàn hạc dành cho Inherkhawy (trích)
Hãy nắm lấy
ngày hôm nay, giữ trọn ngày lễ này
Đừng mệt mỏi, đừng dừng lại, hãy sống
anh và tình yêu đích thực của anh
Đừng để trái tim phải muộn phiền
khi anh lưu lại trên trái đất
mà hãy nắm lấy ngày hôm nay khi nó đang trôi qua!
(tạm dịch)
21/4/2004,
vnexpress(theo National Geographic) |
|
|
B.H.
13/08/2004
vnexpress.net |
|
|
Các
nhà khoa học Mỹ vừa biến những con khỉ biếng
nhác thành những kẻ siêng năng, nhờ một liệu
pháp gene để khóa một hợp chất chủ đạo trên não
Giống như
nhiều người trong chúng ta, khỉ thường uể oải
khi thực hiện những việc có mục tiêu ở xa. Chúng
chỉ hăng hái khi biết chắc sắp nhận được phần
thưởng,Đã có 'thuốc' trị
bệnh lười?
"Thông thường
người và khỉ đều làm việc theo kiểu đối phó -
nghĩa là chần chừ nếu còn nhiều thời gian cho
việc đó, và sẽ nhanh nhẹn hơn nếu sắp nhận được
phần thưởng. Tuy nhiên, những con khỉ trải qua
liệu pháp gene mới đều trở nên chăm chỉ hơn",
tiến sĩ Barry Richmond, thuộc Viện sức khỏe tâm
thần quốc gia, cho biết.
Richmond và
cộng sự đã sử dụng một kỹ thuật mới để khóa gene
D2 của khỉ. Gene này có vai trò tạo ra một thụ
quan để tiếp nhận dopamine - chất mang thông tin
quan trọng của não, thường đi kèm với việc nhận
phần thưởng, sự di chuyển và nhiều chức năng
quan trọng khác. Sau khi được khóa gene D2, khỉ
không còn tiếp nhận được dopamine nữa.
Thí nghiệm
được thực hiện với 7 con khỉ nâu. Chúng phải đẩy
một cái cần theo tín hiệu chỉ dẫn trên một màn
hình, và sẽ nhận được phần thưởng là một giọt
nước.
"Kết quả là
nếu như trước đó, chúng chỉ làm việc hiệu quả -
mắc ít lỗi hơn - khi sắp được nhận phần thưởng,
thì sau khi không còn thụ quan dopamin, chúng
liên tục làm việc hăng hái và mắc ít lỗi. Đó là
vì chúng không cần phải căn cứ vào tín hiệu trên
màn hình để đoán xem khi nào sắp được nhận phần
thưởng nữa", Richmond cho biết. "Việc khóa gene
này đã làm kích hoạt sự thay đổi trong quan điểm
làm việc của khỉ".
Tiến sĩ
Richmond tin rằng liệu pháp này một ngày nào đó
có thể đem lại lợi ích cho con người, chẳng hạn
như khi họ rơi vào trạng thái phiền muộn, u uất,
khi mà sự hăng hái gần như biến mất khỏi tâm
trí. Nhưng với hầu hết chúng ta, ngày mà liệu
pháp đó rơi vào tay các ông chủ có thể cũng là
ngày mà chúng ta vứt bỏ nó.
|
|
|
|
Đẩy phi thuyền bằng chùm plasma
|
|
|
Các
chùm ion hội tụ có thể đẩy nhà du hành tới sao
Hỏa và quay về trái đất chỉ trong 90 ngày, một
nhóm nghiên cứu của NASA tuyên bố. Viễn cảnh có
thể đưa chúng ta tới những chuyến du hành nhanh
hơn quanh hệ mặt trời.
Ý tưởng của
Robert Winglee, thuộc Đại học Washington ở
Seatle, Mỹ, như sau: Khi phóng một chùm plasma
các hạt tích điện (hay ion) bị từ hóa vào một
phi thuyền có trang bị cánh buồm từ tính, lực
đẩy từ giữa cánh buồm và chùm tia sẽ cung cấp
cho con tàu một động năng khổng lồ, đẩy nó bay
nhanh về phía trước với tốc độ lớn chưa từng
thấy.
Về lý thuyết,
phi thuyền sẽ cất cánh từ một trạm không gian
đang bay trên quỹ đạo quanh trái đất. Trạm không
gian này bắn ra một chùm plasma từ một miệng vòi
có đường kính khoảng 10 mét, đẩy con tàu đi với
vận tốc cao. Khi con tàu gần tới đích, một chùm
plasma thứ hai - được phóng ra từ trạm vũ trụ
đang bay quanh Hỏa tinh - sẽ làm chậm tốc độ của
nó.
Một phi thuyền
truyền thống hoạt động nhờ đốt nhiên liệu phải
mất 2 năm để hoàn tất chuyến thám hiểm quanh sao
Hỏa, Winglee cho biết. Ngược lại, chùm tia từ
hóa này sẽ đẩy con tàu đi với tốc độ hàng chục
nghìn dặm mỗi giờ.
"Đó là một ưu
thế lớn giúp con người đi nhanh hơn", Giám đốc
Viện các ý tưởng tiến bộ của NASA, Robert
Cassanova, nhận xét. Do chuyến đi không cần mang
nhiều thực phẩm và nhiên liệu dự trữ, các nhà du
hành có thể dành nhiều tài nguyên hơn cho việc
hỗ trợ thám hiểm. Sức khỏe của họ cũng tốt hơn
do chỉ phải dành ít thời gian bay trong tình
trạng không trọng lượng.
"Nếu được hỗ
trợ kinh phí đầy đủ, ít nhất chúng ta có thể
tiến hành chuyến bay thử nghiệm đầu tiên trong 5
năm tới", Winglee cho biết. Một chuyến thử
nghiệm trị giá khoảng 1 triệu USD, trong khi chi
phí cho cả hành trình lên sao Hỏa sẽ phải mất
hàng tỷ USD, do còn phải xây dựng một trạm vũ
trụ ở đó. "Nhưng một khi đã có cơ sở hạ tầng,
con người có thể bắt đầu bay quanh thái dương hệ
mà không cần thiết kế thêm các động cơ mới cho
mỗi lần bay, ông nói.
Dự án thực ra
đã bắt đầu từ nhiều năm trước đây, khi Winglee
tự hỏi liệu có thể nạp năng lượng cho các chuyến
bay vũ trụ dài ngày bằng những hạt tích điện
phóng ra từ mặt trời (hay gió mặt trời). Để làm
được điều đó, con tàu cần có một cánh buồm để
hứng gió mặt trời và lao về phía trước. Tuy
nhiên, vì gió mặt trời chỉ thổi theo một hướng,
nên việc tận dụng chúng để đẩy con tàu bay tới
sao Hỏa rồi lại bay về là rất khó khăn.
Giải pháp của
Winglee là một thiết bị có tên gọi High Power
Helicon, có khả năng phóng ra một chùm hạt tích
điện, rồi hội tụ chúng lên cánh buồm và đẩy tàu
đi. Với công suất 60 kilowatt, thiết bị này là
một trong những máy phát plasma mạnh nhất thế
giới. Một giải pháp khác nhằm tạo lực đẩy cho
phi thuyền là đặt lò phản ứng hạt nhân trên đó.
Sau cùng, rắc rối lớn nhất với
chùm hạt tích điện là liệu nó có hội tụ chính
xác qua khoảng cách lớn hay không. "Chúng tôi
mới chỉ quan sát nó trên quãng đường vài mét,
nhưng ở khoảng cách xa hơn thì còn phải thử
nghiệm thêm", John Slough, cộng sự của Winglee,
nói.
Thuận An
(19/10/2004, vnexpress.net,
theo NewScientist)
|
Phi thuyền bay trong vũ
trụ bằng "gió" mặt trời
|
Buồm mặt trời sẽ khiến
các chuyến bay vào vũ trụ rẻ hơn. |
Tháng 8 tới,
phi thuyền đầu tiên dùng ánh sáng mặt trời
làm sức đẩy sẽ bay vào quỹ đạo quanh trái
đất, mở đường cho thế hệ các chuyến bay
tương tự vào vũ trụ. Dự án chi phí thấp này
là sản phẩm kết hợp của Hiệp hội hành tinh ở
Mỹ và Cosmos Studios - một nhóm các nhà văn
và nhà làm phim.
Tương tự
những con thuyền trên biển được đẩy bằng sức
gió, phi thuyền không gian Cosmos 1 sẽ sử
dụng các tấm “buồm” siêu mỏng, giống như
gương, có thể thu giữ các phần tử ánh sáng
mặt trời. Theo lý thuyết, các photon ánh
sáng sẽ chuyển năng lượng của chúng sang
những tấm buồm, đẩy con tàu tiến về phía
trước. Nếu mọi việc theo đúng kế hoạch,
Cosmos 1 sẽ khởi hành trên một tên lửa, được
phóng đi từ một tàu ngầm ở Nga. Lên đến một
độ cao nhất định, nó sẽ tách khỏi tên lửa,
giương buồm và bay trong vài tuần hoặc vài
tháng quanh trái đất, dưới sức đẩy của các
photon mặt trời.
Theo các
nhà nghiên cứu, công nghệ tàu buồm không chỉ
đưa phi thuyền lên quỹ đạo trái đất, mà còn
có thể gửi một phi thuyền lên quỹ đạo mặt
trời, hoặc thậm chí làm chệch hướng một
thiên thạch đang có xu hướng va chạm với
trái đất.
Công nghệ tàu buồm được
các chuyên gia của NASA và Cơ quan Vũ trụ
châu Âu rất quan tâm. Họ sẽ tìm hiểu liệu dự
án tiên phong này có thành công hay không.
Tiến xa hơn nữa, tới các vì sao
Từ lâu, những người say
mê khoa học đã mơ ước khai thác được năng
lượng mặt trời để khám phá các vì sao.
Hiển nhiên là một phi thuyền có thể
bay tới sao Hỏa, nếu sử dụng loại nhiên liệu
thông thường. Nhưng đi xa hơn nữa sẽ vượt
quá khả năng của các động cơ hóa học thông
thường. Ý tưởng của các nhà nghiên cứu là sử
dụng năng lượng mặt trời để đẩy các phi
thuyền đi tới những hành tinh ở xa, trong và
ngoài hệ mặt trời.
Tuy nhiên,
khi con tàu vượt ra ngoài quỹ đạo Mộc tinh,
mặt trời ở quá xa và ánh sáng trở nên yếu
ớt, việc dùng năng lượng mặt trời sẽ không
có hiệu quả. Một phương án mới cho tình thế
này là hướng các tia laser vũ trụ vào các
cánh buồm. Nguyên lý nghe rất viển vông,
nhưng lại được giới khoa học thực sự tin
tưởng. Họ cho rằng một ngày nào đó tàu buồm
có thể thực hiện các chuyến du hành tới
những thiên hà xa xôi. Và Cosmos 1 là bước
tiến đầu tiên trên con đường biến giấc mơ
thành hiện thực.
B.H.
(14/5/2002
theo BBC) |
Đóng băng người - giải pháp để chinh
phục vũ trụ?
|
B.H.
31/03/2004 |
|
|
|
|
|
Từng
có ý tưởng rằng "tại sao chúng ta
không thể đưa con người vào một
trạng thái ngủ giả chết, và phóng họ
lên sao Hỏa, hoặc thậm chí tới một
thiên thể ở xa hơn, như
Alpha Centauri".
Bỏ
qua một bên những lo ngại thực tế
kiểu như chúng ta thiếu các phi
thuyền có kích cỡ phù hợp và đủ
mạnh, trạng thái chết giả
cho đến nay vẫn thuộc về lĩnh vực
khoa học viễn tưởng chứ chưa phải là
thực tế. Tuy nhiên, ý tưởng này vẫn
rất hấp dẫn, đặc biệt cho những
chuyến bay dài ngày, bởi các nhà du
hành bất tỉnh có thể được bảo vệ
trước những mối đe dọa nghiêm trọng
về sức khỏe, và họ không cần đến
thức ăn hay giải trí. |
Hệ sao
gần trái đất nhất, Alpha Centauri, nằm
cách chúng ta 4,36 năm ánh sáng. Điều đó
có nghĩa là ngay cả nếu chúng ta (bằng
cách nào đó) chế ra một loại phi thuyền
có thể bay với tốc độ 80.000 km mỗi
giây, nó sẽ mất 16 năm để tới đó. Một
con tàu đủ lớn để mang theo thức ăn và
đồ tiếp tế cho các nhà du hành trong
chuyến đi như vậy sẽ cần nhiều nhiêu
liệu đến mức không thể có được.
Vậy
điều gì ủng hộ ý tưởng táo bạo trên?
Trước tiên, chúng ta cần phân biệt giữa
các dạng ngủ đông lạnh mà các nhà sinh
học đang xem xét: dạng
ngủ đông
và
trạng thái chết giả.
Trong khi một số nhà nghiên cứu xem xét
cả hai lựa chọn này, và đang tìm cách
tiếp cận mới để biến ảo tưởng đông lạnh
thành sự thật, những khó khăn sinh học
cho đến nay vẫn ngăn cản các nhà khoa
học áp dụng những trạng thái đó cho
người.
Trong
hai phương pháp,
ngủ đông
có thể là một giải pháp khả thi hơn. Các
nhà khoa học đang nghiên cứu cơ chế kích
hoạt hóa sinh giúp cho macmot và những
động vật có vú khác có thể ngủ lịm trong
nhiều tháng, với hy vọng tạo ra cơ chế
tương tự ở người. Theo đó, họ phải tìm
ra cách hạ thân nhiệt của người xuống
khoảng 4,4 độ C. Những nhà du hành ngủ
đông cũng phải giảm đến mức tối đa hoạt
đông trao đổi chất. Tuy nhiên, các tế
bào của họ sẽ giải phóng chất thải, tích
tụ trong cơ thể và trở thành chất độc
chỉ sau vài tháng trong vũ trụ.
Động
vật ngủ đông khắc phục trở ngại này bằng
cách cứ sau vài tuần chúng lại trở về
trạng thái nửa thức. Trong khoảng thời
gian đó, thân nhiệt chúng trở lại bình
thường, cho phép các tế bào đẩy chất
thải ra khỏi cơ thể. Để giúp các nhà du
hành khỏi tự đầu độc mình, những nhà
hoạch định chuyến bay cần phải bắt chước
cơ chế đó.
Trong
khi đó,
chết giả
là trạng thái cơ thể ngừng trao đổi chất
ở nhiệt độ dưới độ đóng băng. Về lý
thuyết, kỹ thuật này sẽ bảo tồn con
người vô hạn, nhưng nó cũng vấp phải một
số trở ngại. Cụ thể là hiện tượng đóng
băng. "Tất cả các cơ thể sinh học đều
mềm và ướt", Gregory Fahy, phó chủ tịch
và là trưởng nhóm khoa học tại Công ty
21st Century Medicine, cho biết. "Nếu
băng hình thành trong các hệ thống sống,
nó có thể bẻ gãy các cấu trúc phân tử và
phá vỡ mạch máu".
Để
ngăn ngừa quá trình đóng băng nội tạng
xảy ra khi cấy ghép, Fahy và cộng sự đã
thử pha loãng dịch lỏng của cơ thể với
các tác nhân như glycerol, một quá trình
tương tự như khi đưa chất chống đóng
băng vào bộ tản nhiệt của xe hơi. Tuy
nhiên, các tế bào cần nước, vì thế chiến
lược của Fahy (đến nay vẫn chưa thành
công) phụ thuộc vào việc đánh lừa các tế
bào đang khát rằng chúng đã có thừa
nước, trong khi thực tế chúng được thả
ngập trong chất chống đóng băng sinh
học.
Ngay
cả nếu vấn đề này được giải quyết, việc
hạ thân nhiệt của các nhà du hành có
thực sự bảo vệ họ trước những nguy cơ
phá hủy tiềm tàng của vũ trụ trong
chuyến bay dài? Các bức xạ vũ trụ cường
độ cao là một trong những mối nguy hiểm
lớn nhất đối với những người thoát ra
khỏi từ trường tự nhiên của trái đất
(Trạm Không gian Quốc tế nằm trong ranh
giới này, nhưng sao Hỏa thì không). Tuy
nhiên, chưa có gì để hy vọng rằng việc
đóng băng các mô sẽ làm giảm bớt tác
động đó. Đó là chưa kể đến nguy cơ bị
teo cơ và loãng xương.
Tuy
nhiên, một lợi ích không thể phủ nhận
của những chiến lược này là: các nhà du
hành đóng băng sẽ không có cơ hội để
xuất lộ những trục trặc về hành vi. |
|
|
|
|
|
|
|