Tháng 8/2006

 

Tin đã đăng

Những nghề khó chịu nhất trong khoa học

Thứ ba, 15/8/2006, 08:26 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

 

Một nhà điểu học. Ảnh: africanexplorer

Nhà vật lý học người Mỹ Wiliam Wid đã thu thập ý kiến của hơn 1.000 nhà khoa học và từ đó lập nên danh sách những chuyên môn khó chịu nhất trong lĩnh vực này.

Người nếm thử mùi

Những người có khả năng đánh giá chất lượng mùi của thực phẩm làm việc trong các công ty mỹ phẩm, dược phẩm và thực phẩm. Đôi khi họ phải chấp nhận "hy sinh": hằng tuần không tắm rửa để kiểm tra xem mẫu nước thơm mới hoặc nước xịt nách có khử được mùi mồ hôi khó chịu không. Nhà khoa học người Mỹ Michael Lewitt làm công việc phân tích những loại khí, do con người thải ra thường kỳ sau khi ăn. Lewitt đã sáng chế ra một thiết bị đặc biệt (một túi nhỏ bằng nhựa, gắn kín vào hậu môn) mà nhờ nó ông có thể giữ những khí thải ra trong một thời gian dài và lập ra được một bộ sưu tập khí cho mục đích khoa học. Nhà nghiên cứu dũng cảm này cho những người tình nguyện ăn các loại thực phẩm khác nhau, thu những khí mà họ thải ra vào các túi nhỏ, và dùng chính mũi của mình để đánh giá mùi của các mẫu. Bác sĩ Lewitt khẳng định rằng, việc phân tích thành phần khí trong tương lai gần sẽ cho phép chẩn đoán nhiều loại bệnh dạ dày và ruột.

Thí nghiệm viên phân tích phân của các bệnh nhân bị kiết lỵ

Vào giữa những năm 1980, nhóm nghiên cứu ở Đại học công nghệ Virginia (Mỹ) đã tìm hiểu các vi khuẩn gây bệnh kiết lỵ. Để phục vụ việc này, họ phải nghiên cứu hàng chục nghìn mẫu phân của những người bệnh. Trong những năm 1990, họ đã thành lập hãng Techlab chuyên sản xuất thiết bị để thực hiện các xét nghiệm thích hợp và phân tích mẫu do các bác sĩ gửi đến. 30 nhân viên của hãng này hoàn toàn chỉ làm một việc là mở các hộp đựng phân, xem xét màu, mùi, độ chặt và tiến hành phân tích vi sinh.

Làm sạch các bộ xương

Các nhà khoa học và chuyên gia làm hình nhồi thường phải làm việc với các bộ xương, mà trước tiên là làm sạch thịt và máu trên đó. Để làm việc này, hoặc người ta sử dụng phương pháp luộc xương, hoặc đem xương bỏ ra ngoài trời để côn trùng "lo việc dọn dẹp". Trong cả hai trường hợp, họ đều phải chịu đựng mùi khủng khiếp.

Thí nghiệm viên phân tích tinh dịch động vật

Những nghiên cứu như vậy được tiến hành trong các phòng thí nghiệm sinh học, động vật học và di truyền. Mặc dù người làm thí nghiệm được trang bị nhiều thiết bị điện tử chuyên dụng, phương pháp đơn giản và hiệu quả nhất vẫn là dùng tay kích thích để gây xuất tinh. Đối với một số cuộc thử nghiệm, cần làm sao để động vật không ở tình trạng bị gây ngủ hay gây mê. Những nhà khoa học phải làm việc với các động vật lớn (như voi, bò và sư tử) là vất vả hơn cả.

Nhà nghiên cứu muỗi

Các nhà sinh học và y học nghiên cứu các phương pháp chống bệnh sốt rét trong điều kiện thực tế, thường phải trả giá bằng chính máu mình. Họ để lộ một phần cơ thể, và cho muỗi anophele (truyền bệnh sốt rét) đốt.

Nữ nghiên cứu khoa học người Mỹ Helge Ziler trong vòng 20 năm đã tiến hành các nghiên cứu như vậy ở Brazil. Bà tính ra là trong điều kiện ở hiện trường trong một phút bà có thể bắt được (hay đập chết) 17 con muỗi. Về lý thuyết có thể thay thể người bằng động vật - loài cũng hấp dẫn đối với muỗi. Vật thay thế tốt nhất về mặt này là lợn. Nhưng ở nhiều nước, các tổ chức bảo vệ quyền của động vật vẫn đấu tranh với cách xử sự như vậy.

 

Nhà vi sinh nghiên cứu các vi khuẩn gây bệnh

Các mẫu vi khuẩn có khả năng gây bệnh nguy hiểm chết người, thường được giữ trong không gian cách ly đặc biệt. Các nhà nghiên cứu lại thường phải bước vào khu vực đó. Tình huống đặc biệt nguy hiểm nếu các vi khuẩn ở dạng lơ lửng trong không khí.

Thử nghiệm các không gian kín

Nghề nghiệp như vậy không được nêu trong các văn bản chính thức, tuy nhiên trong thực tế vẫn có những chuyên gia như vậy. Ví dụ, tại NASA, sau khi chế tạo tàu vũ trụ, các chuyên gia sẽ kiểm tra các thiết bị này về độ kín, khả năng bảo vệ và sự thuận tiện của tàu đối với con người. Để làm việc đó, họ phải sống trong khoang tàu hàng tuần liền, không hề bước ra ngoài, nghĩa là có muột cuộc sống như các phi hành gia trên quỹ đạo. Đây cũng được xem là một trong những nghề khó chịu nhất.

 

Nhà xã hội học hình sự

Các chuyên gia về hình sự học thường phải nghiên cứu trong nhà tù. Thường việc phỏng vấn phạm nhân do các sinh viên tiến hành, diễn ra khi không có người bảo vệ. Người ta cho rằng khi nhìn thấy cai ngục, phạm nhân bị gò bó và không cởi mở. Việc tranh đấu cho sự trong sạch hoá các thử nghiệm khoa học đã dẫn đến chuyện nhiều người tiến hành phỏng vấn trở thành nạn nhân của những tên hiếp dâm ngay trong phòng giam.

Nhà động vật học chuyên tìm kiếm những loài quý hiếm

Một số loại chim hiếm và động vật nhỏ hiện nay có thể được coi là đã biến mất. Nhưng các nhà động vật học không muốn gạch tên chúng khỏi danh sách sinh vật. Do vậy, ví dụ ở quần đảo Hawaii có một đội đặc biệt tìm cách bắt những loại chim hiếm mà ít nhất trong hai chục năm qua người ta chưa hề thấy. Hàng ngày họ lên đường tìm kiếm chim và trở về với những chiếc lồng rỗng.

 

Đao phủ giết nhái

Tại nhiều khoa y - sinh học và nhiều phòng thí nghiệm người ta vẫn tiến hành thí nghiệm trên ếch nhái. Ví dụ nghiên cứu phản xạ của chúng và các đặc điểm của hệ thần kinh. Các nhân viên của những phòng thí nghiệm như vậy buộc phải gánh lấy trách nhiệm không lấy gì làm dễ chịu là thường xuyên phải giết cả trăm, nghìn con ếch.

Khoa học và Đời sống (theo Luận chứng và Sự kiện)

 

NASA nghiên cứu sự hình thành các cơn bão lớn

 
Thứ Hai, 14/08/2006, 11:11
 

Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) từ 15/8 sẽ tiến hành chương trình nghiên cứu những biến đổi khí tượng tại châu Phi, được coi là nguyên nhân gây nên những cơn bão lớn, trong đó đa số đổ bộ vào Mỹ.

 

Những cơn giông hình thành tại châu Phi và di chuyển về phía tây Đại Tây Dương trước khi biến thành bão nhiệt đới (ảnh vệ tinh Meteosat-8).

 

Trong mùa bão, trải dài từ ngày 1/6 đến 30/11, những cơn áp thấp nhiệt đới xuất phát từ châu Phi sẽ mạnh lên khi di chuyển qua bề mặt Đại Tây Dương, trở thành các cơn bão nhiệt đới và có sức tàn phá khủng khiếp.

Những thiệt hại lớn về người và của do bão gây ra khiến NASA phải tiến hành một chiến dịch quan sát, mang tên Các phân tích đa quy luật gió mùa châu Phi (NAMMA), diễn ra trong một tháng tới tại các vùng bờ biển của Senegal.

Cuộc điều tra sẽ giúp các chuyên gia dự báo khí tượng thuỷ văn hiểu rõ bản chất của những cơn bão có sức tàn phá khủng khiếp và cảnh báo kịp thời.

Một cơn bão lớn hình thành phải có đủ các điều kiện: nhiệt độ cao tại đại dương, độ ẩm cao trong tầng đối lưu (troposphere, lớp khí quyển giữa mặt đất và độ cao từ 8-15 km), các cơn gió ở mọi độ cao và sự xuất hiện một đợt áp thấp nhiệt đới.

Trong khoảng 1/5 các trường hợp, một nhiễu loạn nhiệt đới nhỏ ở vùng bờ phía tây châu Phi cũng có thể mạnh lên thành một hệ thống áp thấp với các cơn gió tương đối nhẹ, vượt qua tốc độ 63 km/h và cộng hưởng để hình thành một cơn bão Đại Tây Dương lớn với tốc độ gió trên 117 km/h.

Theo Tiến sĩ Edouard Zipser, trưởng nhóm nghiên cứu thuộc Trường đại học Utah (Mỹ), các nhà khoa học hiện mới chỉ ghi nhận sự hình thành của một cơn bão lớn khi họ quan sát được nó chứ chưa thể dự báo một nhiễu loạn nhỏ có khả năng mạnh lên thành bão.

Muốn hiểu rõ sự hình thành một cơn bão lớn đòi hỏi các phương pháp thuộc mọi cấp độ từ nhỏ đến lớn, từ tìm hiểu những hạt bụi nhỏ li ti đến những giọt mưa, sự hình thành các đám mây và các luồng không khí trải dài hàng trăm km.

Để xác định các yếu tố góp phần phát triển các cơn bão nhiệt đới, tên gọi chung của áp thấp nhiệt đới, bão và bão lớn, các nhà nghiên cứu sẽ thông qua các số liệu vệ tinh, các thông tin từ các trạm quan sát khí tượng,…

 

Máy bay DC-8 của NASA có các thiết bị nghiên cứu tâm bão nhiệt đới.

 

Một máy bay được trang bị các công cụ tính toán những thay đổi trong khí quyển nhằm phát hiện các vùng có nhiều khả năng hình thành sự nhiễu loạn.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học cũng hy vọng hiểu thêm về vai trò của các khối khí cực khô, thường rất bụi, hình thành trên sa mạc Sahara từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu và thường di chuyển tới Đại Tây Dương.

Năm 2004, bốn cơn bão lớn đã gây ảnh hưởng tới Florida. Năm 2005, New Orleans và các vùng khác bị tàn phá bởi các cơn bão Katrina, Rita và Wilma.

NAMMA sẽ giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về các nhiễu loạn khí quyển có thể dẫn tới hình thành một cơn bão lớn nhằm đề phòng thảm hoạ.

Theo Phương Thảo
Nhân Dân/Futura-Sciences

 

vnexpress.net

Phát hiện gene giúp cây lúa chịu được ngập úng

Thứ năm, 10/8/2006, 08:58 GMT+7

 

Ảnh: AFP.

Các nhà khoa học cho biết đã xác định được gene giúp cây lúa sống sót trong tình trạng ngập úng kéo dài tới 2 tuần.

Hầu hết các giống lúa đều chết trong vòng một tuần khi bị ngâm dưới nước, nhưng các nhà nghiên cứu hy vọng gene mới tìm thấy sẽ giúp bảo vệ loài thực vật mang lại nguồn thực phẩm lớn nhất trên toàn cầu.

Những nông dân ở Đông Nam Á bị thiệt hại khoảng 1 tỷ USD mỗi năm do mùa màng bị lũ lụt phá hoại. Rất nhiều vùng trồng lúa ở miền nam châu Á nằm tại những vùng đất thấp luôn đối mặt với nguy cơ bị lũ lụt trong mùa mưa. Cây lúa khi bị ngập dưới nước trong vài ngày sẽ mất dần oxy, héo mòn và chết.

Nhóm nghiên cứu đến từ Đại học California, Mỹ và Viện nghiên cứu cây lúa quốc tế (IRRI) ở Phillipines cho biết gene mang tên Sub1A-1 sẽ bảo vệ cây lúa tốt hơn khỏi tình trạng úng ngập. Họ cho biết nó sẽ giúp mang lại cho người nông dân mùa màng tốt tươi, đặc biệt với những người sống ở các vùng hay gặp bão lũ.

Mặc dù lượng gạo được sản xuất ra đã tăng gấp đôi trong 40 năm qua, nhu cầu vẫn tiếp tục gia tăng. Đây là nguồn thức ăn chính cho hơn 3 tỷ người trên thế giới.

Giải pháp đơn giản xử lý đất nhiễm thạch tín

Nước nhiễm thạch tín. Ảnh: Nhân Dân.

Viện Công nghệ và Khoa học công nghiệp tiên tiến (AIST) của Nhật Bản vừa giới thiệu một phương pháp xử lý ô nhiễm hiệu quả đối với đất bị nhiễm thạch tín, hay arsen.

Viện AIST đã tiến hành thử nghiệm tác động của một loạt các loại dung môi hữu cơ và vô cơ đối với acid diphenylarsenic, công thức hoá học là (C6H5)2 AsOOH. Đây là thạch tín hữu cơ cực độc (có thể gây rối loạn tâm thần), không bị thoái hoá sinh học và có thể sản sinh ra các chất độc khác qua các biến thái hoá học và nhiệt.

Kết quả cho thấy các loại cồn, đặc biệt là methanol, pha với khoảng 3 - 5% acid phosphoric, có thể trung hoà 100% thạch tín hữu cơ, ngay cả khi nồng độ thạch tín trong đất cao tới 3.570 mg/kg.

Acid phosphoric sẽ ngăn chặn sự liên kết giữa nhóm diphenylarsenic và thành phần của đất, đồng thời nhóm diphenylarsenic này sẽ bị cồn hòa tan. Sau đó, dung dịch cồn trên có thể được sử dụng tiếp để loại bỏ tối đa các loại chất thải độc hại.

Phương pháp khử độc này đã được áp dụng sau khi đất và mạch nước ngầm tại thành phố Kamisu (tỉnh Ibaraki, Nhật Bản) được phát hiện nhiễm thạch tín nghiêm trọng do hậu quả của việc sử dụng vũ khí hoá học thời chiến tranh.

(Theo Nhân Dân, Futura-Sciences)

M.T. (theo BBC)

 

ủ nhật, 6/8/2006, 07:00 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

Có thể chụp ảnh quá khứ?

Thành phố Saint-Petersburg. Ảnh: nevsky88

Chiếc ôtô dừng lại chỗ cửa, rồi sau đó chạy đi. Sau vài ngày người ta chụp tấm ảnh cánh cửa trống rỗng. Và một điều kỳ diệu! Trên nền của cánh cửa hiện lên bóng của chính chiếc xe đó...

Tại một dòng sông bình thường của nước Nga, máy ảnh đã chụp được một cánh rừng nhiệt đới, một cánh rừng cọ đều đặn. Ở đâu ra một cánh rừng nhiệt đới như vậy? 50 triệu năm trước chăng, hay 100 triệu năm?

Tại ngai vàng trống của Nga hoàng ở một cung điện thuộc người ta chụp được bóng của một người đàn ông đang ngồi. Chiếc áo caftan (áo dài cổ kính của đàn ông Nga) thế kỷ 18, hình dáng cao ngồng quen thuộc... Nga hoàng Piot đại đế!

Chuyện gì đây? Những đoạn trích trong chuyện hoang đường? Hoàn toàn không.

Từ lâu, con người đã mơ ước “nhìn” vào quá khứ. Còn Genrikh Mikhailovich Xilanov, một nhà địa chất, chuyên gia về những nghiên cứu trong Phòng thí nghiệm ở thành phố Voronhej (Nga), đã làm điều này. Ông sáng chế ra một thiết bị có thể chụp ảnh những sự kiện quá khứ! Xilanov cho rằng ông sử dụng một hiệu ứng vật lý quen thuộc mà ông gọi là “hiện tượng đặc biệt của trí nhớ”. Nhưng về bản chất của hiệu ứng thì ông nói khá dè dặt, còn kỹ thuật “chụp ảnh quá khứ” thì ông nói chưa thể tiết lộ vì những nguyên nhân dễ hiểu...

Theo ý kiến của Xilanov, bất kỳ cấu trúc vật chất nào trong bất kỳ khoảnh khắc tồn tại nào đều để lại dấu vết của mình trên những đường phát điện của các cực năng lượng. Chiếc máy ảnh đặc biệt của ông đã định vị được chính sự phản ánh những dấu vết như vậy.

Hiệu ứng kỳ diệu

Xilanov tình cờ phát hiện ra hiệu ứng kỳ diệu này vào năm 1992 khi thử thành công một thiết bị để chụp ảnh đĩa bay. Nguyên nhân là Xilanov có nhiều năm dẫn đầu nhóm các nhà khoa học nghiên cứu những vật thể bay không xác định (UFO). Khi đó, ông nhìn thấy trên một số tấm ảnh dường như có những dấu vết của những vật thể không tồn tại nằm chồng trên những vật thể nhìn thấy bằng mắt thường. Điều này có vẻ như là ghép ảnh, nhưng thực ra không phải vậy... Nếu suy nghĩ kỹ thì không có gì đáng ngạc nhiên, nhưng hiện thời chúng ta chưa thể nhìn thấy!

Nếu ban đêm chúng ta nhìn lên những vì sao, tức là chúng ta quan sát bức tranh của bầu trời tồn tại hàng ngàn và hàng triệu năm trước, vì ánh sáng từ nhiều vì sao đến được chúng ta rất lâu... Hơn nữa, chúng ta không nhìn vào một vật thể nào đó mà chúng ta chỉ nhìn vào sự đến muộn của nó, nghĩa là dù ánh sáng không đáng kể đi chăng nữa cũng đủ để đi từ vật thể đến mắt chúng ta.

Về phim để chụp những “bức ảnh quá khứ”, Xilanov tiết lộ rằng nó “tinh” hơn mắt người về phạm vi quang phổ tử ngoại và hồng ngoại. Không ít thông tin không đến được với chúng ta có thể phát hiện được trong phạm vi quang phổ tử ngoại. Những chi tiết quan trọng của máy ảnh này là thấu kính và kính ảnh đặc biệt, hay phim, nơi mà thực sự không có lớp gelatin để chụp các sóng tử ngoại đi ngang qua.

Vậy thấu kính này hoạt động như thế nào? Chúng ta đều biết kính cửa sổ không cho tia tử ngoại đi qua, vì vậy ngồi trong nhà không thể tắm nắng xuyên qua các cửa kính thông thường. Để có được làn da rám nắng trong điều kiện ở nhà cần phải có kính thạch anh. Vật kính thông thường của máy ảnh này đóng vai trò của cửa kính thông thường: thứ nhất, chỉ một ít tia tử ngoại ngẫu nhiên xuyên qua những “phim quá khứ” của máy ảnh. Hiểu được điều này, Xilanov đã bắt đầu một công việc tỉ mỉ kỳ lạ. Ông chọn trong cát hạt to những tinh thể thạch anh nhỏ xíu, sau đó nấu chảy chúng ra và rót thành hình thấu kính rất mỏng. Thứ hai, thật lâu và cẩn thận, theo phương pháp của Newton, ông dùng tay mài nhẵn nó. Kết quả của sự lao động miệt mài này là sau một năm “vật kính thời gian” đã làm xong.

Xilanov lắp vật kính vào máy ảnh và chụp những bức ảnh thử nghiệm tại cửa phòng thí nghiệm của mình. Thế là tấm ảnh chiếc xe đã chạy mất từ lâu xuất hiện gây chấn động trong giới khoa học... Điều chỉnh máy ảnh của mình đến “tiêu chuẩn” cần thiết, Xilanov tập hợp những người nhiệt tình và thực hiện chuyến thám hiểm trên bờ sông Khoper, nơi ông ta tiếp tục những thử nghiệm của mình. Một trong những tấm ảnh thành công nhất lúc đó có thể kể đến tấm ảnh mà trên nền của bụi cây hiện ra cái đầu của người lính đội mũ sắt trong quá khứ.

Tại đây nơi dòng Khoper cuộn chảy, chưa bao giờ có rừng nhiệt đới giống như của Ấn Độ hay châu Phi. Cũng chính máy ảnh của Xilanov cho thấy điều đó... Thật thú vị là theo một cách khác, nhà khoa học Kazakhstan, tiến sĩ khoa học L.X. Pritsker cũng như nhà nghiên cứu ở thành phố Jukovski gần Moskva, A.V. Karavaikin, cũng đạt được những kết quả tương tự. Ông còn có nhiều bức ảnh tương tự như thế. Cần nói thêm rằng Viện công tố Kazakhstan đã giám định tất cả những bức ảnh của ông và có kết luận chính thức về tính xác thực của chúng.

Có thể nói rằng Karavaikin hoàn toàn đến với “hiện tượng đặc biệt của trí nhớ” từ một hướng khác. Sử dụng thiết bị tự tạo, không chỉ về mặt nhiếp ảnh, ông đã kịp nghiên cứu cái gọi là “những dấu vết của UFO” tại nơi chúng hạ cánh, đôi khi gắn kết với những sự dị thường hết sức lý thú. Nhà khoa học này đã chứng minh được rằng thời gian, cũng là một phạm trù vật lý, trong những phạm trù không gian khác nhau, có mật độ khác nhau... và trong những điều kiện nhất định cũng đặc biệt chứa đựng thông tin! Chẳng phải những máy ảnh của Xilanov và Pritsker đã ghi lại những hình ảnh chứa đựng những ký ức của vũ trụ đó sao?

Chừng nào sẽ có rạp chiếu bóng quá khứ?

Thật khó mà tưởng tượng chừng nào sẽ phát triển phương pháp nhiếp ảnh quá khứ. Phạm vi áp dụng rất lớn - từ việc sử dụng “nhiếp ảnh thời gian” của các nhà tội phạm học để điều tra tội phạm cho đến việc khôi phục các dân tộc quá khứ xa xưa, những nền văn minh, những thời kỳ tồn tại sơ khai của trái đất mà các nhà cổ sinh vật học chưa làm được...

Còn theo sau “nhiếp ảnh quá khứ” sẽ là “điện ảnh quá khứ” có cả âm thanh? Sẽ có một cuộc cách mạng khoa học làm thay đổi cả cuộc sống lẫn tư duy của toàn nhân loại. Và khi xét đến những nhịp điệu tiến bộ hiện đại thì việc chờ đợi điều này hoàn toàn không lâu nữa.

(Theo ANTG, Vòng quanh thế giới)

 

Du lịch không gian tăng giá

 
Thứ tư, 9/8/2006, 08:56 GMT+7

 

Cơ quan vũ trụ Nga vừa thông báo mức giá mới dành cho khách du lịch trạm không gian quốc tế (ISS) là 21,5 triệu đôla, thay cho mức 20 triệu đôla hiện nay do tình hình lạm phát ở nước này.

Daisuke Enomoto dự kiến sẽ trở thành khách du lịch vũ trụ người Nhật đầu tiên. Ảnh: AFP.

 

Theo hãng Interfax, mức tăng này (7,5%) vẫn còn thấp so với tỷ lệ lạm phát cả năm ở mức 8,5%. Cơ quan vũ trụ Nga cho rằng khoản thu từ khách du lịch vũ trụ cho phép cơ quan này bù vào ngân sách ít ỏi của nhà nước cấp cho các chương trình nghiên cứu không gian.

Thông báo tăng giá trên không đề cập đến giá vé bán cho Daisuke Enomoto, du khách Nhật đầu tiên sẽ lên thăm ISS dự kiến vào ngày 14/9 tới.

(Theo Tuổi Trẻ, AFP)

 

 

 

 

Câu chuyện về lòng trắc ẩn của voi
Thứ sáu, 11/8/2006, 17:39 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

 

Voi có biết tiếc thương than khóc? Những bức ảnh sau đây, kể về cái chết của một con voi cái đầu đàn và phản ứng của những thành viên trong bầy, đã giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn hành vi của loài vật này.

Ngày thứ nhất: Những nỗ lực giúp đỡ Eleanor

Grace, thành viên của một gia đình voi mà các nhà nghiên cứu gọi là Virtues, đến sờ vào con voi ốm Eleanor, nữ chúa của đàn First Ladies. Eleanor đã ngã xuống khu bảo tồn quốc gia Samburu ở Kenya hôm 10/10/2003. Grace cố gắng đẩy Eleanor đứng lên, mặc dù sự hồi sinh của con voi ốm là rất ngắn ngủi.

Voi biểu thị lòng trắc ẩn với những con khác đang gặp khó khăn, ngay cả với những cá thể không có họ hàng gần với chúng, các nhà nghiên cứu công bố loạt ảnh này cho biết.

Trước khi bức ảnh này được chụp, Eleanor, bà mẹ mới sinh, được tìm thấy trong tình trạng vòi sưng lên, da bị trầy xước ở một bên tai và chân, còn ngà đã gãy, có lẽ từ một cú ngã trước đó.

Khoảng 2 phút sau khi Eleanor khụy xuống, Grace nhanh chóng tiến đến. Đuôi của nó dựng lên và các tuyến ở thái dương tiết ra dịch lỏng. "Đó là dấu hiệu báo động và stress điển hình", Iain Douglas-Hamilton, trưởng nhóm nghiên cứu, người sáng lập tổ chức phi lợi nhuận Save the Elephants nói.

Ngày thứ nhất: Eleanor đứng dậy

30 giây sau cố gắng đẩy của Grace (phải), Eleanor đã đứng được lên nhưng rất run rẩy.

Grace, la lên và dường như rất kích động, cố gắng đẩy Eleanor bước đi, nhưng chỉ được vài giây, chân sau của con voi ốm lại khụy xuống. Chẳng mấy chốc nó lại ngã.

Ngày thứ nhất: Grace ở lại với Eleanor

Khi đêm xuống, Grace (phải), giờ đã bị gia đình bỏ lại, vẫn đứng cạnh Eleanor, cố gắng huých con voi bất hạnh đứng lên. Grace ở với nó thêm một giờ nữa, nhưng Eleanor không thể cất mình, và Grace bỏ đi.

Vào thời điểm đó, gia đình của Eleanor ở cách đó 1,5 km, đi xa khỏi con sông, như loài voi vẫn làm khi đêm xuống.

"Khi Eleanor bị ốm, nó tụt lại sau đàn. Chúng thường vẫn thấy con voi cái này bắt kịp hoặc dẫn dầu. Vì thế, chúng tôi đồ rằng gia đình nó đã không biết hoặc được chứng kiến sự suy sụp của Eleanor", Iain Douglas-Hamilton nói.

Ngày thứ hai: Eleanor chết

Eleanor qua đời sáng ngày 11/10/2003. Không lâu sau đó, Maui, thành viên của gia đình Hawaiian Islands, lưỡng lự tiến đến xác của Eleanor. Nó vươn vòi, ngửi cái xác và đặt vòi vào miệng mình để nếm.  

Maui đặt chân lên cơ thể Eleanor. Sau đó nó bước qua, dẫm lên cơ thể bằng chân và vòi của mình, rung từ trước ra sau. Tất cả, Maui dành chưa đầy 8 phút với cái xác.

Ngày thứ ba: Tỏ lòng kính trọng

Những người bảo vệ rừng đã cắt rời cái vòi của Eleanor và lấy đi đôi ngà của cái xác, ngăn nó rơi vào tay những kẻ săn trộm.

Chiều ngày hôm sau, những con voi của gia đình Biblical Towns (trái) cho phép đứa con 6 tháng tuổi của Eleanor ở lại với xác mẹ, mặc dù chúng đã đuổi tất cả các thành viên của gia đình Eleanor. Con voi con chết sau đó 3 tháng, dù nó đã nỗ lực bú những con cái khác trong bầy.

Trước đó, hai thành viên của gia đình voi Virtues đến thăm cái xác - Generosity và Grace, con vật đã giúp Eleanor hai ngày trước đó. Grace đứng im, dường như quan tâm song không đau khổ. Còn Generosity ngửi máu chảy xung quanh hốc mũi của Eleanor.

Phải chăng điều đó chứng tỏ những con voi cũng thương tiếc? Mặc dù sử dụng từ "trắc ẩn", Douglas-Hamilton vẫn do dự khi đưa ra kết luận này. "Chúng tôi chủ ý không dùng từ 'tang tóc", mặc dù rõ ràng có những tình cảm và sự tò mò mạnh mẽ, có lẽ là nỗi sầu khổ, trong các thành viên gia đình. Nhưng những gì chúng tôi đưa ra trong bài báo là khách quan và đúng sự thực nhất".

T. An (theo NationalGeographic)

 

sơ sinh đã có thể làm toán

 

Trẻ
Ảnh: BBC.

Những em bé 6 tháng tuổi có thể phát hiện ra những lỗi sai trong toán học.

Một nhóm các nhà khoa học Israel và Mỹ đã chụp não của 24 em bé 6-9 tháng tuổi khi họ cho chúng xem múa rối.

Các em bé nhìn lâu hơn vào những kết quả hiện ra không theo ý muốn, và bộ não của chúng hoạt động như thể ở người lớn sau khi phát hiện ra lỗi.

Nghiên cứu trước cũng tìm thấy trẻ con nhìn lâu hơn vào những điều không mong đợi trước. Nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa chắc điều đó có nghĩa là chúng ngạc nhiên bởi những gì chúng thấy.

Trong nghiên cứu mới, 24 đứa trẻ được xem 2 con rối, sau đó những con rối này bị màn hình che mất. Tiếp đến, chúng nhìn thấy một bàn tay bỏ đi một con rối, và sân khấu được đưa trở lại, cho thấy chỉ còn 1 trong 2 con rối, mà theo mong đợi thì phải là 2.

Trong những tình huống đó, các nhà nghiên cứu sử dụng điện não đồ để đo sóng não của lũ trẻ. Nhóm tìm thấy trẻ em nhìn lâu hơn khi số con rối hiện ra không như ý muốn. Người lớn được xem những phép toán đúng hoặc không đúng cũng có phản ứng não tương tự.

Nhà nghiên cứu đứng đầu Andrea Berger tại Đại học Negev, Israel, phát biểu: "Nghiên cứu này chứng tỏ hệ thống phát hiện lỗi đã có trong não trẻ sơ sinh và được kích hoạt khi chúng bị ngạc nhiên bởi một kết quả số học không chính xác".

Nghiên cứu cho thấy trẻ em có thể phát hiện lỗi sai ngay trong năm đầu đời, và khả năng này liên quan tới năng lực điều chỉnh hành vi và tình cảm sau này.

M.T. (theo BBC)

 

 
Thứ sáu, 4/8/2006, 08:56 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

Trẻ chơi thể thao sẽ học giỏi hơn

Ảnh: svcn

Một nghiên cứu trên những học sinh lớp 6 tìm thấy các hoạt động thể chất năng động giúp cải thiện kết quả học tập của các em.

Trong khi trẻ em tham gia các lớp học thể dục thông thường chẳng có kết quả học tập tốt hơn so với những em ngồi ì một chỗ, những ai chơi trượt ván hay tham gia đội bóng đá ít nhất 3 buổi một tuần có điểm số cao hơn 10% trong các môn toán, khoa học, tiếng Anh và xã hội.

Nghiên cứu theo dõi 200 học sinh trong một năm học. Trong một học kỳ, một nửa học sinh tham gia lớp học thể dục thông thường do trường cung cấp, một nửa còn lại không có hoạt động thể chất nào. Sau một nửa năm học, các học sinh hoán đổi chương trình cho nhau.

"Chúng tôi phỏng đoán rằng những học sinh học thể dục sẽ có điểm tốt hơn do hoạt động tích cực hơn trong ngày. Nhưng kết quả cho thấy việc tham gia vào lớp học này không ảnh hưởng gì tới điểm số cả", nhà nghiên cứu đứng đầu Dawn Podulka Coe tại Đại học Grand Valley cho biết.

Theo các nhà nghiên cứu, nhà trường cần phải xem xét lại chương trình học thể chất của học sinh để thúc đẩy kết quả học tập của các em.

M.T. (theo Livescience)

 

 
Thứ tư, 2/8/2006, 14:11 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

Đồng hồ sinh học báo hiệu giờ ăn

Ảnh: sweatpantserection

Giống như đồng hồ báo thức trong cơ thể, dựa vào mặt trời để thông báo cho chủ nhân biết khi nào thì đi ngủ, bạn cũng có một chiếc đồng hồ "thức ăn" nhắc nhở bạn khi nào thì ăn.

Trong một nghiên cứu mới, nhóm các nhà nghiên cứu Mỹ và Nhật cho biết họ đã phát hiện gene ở chuột đóng vai trò giúp đỡ đồng hồ "thức ăn" tiếm quyền đồng hồ báo thức khi cần thiết. Kết quả có thể giúp các nhà khoa học điều chỉnh các đồng hồ trong cơ thể để giúp người béo phì giảm cân.

Các nhà khoa học từ lâu vẫn biết về chiếc đồng hồ báo thức sinh học 24 giờ, điều chỉnh chu kỳ ngủ thức theo chu kỳ ngày đêm. "Đó là chiếc đồng hồ thần kỳ, khống chế mọi thứ khác dưới điều kiện bình thường", tiến sĩ Masashi Yanagisawa tại Đại học Texas nói.

Nhưng gần đây, các nhà khoa học đã nhận ra một loại đồng hồ "thức ăn" khác. Trong nghiên cứu mới, nhóm cố gắng tìm hiểu nó hoạt động thế nào bằng cách biến đổi chu kỳ ăn uống của chuột.

Chuột là loài hoạt động ban đêm và thường ăn vào lúc trời tối. Nhưng các nhà khoa học điều chỉnh mô hình ăn uống của chúng bằng cách chỉ để thức ăn xuất hiện trong một khoảng thời gian ngắn vào ban ngày.

Kết quả là, con chuột thay đổi mô hình thức ngủ sau vài tuần, dần trở thành loài hoạt động ban ngày. Các con chuột cũng gia tăng hành vi thức giấc và tìm kiếm thức ăn ngay trước khi đồ ăn có mặt.

Qua phân tích não chuột, nhóm tìm thấy một số gene nhất định được bật vào giờ ăn. Rõ ràng, những gene này đã tiếm quyền một số gene khác vốn có chức năng thông báo con chuột nên đi ngủ vào ban ngày. "Đồng hồ 'thức ăn' thường ở trong trạng thái tĩnh. Nhưng trong thí nghiệm này, thức ăn trở nên quan trọng hơn ánh sáng. Con vật đột nhiên bỏ qua đồng hồ báo thức chủ đạo và đồng hồ 'thức ăn' nhảy vào hoạt động", Yanagisawa nói.

Theo Yanagisawa, bước tiếp theo là tìm hiểu đồng hồ này điều chỉnh sự thèm ăn và động lực ăn như thế nào, từ đó giúp những người béo phì có thể giảm cân.

M.T. (theo Healthday)

 

Đầu người có từ 1 đến 3 triệu sợi tóc

Thứ ba, 1/8/2006, 06:00 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

 

Ảnh: Brainjury

Đó là một trong những con số thú vị về cơ thể người mà một chuyên gia giải phẫu người Pháp vừa tập hợp được.

- Nếu mở tách được toàn bộ lớp vỏ đại não, dát phẳng, sẽ được một "lá bánh đa nem" dầy 3 mm với diện tích 90 x 60 cm.

- Đại não một người đàn ông trưởng thành nặng 1,424 kg. Trong khi đó một con khủng long dài 9 m chỉ có bộ óc to cỡ quả quít, nặng chừng 70 g.

- Lưỡi người dài bình quân 9cm, nặng 50g. Lưỡi do 17 bó cơ tổ thành, vì thế vô cùng linh hoạt.

- Bình quân cứ sau mỗi 10 năm, tai người dài ra 2,2 mm.

- Đầu người có 1-3 triệu sợi tóc. Nếu đàn ông định kỳ cắt tóc, cả đời người họ đã cắt bỏ 9-10 mét tóc.

- Nếu 1 người sống đến 75-80 tuổi thì tim đập đến 3 tỷ lần.

- Hệ thống mạch máu của cơ thể người dài tới 200.000 km.

- Đàn bà cả đời ăn hết 25 tấn thực phẩm, nhiều hơn 3 tấn so với đàn ông; uống hết 37.000 lít chất lỏng, nhiều hơn 4.000 lít so với đàn ông. Số lần khóc của đàn bà nhiều gấp 5 lần đàn ông, và tuổi thọ bình quân của họ hơn đàn ông 7 tuổi.

(Theo Tri Thức Trẻ)

 

 

Các nhà tiên phong đo kim tự tháp rất chính xác

Thứ bảy, 29/7/2006, 10:08 GMT+7

 

Công nghệ hiện đại cũng chưa giúp giới khoa học khám phá hết bí ẩn của kim tự tháp. Ảnh: ABConline

Các nhà khảo cổ từng đo đạc những kim tự tháp Ai Cập tại Giza hơn 100 năm trước đây đã cho kết quả chính xác đến kinh ngạc, một cuộc hồi cứu những nghiên cứu trong lịch sử vừa tiết lộ.

Cuộc hồi cứu, đăng trên mạng của Đại học Công nghệ Queensland, Australia, đã xem xét những dự án khảo sát chính về các kim tự tháp Cheops, Chephren và Mycerinus, được xây dựng khoảng năm 2.600 trước Công nguyên về phía nam Cairo ngày nay.

"Các khảo sát đó khá hệ thống và tỉ mỉ, chúng không sai lệch bao nhiêu so với khi sử dụng các công nghệ đo đạc hiện đại ngày nay", đồng tác giả của bài báo Robert Webb cho biết.

Song Webb cũng cho biết kỹ thuật chụp ảnh laser, mô hình máy tính và những công nghệ hiện đại khác không đưa chúng ta đến gần hơn với lời giải cho những bí ẩn hấp dẫn nhất của các kim tự tháp. Đó là liệu vị trí và kích thước của chúng có phản ánh một cách cố ý sự thẳng hàng của các hành tinh và ngôi sao hay không.

Theo bản hồi cứu, hai cuộc khảo sát lớn trong lịch sử về kim tự tháp được thực hiện trong năm 1880 và 1925 sử dụng dây diện, các thanh thép và gậy. Còn những nỗ lực gần đây nhất để lập bản đồ chúng lại dùng đến kỹ thuật chụp laser, GPS, ảnh vệ tinh, công nghệ số và hình dung máy tính.

Cuộc khảo sát năm 1880-1882 của William Flinders Petrie kết luận không có mối liên kết không gian nào giữa hướng và khoảng cách của các kim tự tháp với bất cứ thứ gì khác.

Nhưng kể từ đó, các giả thuyết đều đề cập đến mối tương quan không gian giữa các kim tự tháp, phản ánh qua sự thẳng hàng của Vành đai Orion và đường quỹ đạo của sao Thuỷ, sao Hoả và sao Kim.

Các giả thuyết khác kết luận rằng chu vi của Kim tự tháp Vĩ đại (hay Cheops) - với chiều dài 36.525 inch kim tự tháp (*) - là tương đương với con số ngày trong 100 năm và số các cuốn sách triết học cổ đại được giới thiệu với vị thần Thooth của Ai Cập.

(*) Inch kim tự tháp là đơn vị cơ bản để đo những công trình này, chỉ bằng một phần nhỏ của inch thường.

T. An (theo ABConline)

 

Tìm thấy mô mềm trong hoá thạch ếch

Thứ sáu, 28/7/2006, 07:00 GMT+7

 

Mẫu vật được tìm thấy ở Tây Ban Nha. Ảnh: BBC

Các nhà khoa học mới tách được tuỷ xương của những con ếch và kỳ giông đã chết cách đây 10 triệu năm trong các đầm lầy than bùn của vùng đông bắc Tây Ban Nha.

Những tuỷ xương hoá thạch đầu tiên mà khoa học biết đến này đã đem lại thông điệp hiếm hoi về đặc tính sinh lý của các động vật tiền sử.

Cho đến nay, thường chỉ có các mô cứng như xương là còn lại trong các mẫu hoá thạch, các mô mềm thường bị phân huỷ và tiêu biến qua thời gian dài.

Tuỷ xương mới tìm thấy được bảo tồn trong tình trạng 3 chiều, vẫn còn nguyên kết cấu nguyên thuỷ và màu đỏ pha vàng.

"Việc tìm thấy mô mềm như thế này là rất quan trọng vì nó đem đến thông tin về đặc tính sinh lý của các sinh vật cổ đại, cũng như cơ chế vận hành của cơ thể chúng", thành viên nhóm nghiên cứu Maria McNamara từ Đại học tổng hợp Dublin nói.

Những con ếch và kỳ giông được tìm thấy trong một lớp trầm tích giàu hoá thạch thuộc Thế Trung tân - thời kỳ trải dài từ 5,3 đến 23 triệu năm trước.

McNamara và cộng sự tin rằng họ sẽ tìm thêm được nhiều tuỷ xương khác, đem lại hy vọng về việc tái hiện các protein và thậm chí là ADN của những sinh vật tiền sử.

T. An (theo BBC)

 

Năm 2025, dân số loài người thay đổi như thế nào?

Thứ tư, 26/7/2006, 10:15 GMT+7 Bản để in Gửi cho bạn bè

 

Các nhà khoa học đã xây dựng một bản đồ toàn cầu có độ phân giải cao, trong đó dự đoán sự thay đổi của dân số loài người từ nay đến năm 2025.

Dự án Bản đồ Tương lai - hợp tác giữa Đại Columbia (Mỹ), Đại học Hunter và Tổ chức Hành Động Dân số Quốc tế - khác với những bản đồ mật độ dân số truyền thống ở chỗ thay vì dự báo số lượng người ở mỗi quốc gia, nó ngoại suy dân số ở mỗi ô trong số 9 triệu ô vuông trên trái đất.

Bản đồ thể hiện sự thay đổi dân số trong tương lai, dựa trên một mô hình mới. Nó dự báo có sự tăng dân số ở vùng ven biển, nơi các nhà khoa học lo ngại sẽ chịu ảnh hưởng của mực nước biển dâng trong vài thập kỷ tới. Ảnh: Discovery

Bản đồ này có thể là một công cụ quan trọng cho những ai cần biết nơi nào người ta sẽ sống và với số lượng bao nhiêu, từ các nhà bảo tồn tới các nhà khí tượng học, sinh thái học và kinh tế học.

Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi Stuart Gaffin đã xây dựng bản đồ từ các số liệu của 2 nguồn: Dự đoán phân bố dân số cho năm 1990 và 1995, dự đoán của Liên hợp quốc cho năm 2025.

Các nhà khoa học đã xây dựng 2 mô hình và nạp các số liệu của năm 1990 và 1995 vào đó. Mô hình sẽ tính ra dự báo dân số cho mỗi ô trong số 9 triệu ô vuông, tham khảo thêm giá trị của dự báo quốc gia năm 2025 của Liên hợp quốc.

Cuối cùng, nhóm nghiên cứu chọn ra những dự báo đáng tin cậy hơn từ mỗi mô hình cho mỗi quốc gia.

Kết quả sau cùng cho thấy dân số tăng phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa, số người sống trong phạm vi 90 km cách đường bờ biển dự kiến sẽ tăng lên 2,75 tỷ người, tăng 35% kể từ năm 1995.

"Với những lo ngại ngày càng nhiều về mực nước biển dâng và độ mạnh của các cơn bão do trái đất ấm lên, những dự báo như trên sẽ rất quan trọng cho việc đưa ra các quyết định chính sách và những nghiên cứu về khả năng dễ bị thương tổn", Gaffin nói.

Bản đồ cũng cho thấy có sự suy giảm đáng kể mật độ dân số ở phần lớn Nhật Bản, nam Âu và đông Âu.

Kết quả này đã được biết rõ qua những phân tích về dân số, Gaffin nói, nhưng bản đồ mới đặt sự thay đổi trong ngữ cảnh thuần tuý về địa lý.

T. An (theo Discovery)