Giải Nobel Vật lý thuộc về lĩnh vực
quang học và laser
3 nhà khoa học chung nhau giải Nobel
Hoá học
Hành tinh thứ 10' trong hệ mặt trời có vệ tinh
Chiến tranh không gianNga - Mỹ
Phát hiện vũ khí từ xa bằng đầu dò kim loại
Con nhện 20 triệu tuổi
Phát hiện hoa toả sáng huỳnh quang
Phát hiện tượng nữ
thần Hy Lạp
Khách du lịch vũ
trụ thứ ba khởi hành hôm nay
Nga chấp thuận
khách du lịch vũ trụ thứ 3
NASA thừa nhận dự
án tàu con thoi là sai lầm
Thần Châu 6 trở về trái đất an toàn
Thứ hai,
17/10/2005, 08:50 GMT+7
Nhà du hành Nie
Haisheng bước ra khỏi con tàu.
Con tàu vũ
trụ mang theo 2 nhà du hành của Trung Quốc
đã tiếp đất an toàn vào sáng sớm 17/10, sau
5 ngày vòng quanh quỹ đạo.
Con tàu đã
hạ cánh vào lúc 4h32 sáng hôm nay, trên bãi
cỏ tại vùng Nội Mông, cách mục tiêu đã định
chỉ khoảng 1 km. Đây là chuyến bay vào vũ
trụ có người lái thứ 2 của Trung Quốc - nước
thứ 3 duy nhất đưa người vào vũ trụ thành
công, sau Mỹ và Nga.
Hai nhà du
hành vũ trụ đã thưởng thức mỳ, trà và
chocolate trước khi được trực thăng đưa tới
một trạm quân sự gần đó. "Tôi có thể cảm
nhận rằng rất nhiều người đang hướng về
chúng tôi", Nie Haisheng phát biểu. "Chúng
tôi rất cảm động trước tình cảm và nỗi lo
lắng sâu sắc mà mọi người dành cho chúng
tôi".
Các nhà du
hành vũ trụ đã được kiểm tra sức khoẻ và đều
trong tình trạng tốt. Tờ Tân Hoa Xã cho biết
họ đã hoàn thành mọi thí nghiệm như dự tính
và thu được nhiều dữ liệu kỹ thuật giá trị
cho chương trình vũ trụ có người lái của
Trung Quốc.
Trước khi
hạ cánh, Thần Châu 6 đã hơi bị
trượt khỏi quỹ đạo bay dự kiến bởi lực
hút của trái đất. Cuộc điều chỉnh đã thay
đổi độ cao của con tàu khoảng 800 m. Các
chuyên gia không gian cho biết đó chỉ là
cuộc sửa chữa thông thường.
Bắc Kinh
đặt tầm quan trọng hàng đầu lên chương trình
vũ trụ, coi đó niềm kiêu hãnh quốc gia và là
cách khẳng định vị thế trên toàn cầu. Trung
Quốc hy vọng lắp đặt một trạm vũ trụ trong
vòng 5 năm tới và cuối cùng có thể đưa người
lên mặt trăng.
M.T.
(theo BBC)
Biến nước tiểu thành nước uống cho phi hành gia
Chủ nhật,
16/10/2005, 07:00 GMT+7
Các nhân viên của
Water Security đang thử nghiệm thiết
bị lọc nước trong môi trường không
trọng lượng.
Với thiết bị
lọc đặc biệt của công ty Water Security,
nước thải trên tàu vũ trụ sẽ được xử lý để
tái sử dụng, thậm chí nước tiểu của các phi
hành gia cũng được tái chế thành nước uống
tinh khiết.
Trong lĩnh
vực thám hiểm không gian, việc cung cấp nước
cho các phi hành gia trên quỹ đạo là một
trong những tính toán điên đầu của các nhà
khoa học. Trong vòng 5 năm qua, Cơ quan Hàng
không Vũ trụ Mỹ (NASA) đã chi khoảng 60
triệu USD để đưa nước uống lên trạm vũ trụ
không gian thông qua các tàu con thoi (mỗi
gallon nước chuyển lên không trung tốn
khoảng 40.000 USD). Tuy nhiên, chi phí này
có thể sẽ được tiết giảm nhờ vào một thử
nghiệm thành công trong thời gian gần đây.
Các khoa học gia đã tìm ra một biện pháp
khác khả thi hơn, đó là tái chế lại nước
tiểu và nước thải sinh hoạt của các nhà du
hành vũ trụ.
Đây không
phải là sáng kiến độc đáo lắm, nhưng thực
hiện nó trong khuôn khổ chật hẹp của một tàu
vũ trụ trong trạng thái không trọng lượng
thì không phải là điều đơn giản, và nhiều
người cũng tự hỏi mùi vị của nó sẽ như thế
nào?
Nếu áp
dụng hệ thống tái sử dụng nước tại trạm vũ
trụ không gian sẽ giảm bớt số lượng nước cần
chuyển vào không gian xuống đến 2/3 và không
gian trống trên tàu vũ trụ đủ chỗ cho thêm 4
nhà du hành khác.
Water
Security nằm ở thành phố Reno, tiểu bang
Nevada, Mỹ, là một công ty vừa được thành
lập nhằm mục đích khai thác kỹ thuật của
NASA tại môi trường trái đất. Tổng giám đốc
Công ty Ray Doane hăm hở khoe chiếc hộp thần
bí và nói: “Đây là một kỹ thuật mang tính
đột phá lớn”. Water Security đã bổ sung một
thiết bị lọc đặc biệt vào hệ thống của NASA,
tạo ra một hệ thống lọc mới có thể diệt trừ
đến 99,9% các loại vi khuẩn trong nước,
thành một nguồn nước hoàn toàn tinh lọc.
Hệ thống
lọc nước của Water Security gồm 6 bước, bắt
đầu bằng một bộ lọc căn bản nhằm loại bỏ cặn
bã hoặc các mảnh vỡ lớn, như tóc hoặc xơ có
trong chất lỏng ban đầu. Tiếp đó, một bộ lọc
carbon loại bỏ các chất hữu cơ phế thải có
trong nước tiểu như urea, uric acid và
creatinine, cũng như các chất diệt trùng
hoặc diệt vi khuẩn thường có từ các nguồn
nước ở đồng ruộng. Chất lỏng sau đó được bơm
qua một hệ thống do công ty Water Security
thiết kế bao gồm rất nhiều vi hạt nhựa
iodine tổng hợp. Khi có bất kỳ các vi sinh
vật nào chạm vào các hạt này, chúng đều
phóng ra chất iodine để tiêu diệt vi sinh
vật.
Phó tổng
giám đốc công ty, ông Ken Kearney nói:
“Iodine ngấm từ từ vào nước và rất ổn định
trong điều kiện môi trường nhiệt độ và độ
kiềm khá rộng. Hệ thống này đồng thời cũng
có thể giải quyết được tất cả các nguồn nước
nhiễm bẩn nặng nhất trên hành tinh và cung
cấp nước sạch, an toàn”. Nước sẽ được giữ
lại một thời gian trong bồn chứa nhằm giúp
cho iodine có đủ thời gian tiêu diệt toàn bộ
vi sinh. Sau đó một hệ thống lọc loại bỏ
iodine, các muối nitrat lẫn kim loại nặng.
Cuối cùng, nước được dẫn qua một hệ thống
lọc nhằm loại bỏ cryptosporidium (một loại
ký sinh trùng trong nước miễn nhiễm với
iodine) và cung cấp một nguồn nước hoàn toàn
trong sạch.
Từ lâu
nay, các kỹ sư NASA đã suy nghĩ rất nhiều về
vấn đề chất thải của con người. Chuyến đi bộ
ngoài quỹ đạo kéo dài 15 phút đầu tiên của
phi hành gia Alan Shepherd quá ngắn đến mức
không ai nghĩ đến việc thiết kế một chỗ chứa
nước tiểu trong bộ đồ phi hành gia. Trong 15
phút này, một vấn đề trục trặc về điện đã
xảy ra khiến anh bị trì hoãn hết 86 phút
không trở về được. Bàng quang của Shepherd
nhanh chóng bị căng đầy và lần đầu tiên anh
đã gọi điện về trung tâm. Sau khi cân nhắc,
trung tâm điều khiển đành trả lời rằng: “Hãy
thải nó trong bộ đồ bay”. Sau này, các nhà
du hành trên các tàu vũ trụ Gemini và Apollo
được trang bị một chiếc túi nhựa bao lấy
phần dưới cơ thể. Sau khi gạn lọc, phi hành
đoàn được yêu cầu niêm phong túi này và trộn
nó với một chất lỏng sát trùng để tạo một
“chất thải ổn định” theo mong muốn.
Theo một
nghiên cứu của NASA vào năm 1975, nhìn chung
hệ thống xử lý chất thải của tàu Apollo thỏa
mãn tương đối nhu cầu theo quan điểm kỹ
thuật. Nhưng theo quan điểm chung của phi
hành đoàn, hệ thống này hoàn toàn không ổn.
Đối với các tàu con thoi, NASA đã thiết kế
một hệ thống nhà vệ sinh trị giá 23 triệu
USD có thể làm khô chất thải, sau đó đem trở
về trái đất.
Hệ thống
lọc nước của Water Security cho phép NASA
giải quyết hai vấn đề cùng một lúc. Nó giải
quyết được vấn đề nước thải, đồng thời tái
chế nước tiểu thành nước uống cho các phi
hành gia. NASA đang tiến hành kiểm tra hệ
thống này tại trung tâm điều hành không gian
Marshall ở Huntsville, Alabama. Ngoài ra,
Water Security cũng đã bắt đầu sử dụng kỹ
thuật của mình tại nhiều nơi thiếu nguồn
cung cấp nước sạch.
Trong mùa
hè này, Cơ quan Chăm sóc trẻ em quốc tế đã
xây dựng một hệ thống lọc nước tại miền Bắc
Iraq. Robert và Roni Anderson, những người
sáng lập cơ quan, xây dựng hệ thống này trên
một xe Toyota chuyên dụng và đưa đến hàng
chục ngôi làng để cung cấp nước sạch. Hệ
thống này cung cấp trung bình mỗi phút 5
gallon nước, trong một ngày lọc nước có thể
cung cấp nước cho một ngôi làng 5.000 dân sử
dụng cả tháng. Chi phí trung bình khoảng
3cent/1 gallon.
Không chỉ
các khu vực bị chiến tranh tàn phá mới thiếu
nước. Sau cơn sóng thần tấn công Indonesia
tháng 12/2004, rất nhiều nguồn nước sạch đã
bị nhiễm mặn và nhiễm chất độc từ đường phố.
Kearney cho biết, hệ thống lọc nước của
Water Security có thể giải quyết được cả
những thảm họa như vậy. Nói chung, kỹ thuật
này đã được kiểm tra tại một khu vực nước
thải ở Jakarta và cung cấp được lượng nước
đạt các tiêu chuẩn mà tổ chức bảo vệ môi
trường đề ra.
Phi thuyền
Thần Châu 5 của Trung Quốc
Đây là con tàu được thiết kế dựa trên phi
thuyền Soyuz của Nga song có cải tiến. Thần
Châu có nghĩa là con tàu linh thiêng, có sức
chứa 3 người. Nó có dạng hình ống, gồm 3
module: Module quỹ đạo ở phía trước, module
trở về trái đất và module đẩy ở đằng sau.
Module quỹ đạo có một cửa
sập nơi nhà du hành có thể bước ra và thực
hiện chuyến đi bộ ra ngoài không gian nếu
cần. Module này sẽ bị bỏ lại trong không
gian, song sẽ không phải là rác vũ trụ. Nó
sẽ ở lại đó có lẽ với vai trò là module đầu
tiên của trạm vũ trụ. Hệ thống điện và kiểm
soát sẽ cho phép giới khoa học nước này sử
dụng module quỹ đạo để nghiên cứu trong thời
gian 6 tháng sau khi sứ mạng chấm dứt.
Thần Châu dài 8,65m, nặng
7,8 tấn và có đường kính 2,5m. Khi phi
thuyền ở trong quỹ đạo, nó sẽ được cấp điện
bởi 2 tấm pin mặt trời. Phi thuyền do Công
ty khoa học và công nghệ không gian Trung
Quốc chế tạo. Theo các nguồn tin, cựu chủ
tịch Giang Trạch Dân là người đặt tên cho
Thần Châu 5. Thần Châu 1 được phóng vào ngày
19/11/1999 và quay quanh quỹ đạo trái đất 14
lần trước khi hạ cánh bằng dù. Ba tàu Thần
Châu tiếp theo đã được phóng, mở đường cho
sự kiện phóng Thần Châu 5 hôm nay. Thần Châu
5 sẽ bay theo quỹ đạo quanh trái đất 14 lần
và mất 90 phút mới bay hết một vòng.
Thần Châu 5 được tên lửa
Trường Chinh 2F đưa vào không gian. Tên lửa
này đã được sử dụng trong nhiều năm qua để
đưa các vệ tinh do Trung Quốc chế tạo vào
quỹ đạo trái đất. Trường Chinh 2F, cao 19
tầng, là tên lửa 2 giai đoạn được trang bị 4
động cơ đẩy bằng nhiên liệu lỏng.
Một số mốc du hành vũ
trụ quan trọng:
12/4/1961: Nhà du hành
Yury Gagarin của Liên bang Xô Viết trở thành
người đầu tiên bay vào không gian, hoàn tất
một vòng quỹ đạo trên phi thuyền Vostok 1
với thời gian 108 phút.
5/5/1961, Mỹ phóng phi
thuyền Mercury theo mang nhà du hành Alan
Shepard trong một chuyến bay cận quỹ đạo.
Người Mỹ đầu tiên bay vào quỹ đạo là John
Glenn hồi tháng 2/1962.
1963: Chuyến bay vũ trụ
đầu tiên có một nhà du hành là phụ nữ,
Valentina Tereshkova.
1965: Nhà du hành Aleksei
Leonov thực hiện chuyến đi bộ đầu tiên ra
ngoài không gian.
1/1967: Tàu con thoi
Apollo 1 nổ tung sau khi rời bệ phóng, cướp
đi sinh mạng của 3 phi hành gia Gus Grissom,
Ed White và Roger Chaffee. Cũng vào tháng 4
năm đó, nhà du hành Vladimir Komarov người
Nga hy sinh khi dù của phi thuyền Soyuz trục
trặc.
1968: Apollo 8 trở thành
con tàu vũ trụ có người đầu tiên bay quanh
mặt trăng.
1969: Neil Amstrongs là
người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng bằng
phi thuyền Apollo 11.
1972: Apollo 11 là chuyến
bay cuối cùng có người tới mặt trăng.
18/7/1975: Tàu Apollo của
Mỹ ghép nối với một phi thuyền Soyuz của Nga
khi đang ở trong quỹ đạo trái đất, đánh dấu
chuyến bay vũ trụ hợp tác quốc tế đầu tiên.
1981: Chuyến bay đầu tiên
của tàu con thoi Columbia. Đây là tàu vũ trụ
đầu tiên có thể tái sử dụng nhiều lần, mang
các nhà du hành và hàng hoá.
1986: Tàu con thoi
Challenger của Mỹ gặp nạn, 7 nhà du hành
trên boong thiệt mạng.
1998: Trạm vũ trụ quốc tế
(ISS) bắt đầu được xây dựng.
1999: Trung Quốc phóng
Thần Châu 1 không người lái đầu tiên của
nước này vào quỹ đạo.
2001: Trạm vũ trụ Mir của
NGa bị phá huỷ sau 15 năm hoạt động. Vị
khách du lịch vũ trụ đầu tiên của thế giới,
nhà tỷ phú người Mỹ Dennis Tito, thăm ISS.
2003: Tháng 1:
Tàu con thoi Columbia nổ tung khi
trở về trái đất, 7 nhà du hành thiệt mạng.
15/10: Trung Quốc phóng Thần Châu 5, chính
thức trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới
đưa người vào không gian sau Nga và Mỹ.
(Minh Sơn - Tổng hợp)
Thần Châu 6 đã bay vào không gian
(11:26 12-10-2005)
Vào lúc 8 giờ
sáng hôm nay
(12/10), tên lửa
Trường Chinh 2F
đã rời Trung tâm
phóng vệ tinh
Cửu Tuyền, mang
Thần Châu 6 vào
không gian, cùng
hai phi hành gia
Fei Junlong và
Nie Haisheng.
Theo dự kiến,
chuyến bay kéo
dài trong 5
ngày.
Thần
Châu 6 có thể là
chuyến bay cuối
cùng trong giai
đoạn đầu tiên
của Dự án 921.
Dự án nhằm đưa
người thành công
vào không gian.
Sau chuyến bay
này, Chương
trình vũ trụ có
người lái của
Trung Quốc sẽ
bước vào giai
đoạn 2 với những
kế hoạch lớn hơn
chẳng hạn như
phi hành gia
thực hiện các
chuyến đi bộ ra
ngoài không
gian, ghép nối
tàu vũ trụ với
Trạm vũ trụ quốc
tế, phóng phòng
thí nghiệm vũ
trụ và xây dựng
một phòng thí
nghiệm vĩnh cửu
trong không
gian.
Vương Dũng Trí,
Tổng công trình
sư của Chương
trình tàu vũ trụ
có người lái của
Trung Quốc, nhận
xét: ''Các
chuyến bay vũ
trụ có người lái
thể hiện sức
mạnh kinh tế và
nghiên cứu khoa
học của một quốc
gia. Đây là một
phương tiện lớn
để mở rộng không
gian sống của
con người, khai
thác và sử dụng
các tài nguyên
vũ trụ. Trung
Quốc sẽ không
bao giờ trở
thành một siêu
cường, song với
tư cách là quốc
gia đang phát
triển lớn nhất
thế giới với dân
số 1,3 tỷ người,
Trung Quốc sẽ có
chỗ đứng trong
không gian vũ
trụ và có những
đóng góp xứng
đáng''.
Từ năm
1999-2002, các
tàu “Thần Châu 1
” đến “Thần Châu
4” không người
lái lần lượt
được phóng thành
công với hàng
nghìn vòng bay
quanh Trái đất.
Đó là sự chuẩn
bị và là tiền đề
vững chắc cho
chuyến bay có
người lái đầu
tiên bằng tàu
"Thần Châu 5 ”
do Trung Quốc
sản xuất. Sau
thành công vang
dội này, Trung
Quốc không ngừng
nghiên cứu, phát
triển con tàu “
Thần Châu” để
sắp tới đây, lần
đầu tiên hai nhà
du hành Trung
Quốc cùng nhau
sống và làm việc
trên vũ trụ
trong 5 ngày.
Tàu “ Thần Châu
5 ” được thiết
kế cho một người
với thời gian
bay là 21 giờ,
Còn thời gian
bay của “ Thần
Châu 6 ” là 5
ngày (tàu được
thiết kế cho
hành trình 7
ngày), các phi
hành gia sẽ sinh
hoạt và triển
khai các thực
nghiệm khoa học
ở khoang quỹ
đạo.
Từ năm
1999-2002, các
tàu “Thần Châu 1
” đến “Thần Châu
4” không người
lái lần lượt
được phóng thành
công với hàng
nghìn vòng bay
quanh Trái đất.
Đó là sự chuẩn
bị và là tiền đề
vững chắc cho
chuyến bay có
người lái đầu
tiên bằng tàu
"Thần Châu 5 ”
do Trung Quốc
sản xuất. Sau
thành công vang
dội này, Trung
Quốc không ngừng
nghiên cứu, phát
triển con tàu “
Thần Châu” để
sắp tới đây, lần
đầu tiên hai nhà
du hành Trung
Quốc cùng nhau
sống và làm việc
trên vũ trụ
trong 5 ngày.
Tàu “ Thần Châu
5 ” được thiết
kế cho một người
với thời gian
bay là 21 giờ,
Còn thời gian
bay của “ Thần
Châu 6 ” là 5
ngày (tàu được
thiết kế cho
hành trình 7
ngày), các phi
hành gia sẽ sinh
hoạt và triển
khai các thực
nghiệm khoa học
ở khoang quỹ
đạo.
:
China.com.cn, Vnn
12/10/2005
Kính chịu được đạn chống tăng
Không
lực Mỹ đang thử nghiệm một loại vật liệu trong suốt,
bền đến mức ngay cả loại đạn bắn thủng vỏ xe tăng
cũng phải đầu hàng trước nó.
Vật liệu được làm từ nhôm
oxynitrit với tên thương mại là Alon. Nó có thể thay
thế cho các loại kính chống đạn dùng trong các
phương tiện quân sự hiện nay, vốn nặng nề và kém bền
hơn.
Alon là một hợp chất ceramic được
làm từ nhôm, ôxy và nitơ, có đặc điểm cấu trúc và
quang học tương tự như đá saphia, một loại đá rất
quý. Trong khi các loại kính chống đạn truyền thống
được làm từ nhiều lá kính và polycarbonate chồng lên
nhau, loại vật liệu mới chứa lớp ngoài cùng là alon,
lớp giữa là một loại kính bền và trong cùng là
polymer.
Trong thử nghiệm thực hiện tại
Viện nghiên cứu Đại học Dayton, bang Ohio, tấm kính
trong suốt này đã chịu được những viên đạn chống
tăng bắn ra từ loại súng trường M-44 cỡ 30 ly của
Nga và loại súng Browning 50 ly. Nó cũng chịu được
những viên đạn chống tăng 30 ly bắn liên tục. Các
loại kính chống đạn thông thường cần phải làm dày
hơn thế hàng chục cm mới có được tính năng tương tự.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cần
tiếp tục những thử nghiệm khác để xác định xem nó có
chịu được những tác dụng đa dạng từ nhiều loại vũ
khí lớn hơn, như bom hay không.
"Thật là ấn tượng", Ronald Hoffman
từ Viện nghiên cứu Đại học Dayton, người thực hiện
thí nghiệm nói. Ông cho rằng loại vật liệu này có
tiềm năng ứng dụng lớn nhất trong các loại phương
tiện như máy bay quân sự. Điểm yếu duy nhất của Alon
là nó rất đắt, chi phí tới 15 USD cho mỗi 2,5
centimét vuông, đắt gấp 3 lần kính chống đạn thông
thường. Tuy nhiên, Hoffman tin rằng giá sẽ giảm
xuống khi sản xuất trên quy mô lớn.
T. An (theo
NewScientist)
Thần Châu 6 cất cánh thành công
Thứ tư, 12/10/2005,
09:05 GMT+7
Hai phi hành gia
Fei Julong và Nie Haisheng vẫy chào
trước khi bước lên tàu Thần Châu 6.
Sáng sớm
nay, con tàu mang theo bộ đôi phi hành gia
Trung Quốc đã được phóng lên không trung,
trong một sứ mệnh kéo dài và mạo hiểm hơn so
với lần đầu tiên đưa người lên vũ trụ của
Trung Quốc.
Thủ tướng
Ôn Gia Bảo đã gửi những lời chúc tốt đẹp đến
phi hành đoàn và phát biểu ông tin tưởng
rằng hai nhà du hành là Fei Julong và Nie
Haisheng sẽ hoàn thành sứ mệnh cao cả và
linh thiêng này.
Tên lửa
mang theo
Thần Châu 6 và các nhà du hành đã rời
khỏi bệ phóng ở Trung tâm phóng vệ tinh Tửu
Tuyền, phía tây bắc Trung Quốc. Quá trình
cất cánh đã được truyền hình trực tiếp trên
đài truyền hình Trung Quốc.
Thần Châu 6 rời
bệ phóng.
Fei
Julong, 40 tuổi, đến từ Côn Sơn, phía đông
tỉnh Giang Tô, được chọn từ 5 phi hành gia
là ứng viên cho chuyến bay của
Thần Châu 5 vào tháng 10/2003.
Nie
Haisheng, 41 tuổi, đến từ Zaoyang, trung tâm
tỉnh Hà Bắc, nằm trong 3 người cuối cùng
được chọn tham gia Thần Châu 5.
Đến thời
điểm này, Thần Châu 6 đã bay vào quỹ đạo như
dự kiến. Hai nhà du hành cho biết họ cảm
thấy khoẻ mạnh và mọi thứ đều ổn.
Nhiệm vụ
kéo dài 5 ngày là một dự án trọng điểm của
các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Sứ mệnh này sẽ
phức tạp hơn so với lần bay đầu tiên vào năm
2003, mang theo một nhà du hành và kéo dài
21,5 giờ.
M.T.
(theo AP, Tân Hoa Xã)
Khách du lịch vũ trụ thứ 3' trở về trái đất
Thứ ba, 11/10/2005,
16:13 GMT+7
'
Gregory Olsen.
Một nhà du hành Nga, 1 phi
hành gia Mỹ cùng du
khách người Mỹ đã trở về trái đất an
toàn hôm nay, khi tàu Soyuz hạ cánh tại
Kazakhstan.
Doanh nhân và cũng là nhà
khoa học triệu phú, Gregory Olsen vẫy tay và
giơ một ngón tay cái, trong khi nhai ngon
lành một miếng hoa quả. "Tôi cảm thấy tuyệt
vời. Tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa để
bước xuống đất, có một bữa ăn thực thụ và
tắm một cái", ông nói.
Hai nhà du hành Sergei
Krikalev và John Phillips đã dành nửa năm
qua trên Trạm Vũ trụ quốc tế. Thay vào vị
trí của họ trên trạm ISS hiện giờ là chỉ huy
trưởng William McArthur từ Mỹ và kỹ sư bay
người Nga Valery Tokarev.
Olsen là vị khách du lịch
vũ trụ thứ ba trên thế giới, sau thương gia
người Mỹ Dennis Tito (2001) và Mark
Shuttleworth người Nam Phi (2002).
Giám đốc cơ quan vũ trụ
Nga Roskosmos tuyên bố, mặc dù loạt tàu con
thoi của Mỹ hiện ngừng hoạt động, song nhà
du hành Mỹ William McArthur vẫn sẽ chắc chắn
được trở về nhà vào năm tới cùng phi hành
gia người Nga Valery Tokarve trên một tàu
Soyuz, tuy phía Nga chưa định ra giá cả cho
chiếc vé này.
Vấn đề tiền nong được đặt
ra ngay sau khi McArthur rời khỏi bệ phóng
hôm 1/10 trên tàu Soyuz của Nga để lên Trạm
không gian quốc tế (ISS). Cơ quan vũ trụ Nga
tuyên bố họ "đáp ứng xong mọi thỏa thuận về
việc đưa nhân viên của NASA lên ISS", giờ
đây, Nga không có nhiệm vụ phải đưa McArthur
trở về. Tyên bố này được coi là đòn đáp trả
của người Nga sau một tuyên bố hồi tháng
trước của NASA, rằng họ có thể không cử
chuyên gia bay chung tàu của Nga vào không
gian nếu Nga tiếp tục hợp tác phát triển
năng lượng hạt nhân với Iran.
T. An
(theo Reuters)
Thêm bằng chứng về người tí hon ở
Indonesia
Thứ tư, 12/10/2005
Hộp sọ của giống
người Homo
floresiensis (trái) nhỏ hơn hẳn
so với người hiện đại.
Các nhà khoa học đã phát
hiện thêm nhiều mảnh xương của một giống
người nhỏ bé, kỳ lạ, từng sống trên đảo
Flores, Indonesia. Chúng làm tăng sức nặng
cho giả thuyết rằng
bộ xương tí hon tìm thấy năm ngoái ở
Flores thuộc về một giống người mới với khoa
học.
Homo floresiensis, tên gọi của giống
người này, có chiều cao không quá 1 mét, và
sống cách đây 18.000 năm. Mới đây, người ta
đã tìm ra thêm những mảnh xương của ít nhất
9 cá thể "tí hon" như thế.
Khám phá mới bao gồm những
phần xương chưa tìm thấy của bộ xương cũ
(LB1, theo tên hang Liang Bua nơi đào được
mẫu vật), và một loạt các xương mới, như hàm
và mảnh sọ, một xương sống, xương cánh tay,
chân và ngón tay.
Thêm nhiều mẫu vật
được tìm thấy trong hang Liang Bua.
Trưởng nhóm Michael
Morwood, từ Đại học New England, Armidale,
Australia, cho biết các mẫu vật đã giúp xây
dựng một bức tranh đầy đủ hơn về LB1, và bổ
sung bằng cứ về thói quen đánh lửa và săn
bắt của giống người bé nhỏ này.
Nhóm nghiên cứu cho biết
giờ đây họ bị thuyết phục hơn bao giờ hết
rằng Homo
floresiensis đại điện cho một loài
riêng biệt, chứ không phải là cá thể người (Homo
sapiens) bị dị tật nào đó như phỏng
đoán của một số chuyên gia hoài nghi.
"Phát hiện củng cố thêm
rằng LB1 không phải là một sinh vật dị
thường hay bệnh tật, mà là đại diện cho một
quần thể lâu đời", nhóm nghiên cứu viết.
Michael Morwood và cộng sự
cũng đoán chắc Homo
floresiensis, với bộ não có kích cỡ 380
cm3, là sản phẩm của hiện tượng
đảo lùn hay
địa phương hóa
từng được biết đến. Hiện tượng này đề cập
đến những loài bị cách ly, dưới sức ép của
nguồn thức ăn hạn chế, đã tiến hóa thành
những loài nhỏ hơn hoặc lớn hơn so với tổ
tiên ban đầu. Trong trường hợp
Homo floresiensis,
các nhà nghiên cứu cho rằng họ xuất xứ từ
Homo erectus - một giống người cổ tuyệt
chủng đã lâu, từng đến định cư trên đảo
Flores khoảng 800.000 năm trước.
Chân dung người tí
hon Homofloresiensis,
chỉ cao 1 mét và có nhiều đặc điểm
nguyên thuỷ.
Daniel Lieberman, từ đại
học Harvard, Mỹ, cho biết những khám phá
tiếp theo trên hòn đảo này sẽ giúp làm sáng
tỏ vấn đề.
"Nếu giả thuyết đảo lùn là
chính xác, thì những cư dân sớm nhất của
Flores phải lớn hơn các hóa thạch trong hang
Liang Bua, và nếu hiện tượng lùn hóa xảy ra
từ từ, có thể chúng ta sẽ bắt gặp những hóa
thạch có kích cỡ trung gian giữa
Homofloresiensis và
tổ tiên của chúng".
T. An
(theo BBC)
Thứ năm,
28/10/2004, 10:40 GMT+7
Phả hệ loài người từng có
một 'chú tí hon'
Khuôn đúc xương sọ
Liang Bua 1.
Các nhà khoa học vừa khám
phá ra một giống người tí hon mới, sống ở
Indonesia vào cùng thời điểm mà tổ tiên của
chúng ta chinh phục thế giới. Sinh vật cao 1
mét này cư ngụ trên đảo Flores cách đây chỉ
18.000 năm.
Phát hiện được xem như một
trong những khám phá quan trọng nhất của
lĩnh vực này trong nhiều thập kỷ qua.
Các nhà khảo cổ Australia
đã khai quật được những mảnh xương của giống
người tí hon trên tại khu vực có tên gọi
Liang Bua, một trong những hang động đá vôi
lớn trên đảo Flores, một hòn đảo biệt lập
của Indonesia. Bộ hài cốt gần nguyên vẹn
được đưa lên ở độ sâu 5,9 mét. Đầu tiên,
nhóm nghiên cứu cho rằng đó là xác của một
đứa trẻ, song những phân tích sâu hơn đã
tiết lộ một thông tin hoàn toàn khác.
Độ mòn trên răng và các
vòng tăng trưởng trên hộp sọ xác nhận đó là
một người trưởng thành, với khung xương chậu
có đặc điểm của nữ giới và một cái xương
chân cho biết "cô" đứng thẳng được như con
người hiện nay.
Một người Homo
floresiensis có thể trông giống
như thế này.
Mẫu vật có niên đại 18.000
năm, được gọi là Liang Bua 1, được xếp vào
một loài mới gọi là Homo floresiensis.
Nó cao khoảng 1 mét với cánh tay dài và
một hộp sọ có kích thước bằng quả bưởi lớn,
nhưng não bộ lại chỉ bằng 1/3 của chúng ta.
Sau bộ xương đầu tiên, các
nhà nghiên cứu còn tìm thấy các phần hài cốt
thuộc về 6 cá thể khác của giống người này.
Liang Bua 1 chia sẻ lãnh
thổ với một loài chuột có kích cỡ bằng con
chó, những con rùa khổng lồ và thằn lằn bự,
trong đó có rồng Komodo. Chris Stringer,
trưởng nhóm nguồn gốc loài người tại Bảo
tàng Lịch sử Tự nhiên London, cho biết các
cánh tay dài là một đặc điểm thú vị, và có
thể là bằng chứng cho thấy Homo
floresiensis dành phần lớn thời gian
trên cây. "Chúng tôi không rõ điều này.
Nhưng nếu rồng Komodo lởn vởn quanh đó, có
thể bạn sẽ muốn mang con lên cây vì ở đó an
toàn hơn", Stringer nói.
Ông cũng cho biết các
nghiên cứu sâu hơn về bàn tay và chân sẽ
cung cấp lời giải cho câu hỏi này.
Các nhà nghiên cứu phỏng
đoán Homo floresiensis dường như đã
tiến hoá từ một giống người khác có tên gọi
Homo erectus (mà hài cốt từng được
tìm thấy trên đảo Java của Indonesia).
Homo erectus có thể đã tới đảo Flores
khoảng 1 triệu năm trước đây, phát triển ra
vóc dáng tí hon này do sự biệt lập của hòn
đảo. Song, điều đáng nói quanh giả thuyết
này là giống người trên hẳn phải tới Flores
bằng thuyền, trong khi khả năng chế tác
thuyền để vượt đại dương lại được xem là nằm
ngoài khả năng của người Homo erectus.
Việc phân tích chi tiết bộ
xương có thể giúp xác định khoảng thời gian
tồn tại của giống người tí hon này. Khảo sát
bước đầu cho thấy họ xuất hiện khoảng 70.000
năm trước, nhưng có thể còn xa hơn nữa, cách
nay 800.000 năm. Bằng chứng cuối cùng về họ
được xác định có niên đại 12.000 năm trước,
khi một vụ phun trào núi lửa đã huỷ diệt
phần lớn sự sống hoang dã trên đảo Flores.
Song song, các nhà nghiên cứu cũng hy vọng
sẽ tìm thấy ADN trong những mẩu xương, nhờ
đó có thể tìm ra mối liên hệ giữa các loài.
Phát hiện đã gợi ra nhiều
hướng lập luận mới. Chẳng hạn, nếu nhánh
người tí hon này vẫn còn tìm thấy ngày nay,
và cho đến gần đây mới tuyệt chủng, thì liệu
có những giống người khác đang tồn tại ở đâu
đó hay không? Và kích cỡ nhỏ xíu của họ
chứng tỏ rằng con người cũng chịu những áp
lực tiến hoá y hệt như với các loài thú
khác, buộc phải co nhỏ cơ thể khi sống trên
những lãnh thổ cách ly và chịu sức ép sinh
thái.
Thuận An (theo BBC, Nature)
Thứ sáu,
7/10/2005, 15:50 GMT+7
Chuột đực gợi tình
bằng nước mắt
Với
đàn ông, việc khóc không được nam
tính cho lắm. Nhưng khi một con
chuột đực rơi nước mắt, dường như nó
đang muốn chứng tỏ sự nam tính của
mình.
Các nhà nghiên cứu
Nhật Bản đã phát hiện thấy chuột đực
tiết ra pheromone trong chất lỏng
làm ướt đôi mắt chúng.
"Không ai ngờ rằng
hoá chất tình dục lại tồn tại trong
nước mắt", Kazushige Touhara tại Đại
học Tokyo ở Chiba nói. Pheromone,
hoá chất truyền tải thông điệp về
tất cả từ nỗi sợ tới khát khao tình
dục, thường có nhiều nhất trong mồ
hôi của con người, và ở nước tiểu
của chuột.
Người ta vẫn chưa
rõ chuột có khóc vì cùng lý do với
con người. Trong nghiên cứu này,
nước mắt của chúng chỉ là kết quả
của phản ứng sinh lý giúp đôi mắt
chúng ẩm ướt và dễ chịu.
Touhara cho biết
pheromone trong chất tiết ra này có
thể sẽ được con cái nhận ra khi
chúng âu yếm khuôn mặt của nhau.
Những đầu mối sexy đó sẽ giúp con
cái chọn lựa bạn đời tiềm năng cho
mình.
Ở hầu hết các loài
động vật có xương sống, pheromone
kích hoạt tế bào thần kinh trong cơ
quan hình xương lá mía nằm ở mặt
cứng giữa mũi và miệng. Nhóm của
Touhara dự định tìm hiểu các hợp
chất pheromone khác nhau ảnh hưởng
thế nào tới cơ quan đó, vốn ảnh
hưởng tới hành vi giao phối. Nhưng
khi họ tìm hiểu nước tiểu chuột để
tìm ra pheromone gây kích hoạt, họ
không thu được gì. Sau khi kiểm tra
hoá chất tự nhiên từ các tuyến khác,
họ lại bất ngờ gặp đúng hoá chất
trong nước mắt của chuột.
Theo các nhà
nghiên cứu, con người không tiết ra
pheromone trong nước mắt. Pheromone
trong nước mắt của chuột được tạo ra
bởi một dòng gene mà con người không
có.
Nhưng ông cũng cho
rằng công trình đã nhấn mạnh sự bí
ẩn của nước mắt con người: các nhà
khoa học vẫn chưa hiểu đầy đủ vì sao
chúng ta khóc khi đau. "Tôi cho rằng
khóc có nhiều ý nghĩa hơn chúng ta
tưởng", Touhara nói.
M.T. (theo
Nature)
Thứ sáu, 7/10/2005,
15:56 GMT+7
Cá mập trắng lập kỷ lục băng qua đại
dương
Nếu
có Olympic marathon cho các loài cá, chắc
chắn đại diện của Nam Phi này sẽ được xem là
ứng cử viên vô địch. Con cá mập trắng đã bơi
tới Tây Australia và trở lại quê hương sau 9
tháng.
Đó là chuyến đi khứ hồi
băng qua một đại dương nhanh nhất do một
sinh vật biển lập nên.
"Đây là con cá đầu tiên
được tìm thấy băng qua cả một đại dương và
trở về cùng một địa điểm", trưởng nhóm
nghiên cứu Ramón Bonfil từ Hiệp hội bảo tồn
thiên nhiên cho biết. "Vận tốc mà nó duy trì
trong chuyến đi là một trong những tốc độ
đường dài nhanh nhất của các động vật biết
bơi".
Tuy nhiên, vì những kỷ lục
được ghi lại như vậy là rất hiếm hoi, nên
người ta không rõ liệu con cá mập trắng này
có những đối thủ đáng gờm trong Olympic các
loài cá hay không.
Kỳ tích này cũng xác nhận
mối liên hệ nghi ngờ lâu nay giữa hai quần
thể cá mập quan trọng nhất thế giới và chứng
tỏ cá mập trắng có thể dễ bị tổn thương hơn
trước hoạt động đánh cá thương mại trên đại
dương. Nó cũng cho thấy sự tinh thông đáng
ngạc nhiên của chúng trong việc định hướng.
Tháng 11/2003, các nhà
nghiên cứu gắn thẻ theo dõi qua vệ tinh cho
một con cá mập trắng cái ở bờ biển Nam Phi.
Hơn 99 ngày sau đó, qua hơn 10.000 kilomét,
thẻ ngừng hoạt động gần Tây Australia, và
truyền dữ liệu về chuyến đi của con vật, bao
gồm hải trình, độ sâu và nhiệt độ nước. 6
tháng sau khi con vật đến Australia, người
ta chụp ảnh được nó quay trở lại Nam Phi,
nhận dạng nhờ vết khía trên vây.
Các nhà nghiên cứu phỏng
đoán có hai lý do khiến nó thực hiện hành
trình gian khổ như vậy: thức ăn hoặc ái
tình. Khả năng thứ hai được xem là nhiều
hơn, do thời điểm nó đến Australia trùng với
mùa sinh sản ở vùng này. Nhưng giả thuyết
cũng có lỗ hổng, vì "cô bé chưa đủ kích cỡ
của một con cá trưởng thành, vì thế nó không
thể sinh sản". Giả thuyết thức ăn cũng đuối
lý vì cá mập không thiếu gì thức ăn ở Nam
Phi, là hải cẩu và cá.
Có lẽ đó là một cuộc chạy
đua tập dượt, "con vật có thể thực hiện hành
trình như vậy trong suốt cuộc đời", Bonfil
nói. Có thể con cá mập sinh ra ở Australia
và có hành vi "về nhà tự nhiên" để trở về
với nơi chôn rau cắt rốn. Hoặc vì việc giao
phối cận huyết trong một quần thể có thể
khiến suy giảm giống nòi, nên cá mập phải
thực hiện những chuyến giao phối ở xa nhằm
tăng cường bộ gene cho bầy.
T. An
(theo LiveScience)
Thứ sáu, 7/10/2005, 07:10 GMT+7
Ong chúa chết, ong thợ nổi loạn
Đàn ong có thể biến thành một đám hỗn loạn khi con
ong chúa chết, và các con ong thợ sẽ vứt bỏ thói
quen thông thường của mình để hưởng thú vui khoái
lạc.
Sự vắng mặt của ong chúa khiến các con ong thợ từ bỏ
vai trò thông thường của mình là kiểm soát hành vi
sinh sản của cả bầy, khiến chúng trở nên dễ bị tấn
công bởi ong ký sinh ở bầy đàn khác.
Nhưng ít nhất những con ong thợ cũng chết vì sung
sướng trong tình trạng hỗn độn này. Trước khi cả đàn
bị tan vỡ, ong thợ sẽ giao phối vô độ với mục đích
tạo ra một thế hệ con đực cuối cùng để duy trì nòi
giống.
Giáo sư Benjamin Oldroyd tại Đại học Sydney,
Australia, và các cộng sự người Thái đã tìm hiểu
điều gì xảy ra khi một đàn ong mật châu Á (Apis
florea) bị mất đi con đầu đàn.
Họ tìm thấy số lượng ong thợ ngoại bang (ký sinh)
tăng gấp đôi. Gần một nửa số ong ký sinh này có
buồng trứng hoạt động, so với 1/5 ong thợ bản địa.
"Việc kiểm soát ong thợ là điều thiết yếu để duy trì
sự cân bằng sinh sản và bảo vệ tập đoàn trước những
con ong ký sinh từ đàn khác. Nhưng để duy trì nòi
giống khi ong chúa chết, chúng bị thôi thúc từ bỏ
vai trò kiểm soát để đẻ trứng của chính mình",
Oldroyd nói.
Chính sách kiểm soát ở ong, được phát hiện vào năm
1989, có nghĩa là nếu ong thợ bắt đầu đẻ trứng,
trứng của chúng sẽ bị ăn mất. Nhưng ong thợ mất chủ
sẽ đối mặt với nguy cơ tận diệt nếu chúng không tạo
ra ong chúa mới từ một trong những chị em của mình,
hay tạo ra lứa con đực cuối cùng để phối giống với
ong chúa khác.
"Kết quả nghiên cứu cho thấy mỗi đàn ong là một xã
hội cân bằng phức tạp mà chỉ hiệu quả bởi chính sách
kiểm soát hành vi ong thợ. Một khi chính sách đó bị
loại bỏ, đàn ong tan vỡ", Oldroyd nói.
M.T. (theo ABC Online)
Ếch giật giải Ig Nobel 2005
Con ếch này khi bị stress
có mùi hạt điều.
Những con ếch bị stress có mùi giống
như cà ri hay hạt điều, chim cánh cụt tạo ra sức ép
bao nhiêu khi đi "đại tiện" - đó là những phát hiện
đoạt giải Ig Nobel năm nay.
Giải thưởng Ig Nobel 2005, nhằm
"tôn vinh" những thành tựu khiến mọi người cười
trước - nghĩ sau, đã được công bố tại lễ trao giải ở
Đại học Harvard, Mỹ đêm 6/10.
Nhóm của giáo sư Mike Tyler đến từ
Đại học Adelaide, Australia, đã giật giải Ig Nobel
sinh học về công trình nghiên cứu mùi của ếch. Tyler
cho biết mỗi con ếch có một mùi đặc trưng khi chúng
bị stress.
"Hầu hết các con ếch sống trên cây
có những mùi giống hạt lạc hay hạt điều. Và nó rất
ngọt", Tyler cho biết. Còn một nhóm ếch khác lại có
mùi cà ri đậm đặc. "Thực tế đó là mùi cà ri Bombay
ngọt ngào, hay mùi cà ri ớt khô của Bắc Ấn Độ".
Tyler và nhóm cũng đã tìm thấy 20
con ếch có mùi giống cỏ tươi và một số con mang mùi
ôi thiu.
Các nhà nghiên cứu không chắc
những mùi này có ý nghĩa gì, nhưng họ biết rằng một
số hoá chất trong đó có khả năng diệt muỗi. Họ cũng
tìm thấy một số hoá chất ngăn bồ câu "đi bậy" trên
hàng rào, và thực tế những chất này đã được sử dụng
để đuổi chim ở London, Paris và New York.
Giáo sư John Mainstone và cố giáo
sư Thomas Parnell tại Đại học Queensland ở Brisbane
giành giải Ig Nobel vật lý.
Thí nghiệm giọt hắc ín
rơi.
Mainstone cho biết vào năm 1927
Parnell đã bắt đầu một cuộc thí nghiệm mà bây giờ
trở thành cuộc thí nghiệm lâu nhất mọi thời đại,
trong đó có việc quan sát sự di chuyển siêu chậm của
các giọt hắc ín rơi ra từ cái phễu.
Cuộc thí nghiệm nhằm chứng tỏ hắc
ín, chất rắn dễ vỡ có thể đập tan bằng một cái búa,
cuối cùng cũng có thể chảy ra như chất lỏng, nếu bạn
để mặc nó đủ lâu.
Hiện mới chỉ có 8 giọt rơi ra từ
khi thí nghiệm bắt đầu và các nhà khoa học sẽ phải
chờ thêm một thập kỷ nữa để có thêm những giọt khác.
"Đến nay chưa ai thực sự quan sát
khi nào xảy ra sự dịch chuyển của giọt hắc ín tách
ra khỏi khối trong phễu. Vào năm 2000, chúng tôi cho
rằng đã ghi lại được cảnh đó trong máy quay nhưng
thật không may cái máy đó lại hỏng đúng vào thời
khắc quan trọng", Mainstone, người tiếp tục thí
nghiệm khi Parnell chết, nói.
Mainstone thừa nhận rằng một số
người có thể cho rằng công việc của họ còn tồi tệ
hơn là theo dõi một cây cỏ lớn lên hay chờ sơn khô,
nhưng ông tự hào cho biết cuộc thí nghiệm đã được
đưa vào trong sách giáo khoa. Và ông tuyên bố vẫn sẽ
tiếp tục thu thập dữ liệu về tính đặc sệt của hắc
ín, gấp 100 tỷ lần so với nước.
Chiếc camera đã làm việc trở lại
vì vậy bạn có thể nhìn thấy cảnh giọt hắc ín rơi.
Nhưng đừng vội nín thở bởi giọt tiếp theo sẽ không
rơi xuống trước năm 2011.
Giải Ig Nobel Y học thuộc về một
người Mỹ đã sáng chế ra tinh hoàn giả cho chó, bao
gồm 3 kích cỡ và 3 độ cứng khác nhau.
Giải hoá học được trao cho 2 nhà
nghiên cứu Mỹ đã khám phá ra rằng
bơi trong xi-rô không chậm hơn bơi trong nước.
Một nhà nghiên cứu Nhật Bản giành
giải thưởng dinh dưỡng vì đã chụp ảnh và phân tích
mọi bữa ăn của ông trong vòng 34 năm.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu
Đức giành giải động lực học chất lưu vì đã tính toán
sức ép tạo ra bên trong một con chim cánh cụt khi nó
đại tiện.
Các ca lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ sang
con tại Việt Nam đã lên tới mức báo
động. Trong số gần 2 triệu trẻ sơ sinh
hằng năm, có tới 2800 em bé bị nhiễm HIV
từ khi mở mắt chào đời. Theo số liệu do
Bộ Y Tế mới công bố, cả nước hiện có
8500 trẻ dưới 15 tuổi nhiễm HIV.
Đường truyền từ mẹ sang con được coi
là một trong ba đường lây nhiễm HIV chủ
yếu, ngoài đường máu và đường giao hợp.
Liên quan đến vấn đề này, Trà Mi đã trao
đổi với ông Oliver Phillips, viên chức
truyền thông tại trụ sở chính của Quỹ
nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), ở New
York. Trước tiên, ông Phillips đưa ra
nhận xét khái quát về đường truyền HIV
từ mẹ sang con:
Ông Oliver Phillips:
Nói một cách đơn giản, nếu người mẹ bị
nhiễm HIV/AIDS không được điều trị, thì
nguy cơ truyền virus HIV sang cho thai
nhi hoặc trẻ sơ sinh là tương đối khá
cao.
Trà Mi: Thế thì
có cách nào để ngăn chặn đường lây
truyền này không, thưa ông?
Ông Oliver Phillips:
Hiện có một loại thuốc khá hữu hiệu dùng
cho cả người mẹ và đứa bé để làm giảm sự
lây nhiễm qua con đường này, cơ bản là
giảm xuống mức 0.
Trà Mi: Loại
thuốc đó tên gì ạ?
Ông Oliver Phillips:
Thuốc này tên gọi là Nevirapine. Bà mẹ
sẽ uống một lần duy nhất 1 viên
Nevirapine trước khi sanh, và đứa con
khi sinh ra cũng sẽ được cho uống duy
nhất 1 lần .
Nói một cách đơn giản, nếu người
mẹ bị nhiễm HIV/AIDS không được
điều trị, thì nguy cơ truyền
virus HIV sang cho thai nhi hoặc
trẻ sơ sinh là tương đối khá
cao.
Ông Oliver
Phillips
Trà Mi: Cụ thể
là bà mẹ nên uống vào khoảng thời gian
nào, thưa ông?
Ông Oliver Phillips:
Nên uống khi bắt đầu chuyển dạ thực sự
hoặc trước khi mổ lấy thai.
Trà Mi: Còn đứa
trẻ thì nên cho uống khi nào?
Ông Oliver Phillips:
Trong vòng 72 giờ đồng hồ sau khi sinh .
Trà Mi: Có nhất
thiết bà mẹ phải sinh mổ để đảm bảo
không lây truyền virus HIV sang cho đứa
con không, thưa ông?
Ông Oliver Phillips:
Không....trong nhiều trường hợp, các
phương pháp sinh khác không được lựa
chọn mà chỉ sinh bằng phương pháp thông
thường thôi.
Trà Mi: Giá cả
loại thuốc mà ông vừa nói ra sao?
Ông Oliver Phillips:
Số lượng thuốc có giới hạn mặc dù người
ta đang có ý định phổ biến nó rộng rãi
đến mọi nơi. Tôi không biết chắc là hiện
nay nó có dễ kiếm trên thị trường Việt
Nam hay không. Giá thuốc này tại Mỹ
không mắc lắm, 2 đô la mỗi liều, tức 4
đô la cho hai liều điều trị cho cả mẹ
lẫn con.
Trà Mi: Mới có
báo cáo rằng số ca lây nhiễm HIV/AIDS từ
mẹ sang con tại Việt Nam đang ở mức báo
động. Theo ông, nguyên nhân do đâu?
Thiếu thông tin là cả một vấn đề
nan giải, và cho tới nay vẫn là
một trong những nguyên do chính
khiến HIV vẫn tồn tại và lây
truyền mạnh mẽ. Phương cách tốt
nhất để ngăn chặn căn bệnh là
mỗi người phải biết cách tự bảo
vệ mình để tránh bị lây nhiễm.
Ông Oliver
Phillips
Ông Oliver Phillips:
Thứ nhất là do tính chất sinh học của
căn bệnh, vì virus HIV/AIDS lây truyền
chủ yếu qua đường dịch cơ thể. Một
nguyên nhân tất yếu khác là do thiếu
thông tin tuyên truyền và giáo dục.
Thiếu thông tin là cả một vấn đề nan
giải, và cho tới nay vẫn là một trong
những nguyên do chính khiến HIV vẫn tồn
tại và lây truyền mạnh mẽ. Phương cách
tốt nhất để ngăn chặn căn bệnh là mỗi
người phải biết cách tự bảo vệ mình để
tránh bị lây nhiễm.
Trà Mi: Xin ông
cho biết tỷ lệ lây nhiễm HIV từ mẹ sang
con tại Mỹ ra sao?
Ông Oliver Phillips:
Rất thấp. Tôi không nhớ rõ con số chính
xác, nhưng tôi biết là rất thấp.
Trà Mi: Nói về
lời khuyên dành cho các bà mẹ mang thai,
họ nên làm gì để bảo vệ con của họ không
bị nhiễm HIV/AIDS?
Ông Oliver Phillips:
Trước hết là phải đi thử nghiệm xem bản
thân mình có bị nhiễm HIV hay không. Nếu
bạn đã bị HIV dương tính và đang mang
thai, thì cần phải theo phương pháp vừa
kể để phòng cho đứa bé khỏi bị nhiễm.
Tóm lại có 2 bước cần ghi nhớ: thứ
nhất thử nghiệm, thứ hai là điều trị khi
đã phát hiện bị nhiễm, và những việc này
cần thực hiện càng sớm càng tốt.
Trà Mi: Xin chân
thành cảm ơn thời gian ông dành cho cuộc
trao đổi này.
Thứ tư, 5/10/2005
Giải Nobel Vật lý thuộc về lĩnh vực quang học và
laser
John L Hall - một trong những nhà khoa học đạt giải
Nobel Vật lý năm nay.
3 nhà khoa học đã được trao giải Nobel Vật lý 2005
cho thành tựu về đo đạc laser và quang học lượng tử.
Một nửa giải thường dành cho John Hall tại Đại học
Colorado, Mỹ và Theodor Hänsch tại Trung tâm Max
Planck của Đức. Việc tính toán quang phổ dựa trên
laser mà họ khởi xướng cho phép đo đạc màu sắc của
ánh sáng phân tử và nguyên tử với độ chính xác rất
cao.
Một nửa phần thưởng còn lại được trao cho Roy
Glauber tại Đại học Harvard, Mỹ, vì đã ứng dụng vật
lý lượng tử hiện đại vào quang học.
Những đóng góp trong ngành vật lý của Hall and
Hänsch giúp người ta đo đạc được tần số bằng con con
số chính xác lên tới 15 chữ số. Họ đã phát triển
được một kỹ thuật dò bắt tần số quang học bằng tia
laser mà có thể sử dụng để đo đạc chính xác các màu
sắc khác nhau của ánh sáng.
Kỹ thuật này cho phép thực hiện những cuộc nghiên
cứu về độ ổn định của các hằng số tự nhiên qua thời
gian và cải tiến công nghệ GPS. Công trình của họ
cũng được ứng dụng để phát triển đồng hồ nguyên tử
cực chính xác, chỉ sai một giây trong cả tuổi đời
của vũ trụ. Và tiến sĩ Hänsch dự định sẽ sử dụng
công nghệ này để tìm hiểu phản vật chất khác với vật
chất thông thường như thế nào.
Tiến sĩ Hall, hiện là nhà khoa học cấp cao tại Viện
công nghệ và tiêu chuẩn quốc gia (Nist) ở Boulder,
Colorado và tiến sĩ Hänsch, Giám đốc Viện Quang học
lượng tử Max Planck, sẽ cùng nhau hưởng một nửa phần
thưởng trị giá 1,3 triệu USD.
Công trình của Roy Glauber bắt nguồn từ những năm
1960, khi ông nêu giả thuyết lý giải đặc tính khác
thường của ánh sáng laser xét trên mặt vật lý lượng
tử hiện đại. Hội đồng trao giải Nobel đã đánh dấu nó
như bước khởi đầu trong lĩnh vực quang học lượng tử.
Điều này cho phép ông lý giải những khác biệt cơ bản
giữa nguồn ánh sáng nóng như bóng đèn, có tần số và
pha hỗn hợp, với những tia laser có tần số và pha cụ
thể.
Giáo sư Glauber sinh năm 1925 tại New York, Mỹ và
hiện là giáo sư vật lý tại Đại học Harvard.
Các giáo sư Robert H. Grubbs và Richard R. Schrock
đến từ Mỹ, cùng Yves Chauvin đến từ Pháp đã đoạt
giải Nobel Hoá học năm nay cho việc tìm ra cách làm
giảm chất thải độc hại khi tạo ra các hoá chất mới.
Bộ ba đã phát triển ra phương pháp hoán vị trong quá
trình tạo ra các phân tử hữu cơ mới. Phương pháp này
có tiềm năng thương mại rất lớn trong ngành công
nghiệp dược phẩm, sinh kỹ học và thực phẩm. Nó cũng
được sử dụng để phát triển polyme cải tiến.
Phương pháp này cho phép các nhà khoa học thay đổi
các nhóm nguyên tử trong phân tử để tạo ra hoá chất
mới.
"Quá trình này được sử dụng hằng ngày trong ngành
công nghiệp hoá học, chủ yếu trong việc phát triển
dược phẩm và các chất dẻo tiên tiến", Hội đồng trao
giải cho biết. "Nó đại diện cho một bước tiến lớn
hướng tới 'hoá học xanh', giảm thiểu chất thải độc
hại bằng một quá trình sản xuất thông minh hơn.
Phương pháp hoán vị là một minh chứng cho tầm quan
trọng của việc ứng dụng khoa học cơ bản vì lợi ích
con người, xã hội và môi trường".
Grubbs, 63 tuổi, là giáo sư hoá học tại Viện Công
nghệ California và Schrock là giáo sư hoá học tại
Viện Công nghệ Massachusetts. Còn Chauvin, 74 tuổi,
là giám đốc nghiên cứu tại Viện Francois du Petrole
ở Ruel-Malmaison, Pháp.
3 người sẽ chia nhau giải thưởng trị giá 1,3 triệu
USD. Giải Nobel hoà bình sẽ được công bố vào ngày
7/10 và giải Kinh tế sẽ được biết vào ngày 10/10,
tại Oslo, thủ đô Nauy.
Người từng
tuyên bố khám phá ra
hành tinh thứ 10 của thái dương hệ hồi
tháng 7 vừa qua - nay lại cho biết thiên thể
đó có một vệ tinh.
Phát hiện
mới là kết quả quan sát được thực hiện với
sự trợ giúp của Đài quan sát Keck trên đỉnh
Mauna Kea, Hawaii.
Michael
Brown, từ Viện công nghệ California, Mỹ, cho
biết công trình này sẽ giúp nhóm của ông đưa
ra quyết định đúng đắn hơn về khối lượng của
hành tinh "thứ 10".
Hiện tại,
hành tinh mới được gọi là Xena, và vệ tinh
(hay mặt trăng) của nó được gọi là Gabrielle
cho đến khi những cái tên chính thức được
công bố.
Xena (còn
được gọi là 2003 UB313) có quỹ đạo hình elip
bẹt. Nó hiện ở cách chúng ta khoảng 14,5 tỷ
kilomét, xa hơn 97 lần khoảng cách giữa trái
đất và mặt trời. Quỹ đạo của nó cũng nghiêng
khoảng 45 độ so với mặt phẳng quỹ đạo chung
của các hành tinh khác.
Phát hiện
đáng kinh ngạc này đã thổi bùng lại cuộc
tranh cãi về các đặc tính mà một thiên thể
phải có để được xếp hạng là hành tinh. Lợi
thế của Xena là kích cỡ. Với đường kính
khoảng 2.800 kilomét, Xena lớn hơn cả sao
Diêm Vương (đường kính 2.390 km) - vật thể
từ lâu đã được xếp vào hàng các hành tinh.
Nhưng bản thân Diêm Vương tinh cũng không đủ
sức thuyết phục những người hoài nghi.
Nhiều nhà
khoa học tin rằng cả Xena lẫn Diêm Vương
tinh đều chỉ là những vật thể hơi lớn trong
vành đai các vật thể băng đá khổng lồ bay
quanh mặt trời, nằm ở vùng xa xôi trong thái
dương hệ có tên gọi Vành đai Kuiper. Những
người theo trường phái này cho rằng, nếu gọi
tất cả chúng là hành tinh, người ta sẽ phải
hạ bớt tiêu chí của những vật thể thực sự to
lớn nằm gần mặt trời.
Và việc có
một vệ tinh cũng không thể đẩy cuộc tranh
cãi này đi xa hơn, vì sở hữu một vệ tinh
không phải là chỉ thị cho tầm quan trọng của
hành tinh đó. Cả sao Thủy và sao Kim đều
không có anh bạn đồng hành nào, mặc dù chúng
cũng có những tảng đá nhỏ chạy vòng quanh.
Thực tế,
giáo sư Brown đã hy vọng sẽ tìm thấy một vệ
tinh bay quanh Xena vì nhiều vật thể khác
của Vành đai Kuiper được khám phá đến nay
cũng có bạn đường. Nhóm nghiên cứu sẽ tiếp
tục tìm hiểu với Kính thiên văn vũ trụ
Hubble vào tháng 11 tới.
T.
An (theo BBC)
Chiến tranh không gian' Nga - Mỹ
Thứ hai, 3/10/2005,
09:49 GMT+7
'
Gregory Olsen, vị
khách thứ ba
trả tiền để tới ISS, cho biết
ông lên trạm là để thực hiện kỳ nghỉ
làm việc, chứ không phải đi du lịch.
Tranh cãi đã
nổ ra quanh việc nước nào sẽ trả tiền để đưa
nhà du hành Mỹ William McArthur trở về trái
đất, ngay sau khi anh rời
khỏi bệ phóng hôm thứ bảy trên tàu Soyuz
của Nga để lên Trạm không gian quốc tế
(ISS).
Cơ quan vũ
trụ Nga tuyên bố họ không đảm bảo rằng sẽ
đưa McArthur trở về, trừ phi NASA trả tiền
cho họ.
Hôm 1/10,
ông A. Krasnov, một quan chức cấp cao của Cơ
quan không gian Roskosmos (Nga) tuyên bố:
"Nga đã đáp ứng xong mọi thỏa thuận về việc
đưa nhân viên của NASA lên ISS. Giờ đây,
chúng tôi không có nhiệm vụ phải đưa
McArthur trở về".
Đây được
coi là đòn đáp trả của người Nga sau một
tuyên bố mới đây của NASA. Cuối tháng trước,
NASA nói rằng họ có thể không cử chuyên gia
bay chung tàu của Nga vào không gian nếu Nga
tiếp tục hợp tác phát triển năng lượng hạt
nhân với Iran. Trong cuộc tranh cãi này, có
vẻ như người Nga đang nắm lợi thế bởi kể từ
khi tàu con thoi Columbia của Mỹ nổ tung,
hầu như chỉ có Soyuz đảm nhận nhiệm vụ đi
lại giữa ISS và trái đất.
(Theo
AP, Thanh Niên)
Phát hiện vũ khí từ xa bằng đầu dò kim loại
Thứ hai, 3/10/2005,
16:49 GMT+7
Thiết bị silic nhỏ
xíu được sử dụng trong các từ kế mới
nhỏ hơn cả một ký tự trên đồng tiền
xu.
Một nhóm nghiên cứu đã thành
công trong việc chế tạo một đầu dò kim loại
siêu nhạy, bằng cách lồng các nam châm tí
hon vào trong silic. Thiết bị này một ngày
nào đó sẽ giúp binh sĩ phát hiện ra sự di
chuyển của kẻ thù trên đường, nhận ra sự có
mặt của vũ khí hoặc con người từ cách xa tới
30 mét.
Dầu dò kim loại, còn được
gọi là các từ kế, hoạt động trên cơ sở cảm
nhận những thay đổi trong trường điện từ gây
ra bởi vật thể chứa từ tính hoặc dẫn điện
trong vùng không gian lân cận. Chúng có thể
giúp những người chơi đồ cổ tìm kiếm các
đồng xu cổ, hoặc các nhân viên an ninh tìm
kiếm vũ khí. Tuy nhiên, thiết bị tiêu chuẩn
được sử dụng cho lĩnh vực này thường chỉ
phát hiện ra kim loại trong phạm vi khoảng
30 cm.
Cũng có những máy móc nhạy
cảm hơn được dùng trên các bãi biển hoặc tại
sân bay, nhưng chúng có hạn chế. Chẳng hạn,
các thiết bị nhiễm lượng tử siêu dẫn
(SQUIDs) có thể thu nhận được những thay đổi
trong dòng điện gây ra bởi các trường điện
từ nhỏ xíu, song các thiết bị này cần được
làm lạnh tới nhiệt độ rất thấp trước khi
chúng trở thành siêu dẫn, cụ thể là cần dùng
nitơ lỏng để hoạt động.
Nhóm nghiên cứu tại Viện
công nghệ mPhase Technologies ở Little
Falls, New Jersey, Mỹ đã khám phá ra một
phương pháp hoàn toàn mới để phát hiện những
thay đổi nhỏ trong từ trường: đặt các cục
nam châm tí hon vào mạng lưới silic có diện
tích 4 milimét vuông. Khi một nam châm nhỏ
cảm nhận thấy vật thể từ tính khác ở gần đó,
nó sẽ xoay nhẹ và tác động một lực lên phần
silic đỡ mình.
Để phát hiện những lực
này, các nhà nghiên cứu tìm hiểu xem tần số
dội âm của tinh thể silic đã thay đổi bao
nhiêu. Tín hiệu sau đó được xử lý bởi một
hộp điện tử có kích cỡ bằng bao thuốc lá. Từ
đó, người ta sẽ kết luận xem có mặt kim loại
trong vùng nghi ngờ hay không. Điều đáng nói
là thiết bị có thể hoạt động ở nhiệt độ
thường, không cần đến nitơ lỏng như các sản
phẩm truyền thống.
Hiện tại, thiết bị có thể
nhận ra một cái cờ lê của thợ hàn ở cách xa
5 mét. Mục tiêu cuối cùng của nhóm nghiên
cứu là thu nhỏ thiết bị xuống ở mức con
chíp, và khiến nó nhạy cảm với vật thể có
kích cỡ khẩu súng trường ở cách xa 30 mét.
T. An
(theo Nature)
Phát hiện hoa toả sáng huỳnh quang
Thứ ba, 4/10/2005,
10:35 GMT+7
Trong khi đang tìm hiểu sắc
tố tạo nên màu hoa, các nhà khoa học đã tình
cờ bắt gặp một hợp chất tự nhiên tạo ra hiện
tượng huỳnh quang xanh lục mờ ảo trên các
cánh của loài hoa Mirabilis jalapa, hay hoa
bốn giờ.
Kiểu phát sáng này có thể
được nhận ra trong mắt ong, dơi và các loài
thụ phấn ban đêm khác với đôi mắt đặc biệt
nhạy cảm với ánh sáng xanh lục. Đây là
trường hợp đầu tiên khoa học biết đến một
loài thực vật có thể sử dụng hiện tượng
huỳnh quang để thu hút những kẻ thụ phấn.
"Huỳng quang có thể là một
tín hiệu quan trọng trong việc chọn bạn tình
của loài chim vẹt đuôi dài Australia và loài
tôm bọ ngựa, và có thể trên các loài hoa thu
hút động vật thụ phấn", Fernando
Gandía-Herrero và cộng sự tại Đại học Murcia
ở Tây Ban Nha, cho biết.
Gandía-Herrero và cộng sự
đã chiết tách các sắc tố màu từ cánh của
loài hoa Mirabilis
jalapa, và nhận thấy khi một sắc tố -
có tên gọi betaxanthin - được kích hoạt bởi
ánh sáng xanh dương trong nắng mặt trời, nó
sẽ phát ra ánh sáng huỳnh quang màu xanh
lục, góp phần tạo nên màu vàng cho một số
cánh của bông hoa.
Tuy nhiên, trên các cánh
hoa còn lại, huỳnh quang xanh lục bị một sắc
tố khác - sắc tố màu tím betacyanin - hấp
thu triệt để trước khi nó có thể giải phóng
ra ngoài. Kết quả là chúng tạo ra một hệ
thống lọc sáng tự thân, có tác dụng kiểm
soát cường độ và vị trí của huỳnh quang xanh
lục thoát ra khỏi cánh hoa, và từ đó kiểm
soát mức độ ánh sáng xanh lục mà các con vật
thụ phấn có thể nhìn thấy.
"Hiệu ứng lọc sáng tự thân
giữa hai loại sắc tố gây ra hiện tượng giảm
huỳnh quang nhìn thấy trên các phần của bông
hoa, nơi cả hai loại sắc tố cùng có mặt",
nhóm nghiên cứu thông báo. Những cánh hoa
chỉ chứa betaxanthin sẽ có màu vàng dưới ánh
sáng trắng ban ngày, vì sự kết hợp giữa
huỳnh quang xanh lục và ánh sáng trắng phản
xạ.
Không may cho những người
yêu hoa, bản thân ánh sáng huỳnh quang xanh
lục chỉ có thể được nhìn thấy với những
thiết bị đặc biệt được thiết kế cho phép
nhìn thấy loại ánh sáng này.
Điều tiếp theo các nhà
nghiên cứu cần làm sáng tỏ là hiện tượng
huỳnh quang có thực sự khiến bông hoa trở
nên sáng hơn hay hấp dẫn hơn trước các động
vật thụ phấn hay không. Sau nữa, họ phải tìm
hiểu liệu hình thức phát quang trên hoa 4
giờ có xuất hiện từ tổ tiên xa xưa của
chúng. Điều đó sẽ làm sáng tỏ lợi thế tiến
hoá của hình thái này.
T. An
(theo Discovery)
Con nhện 20 triệu tuổi
Thứ hai, 3/10/2005,
10:25 GMT+7
Con nhện bị mắc
kẹt trong nhựa cây và chết.
Một nhà khoa học đã phát
hiện và nhận diện ra một con nhện bị mắc kẹt
trong hổ phách 20 triệu năm trước.
Nhà cổ sinh vật học David
Penney tại Đại học Manchester, Anh, đã tìm
thấy một hoá thạch dài 4 cm rộng 2 cm trong
một lần đến thăm bảo tàng ở Cộng hoà
Dominica.
Từ đó, ông đã sử dụng các
giọt máu trong hổ phách để tìm ra tuổi của
mẫu vật. Đây là lần đầu tiên máu nhện được
tìm thấy trong hổ phách và các nhà khoa học
hy vọng sẽ tìm ra ADN của nó.
Tiến sĩ Penney cho biết,
ông đã sử dụng các giọt máu để tìm ra khi
nào, tại đâu và vì sao con nhện chết.
Đó là một loài mới thuộc
dòng họ Filistatidae thường được tìm thấy ở
Nam Phi và Caribbe. Penney tin rằng nó đã
trèo lên một thân cây 20 triệu năm trước và
bị một giọt nhựa rơi trúng đầu, khiến nó bị
ngập trong nhựa và chết.
"Thật ngạc nhiên khi thấy
rằng một mẩu hổ phách với một con nhện có
thể mở ra thông tin về những gì diễn ra 20
triệu năm trước. Bằng cách phân tích vị trí
của cơ thể con nhện trong mối tương quan với
giọt máu trong hổ phách chúng tôi có thể xác
định con vật chết như thế nào, hướng di
chuyển của nó và thậm chí cả tốc độ di
chuyển".
M.T.
(theo BBC)
Phát hiện tượng nữ thần Hy Lạp
Thứ bảy, 1/10/2005,
11:29 GMT+7
Nữ thần Hera với
thần Zeus.
Hai bức
tượng cẩm thạch có kích cỡ người thực của 2
nữ thần Hy Lạp mới lộ diện trong cuộc khai
quật một thị trấn 5.000 tuổi trên hòn đảo
Crete.
Hai tác
phẩm thể hiện nữ thần Athena và Hera có vào
khoảng thế kỷ 2 và 4 - giai đoạn La Mã cai
trị Hy Lạp, và ban đầu dùng để trang trí nhà
hát La Mã ở thị trấn Gortyn.
Nhà khảo
cổ Anna Micheli tại Trường khảo cổ Italy cho
biết: "Hai tác phẩm vẫn còn trong tình trạng
nguyên vẹn. Bức Athena, nữ thần trí tuệ, còn
đầy đủ. Nhưng tượng Hera, người vợ đau khổ
của thần Zeus (vị thần nổi tiếng lăng nhăng)
thì bị mất đầu. Nhưng chúng tôi hy vọng sẽ
tìm ra chiếc đầu ở khu vực xung quanh".
Nằm cao
gần 2 m trên bệ, 2 tác phẩm được phát hiện
hôm 27/9 khi một nhóm khảo cổ Italy và Hy
Lạp đang khai quật nhà hát đổ nát của
Gortyn.
Micheli
cho biết các nữ thần bị đổ kềnh bên bệ tượng
là do một trận động đất mạnh vào khoảng năm
367 sau Công nguyên. Trận động đất đó đã tàn
phá nhà hát và phần lớn thị trấn. "Đây là
trường hợp hiếm hoi những tác phẩm như vậy
được phát hiện ngay tại nơi nó đứng ban
đầu", Micheli nói.
Các nhà
khảo cổ hy vọng sẽ tìm thấy nhiều bức tượng
khác của nhà hát trong cuộc khai quật.
Gortyn,
thủ đô La Mã của hòn đảo Crete, được hình
thành đầu tiên vào năm 3.000 trước Công
nguyên và là một thị trấn Minoan hưng thịnh
vào khoảng năm 1.600-1.100 trước Công
nguyên. Nó phát triển vào thời kỳ La Mã cổ
điển và bị người Ả rập phá huỷ vào năm 824
sau Công nguyên.
Truyền
thuyết Hy Lạp kể lại rằng thị trấn đã chứng
kiến một trong những cuộc ngoại tình của
thần Zeus - với công chúa Europa. Thần Zeus
đã cải trang thành con bò đực và bắt cóc
công chúa đi từ Lebanon. Châu Âu (Europe)
được lấy tên từ Europa, người đã sinh đứa
con trai đầu tiên với thần Zeus dưới một gốc
cây tiêu huyền ở Gortyn.
M.T.
(theo AP)
Khách du lịch vũ trụ thứ ba khởi
hành hôm nay
Thứ bảy, 1/10/2005, 09:47 GMT+7
Trên trạm quốc tế,
ông Olsen sẽ tập trung vào các thí
nghiệm phục vụ công nghệ của công ty
ông.
10h55' sáng nay, nhà khoa
học và thương gia Mỹ
Gregory Olsen sẽ cất cánh trên tên lửa
Soyuz của Nga để du hành tới Trạm không gian
quốc tế, trong chuyến bay 10 ngày trị giá 20
triệu đôla.
Trước ông, mới chỉ có hai
cư dân trái đất có vinh dự trở thành khách
tham quan tổ hợp vũ trụ này: triệu phú người
Mỹ Dennis Tito vào năm 2001 và anh thanh
niên Nam Phi Mark Shuttleworth vào năm 2002.
gsg
Tên lửa Soyuz được
đưa tới bệ phóng.
"Tôi sẽ thư giãn và thoái
mái nhất sau khi tên lửa cất cánh", tiến sĩ
Olsen phát biểu tại sân bay Baikonur của
Kazakhstan trước giờ lên đường. "Ngày nay,
tất cả mọi người đều có thể bay hàng tuần.
Điều đó cũng sẽ đúng với các chuyến bay vũ
trụ - sẽ còn có nhiều du khách khác tiếp sau
tôi", ông nói.
Cùng đi với ông trên Soyuz
còn có chỉ huy trưởng William McArthur từ Mỹ
và kỹ sư bay người Nga Valery Tokarev.
Tokarev và McArthur sẽ
thay thế cho phi hành đoàn hiện đang sống
trên trạm quốc tế là Sergei Krikalev và John
Phillips - bộ đôi có mặt trên quỹ đạo từ
tháng 4. Ngày 11/10, Olsen sẽ lên đường trở
về trái đất cùng với Krikalev và Phillips.
Ông Gregory Olsen, 60
tuổi, từng có kinh nghiệm làm việc lâu dài
trong lĩnh vực khoa học và là giám đốc công
ty nghiên cứu Sensors Unlimited có trụ sở
tại Princeton.
Tàu vận tải Soyuz và
Progress của Nga đã trở thành phương tiện
duy nhất chuyên chở người và hàng hoá lên
trạm vũ trụ, kể từ sau thảm họa Columbia năm
2003 khiến các tàu con thoi của Mỹ phải ở
lại mặt đất. Tháng 7 vừa qua, tàu con thoi
Discovery đã tới thăm trạm, nhưng trục trặc
ở bộ phận xốp cách nhiệt trên bồn nhiên liệu
ngoài đã khiến cho loạt tàu này một lần nữa
bị nghi ngờ về tính an toàn.
T. An
(theo BBC,
Nga chấp thuận khách du lịch vũ trụ
thứ 3
Thứ bảy, 9/7/2005, 09:14 GMT+7
Gregory Olsen.
Cơ quan Vũ
trụ Nga thông báo đã ký một thoả thuận cho
phép thương gia người Mỹ Gregory Olsen trở
thành vị khách tiếp theo tham quan Trạm
Không gian Quốc tế (ISS).
Chuyến bay
sẽ diễn ra vào tháng 10 năm nay, trên một
tàu không gian Soyuz, Vyacheslav Davidenko,
phát ngôn viên của cơ quan này cho biết.
Olsen vẫn
sẽ trả 20 triệu đôla cho 1 tuần trên ISS.
Người đàn ông 59 tuổi này đã bắt đầu khoá
huấn luyện tại trung tâm vũ trụ Star City
của Nga, ở ngoại ô Matxcơva.
Ông sẽ trở
thành hành khách thứ ba bay vào vũ trụ sau
chuyến bay của triệu phú Mỹ Dennis Tito vào
năm 2001 và anh thanh niên Nam Phi Mark
Shuttleworth năm 2002.
Olsen từng
có kinh nghiệm làm việc lâu dài trong lĩnh
vực khoa học và là giám đốc công ty nghiên
cứu Sensors Unlimited có trụ sở tại
Princeton.
Các vị
khách trước kia của ISS cũng hỗ trợ phi hành
đoàn trong việc thực hiện những thí nghiệm
khoa học trên trạm. Du lịch vũ trụ được xem
là một ngành kiếm tiền quan trọng cho ISS -
dự án hợp tác giữa Mỹ, Canada, Nhật Bản, Nga
và 11 quốc gia thuộc Cơ quan Vũ trụ châu Âu.
T.
An (theo Discovery)
Du khách thứ 3 chuẩn bị lên
quỹ đạo
Thứ ba, 30/3/2004,
15:56 GMT+7
Gregory Olsen.
Gregory
Olsen, nhà khoa học Mỹ từng giàu lên nhờ các
phát minh về quang học, sẽ trở thành cư dân
thứ 3 ngắm trái đất từ trạm vũ trụ bằng tiền
túi. Không bằng lòng với việc ngồi chơi xơi
nước, Olsen dự kiến sẽ thực hiện vài nghiên
cứu trong chuyến bay 20 triệu đôla lên ISS.
Olsen, 58
tuổi, người sáng lập công ty Sensors
Unlimited, Inc. ở Princeton, bang New
Jersey, đã thuê công ty Space Adventure để
thực hiện một chuyến bay tương tự của nhà
triệu phú Dennis Tito vào năm 2001.
Nhà doanh
nghiệp cho biết ông dự định mang theo các
thiết bị cảm biến hồng ngoại (có thể đo
nhiệt) để phân tích mức độ ô nhiễm trong bầu
khí quyển và sức khỏe của hệ nông nghiệp
trên mặt đất. Ông hy vọng tình trạng không
trọng lượng trong vũ trụ sẽ giúp ông nuôi
cấy được các tinh thể đặc biệt tốt hơn, sử
dụng trong các thiết bị cảm biến hồng ngoại
và các ứng dụng công nghệ cao khác. Ông cũng
dự kiến sẽ công bố các phát hiện của mình
trên những tạp chí khoa học.
Olsen
khẳng định không hề lo lắng về sự an toàn
của mình, mặc dù những ký ức về thảm họa tàu
Columbia năm 2003 vẫn còn mới nguyên.
Tuần này,
ông đã đến thành phố Ngôi sao, ngoại ô
Matxcơva, bắt đầu 6 tháng huấn luyện cho
chuyến bay trên tàu Soyuz tới Trạm Quốc tế.
Hành trình 8 ngày của ông dự kiến được thực
hiện tháng 4/2005, tuy nhiên vẫn còn một cơ
hội để ông có thể bay vào tháng 10 tới.
B.H.
(theo AP)
NASA thừa nhận dự án tàu con thoi là sai lầm
Thứ bảy, 1/10/2005,
09:26 GMT+7
Giám
đốc Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA)
Micheal Griffin thừa nhận gần như toàn bộ
các chương trình vũ trụ có người lái trong
ba thập kỷ qua của Mỹ là sai lầm.
Ông Griffin cho biết, NASA
đã mất phương hướng từ những năm 1970, khi
dừng các chuyến bay lên mặt trăng của tàu
Apollo để chế tạo tàu con thoi và trạm vũ
trụ (chỉ hoạt động như vệ tinh trên quỹ đạo
Trái đất).
"Giờ đây nó đã được chấp
nhận rộng rãi rằng đó không phải là con
đường đúng. Chúng tôi đang thay đổi con
đường này trong khi cố gắng gây ra ít thiệt
hại nhất có thể", Griffin nói.
Tàu con thoi đã cướp đi
sinh mạng của 14 nhà du hành kể từ chuyến
bay đầu tiên năm 1982. Roger Pielke Jr., một
chuyên gia chính sách vũ trụ tại Đại học
Colorado ước tính NASA đã tiêu tốn khoảng
150 tỷ USD cho chương trình này kể từ khi
bắt đầu năm 1971. Tổng chi phí cho trạm vũ
trụ cho tới khi nó kết thúc sứ mệnh - vào
năm 2010 hoặc muộn hơn - có thể vượt quá 100
tỷ USD, mặc dù một số quốc gia khác sẽ cùng
chia sẻ gánh nặng này.
Cũng theo Griffin, tới nay
Mỹ mới khôi phục lại chương trình vũ trụ
quốc gia. Tuần trước ông tuyên bố, NASA dự
định đưa các nhà du hành trở lại Mặt trăng
vào năm 2018 trong một phi thuyền có hình
dáng giống với tàu Apollo.
Mục tiêu quay trở lại Mặt
trăng của người Mỹ đã được Tổng thống Bush
vạch kế hoạch từ năm 2004, trước khi ông
Griffin nhận chức giám đốc điều hành NASA.
Theo ông Bush, tàu con thoi sẽ bị ngừng sử
dụng vào năm 2010.
Trong những tuyên bố trước
đây, Griffin từng tuyên bố thẳng thừng rằng
ông coi tàu con thoi và trạm vũ trụ quốc tế
là bước đi lạc lối. Đầu năm nay, ông trình
bày trước Thượng Viện Mỹ rằng tàu con thoi
là “sai lầm nghiêm trọng” và trạm vũ trụ
quốc tế không xứng đáng với những chi phí,
rủi ro và khó khăn phải bỏ ra khi đưa người
lên vũ trụ.
Ông Joe Rothenberg, phụ
trách chương trình vũ trụ có người lái của
NASA từ năm 1995 tới 2001, lại bảo vệ chương
trình vũ trụ là những bài học để hiểu biết
cách thức vận hành trong vũ trụ, nhưng ông
cho rằng nên thực hiện bằng phương thức
khác.