Theo Bộ Tài nguyên - Môi trường, nước ta có trữ
lượng khoảng 7 tỷ tấn quặng bô-xít, tương đương với
3,2 tỷ tấn quặng tinh, là một trong những quốc gia có
trữ lượng bô-xít hàng đầu thế giới. Quặng bô-xít tập
trung chủ yếu ở Tây Nguyên, trong đó riêng tỉnh Đắc
Nông đã chiếm hơn 60% trữ lượng.
Việc khai thác, chế biến nguồn tài nguyên này là hy
vọng giúp tỉnh Đắc Nông thoát khỏi cảnh nghèo, trở
thành một tỉnh công nghiệp. Với Tập đoàn than khoáng
sản Việt Nam, đó là bước chuyển sinh tử trong sản xuất
kinh doanh, khi trữ lượng than dần cạn kiệt.
Tuy vậy, những hậu quả khi khai thác bô-xít dường
như chưa được cả doanh nghiệp và các nhà quản lý quan
tâm đúng mức. Trong khi đó, giới khoa học lại có đủ lý
do để cảnh báo về một sự huỷ hoại môi trường không thể
cứu vãn. Không những thế, những luận chứng về hiệu quả
kinh tế của đại dự án bô-xít trên Tây Nguyên cũng gây
ra không ít nghi ngờ.
Tiềm năng và tham vọng
Nhôm (aluminum) là kim loại nhẹ, ngày càng chiếm vị
trí quan trọng trong thế giới hiện đại. Nhôm hiện diện
trong đời sống hàng ngày, từ đơn giản như giấy gói
bánh kẹo, đến các vi mạch điện tử, hay chế tạo máy
bay… Nhu cầu nhôm của thế giới những năm gần đây không
ngừng tăng lên, khoảng 90 triệu tấn/năm, gấp 3 lần so
với 10 năm trước. Nguồn nhôm nguyên được tổng hợp từ
việc khai thác, chế biến quặng bô-xít trong tự nhiên.
Bô-xít ở Đắc Nông chiếm hơn 60% trữ lượng bô xít
của cả nước, có hàm lượng tinh quặng tới 50%, mỏ lộ
thiên trên các quả đồi, do vậy việc khai thác khá
thuận lợi.
5 năm qua, Chính phủ đã cho phép Tập đoàn than
khoáng sản Việt Nam (TKV) tiến hành thăm dò, đầu tư
khai thác, chế biến quặng bô-xít ở Tây Nguyên. Theo
quy hoạch, đến năm 2025, tại khu vực Tây Nguyên và Nam
Trung bộ sẽ có 6 tổ hợp khai thác bô-xít, luyện
alumin, 2 nhà máy điện phân nhôm, cùng hệ thống đường
sắt Đắc Nông – Bình Thuận và cảng biển phục vụ xuất
khẩu alumin, với tổng vốn đầu tư khoảng 200 nghìn tỷ
đồng. Đến lúc đó, Việt Nam sẽ trở thành cường quốc
nhôm, với sản lượng alumin hàng năm chiếm khoảng 1/5
của thế giới.
Hiện tại, TKV đang đầu tư xây dựng 2 tổ hợp bô-xít
– alumin tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông),
dự kiến hoàn thành trong 2 năm tới, với tổng sản lượng
1,2 triệu tấn alumin/năm. Ngay sau đó, một loạt các
nhà máy sẽ được xây dựng, đồng thời với việc xây dựng
tuyến đường sắt. Riêng tại tỉnh Đắc Nông, sẽ có 4 tổ
hợp bô-xít – alumin, hàng năm sẽ đóng góp vào ngân
sách Nhà nước 1.500 tỷ đồng. Các dự án này còn tạo
việc làm cho hàng chục ngàn lao động địa phương, phát
triển các ngành công nghiệp và dịch vụ phục vụ khai
khoáng, thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, hứa hẹn đem
lại diện mạo mới cho toàn vùng.
Cảnh báo quyết liệt của giới khoa học
Tuy vậy, kế hoạch khai thác bô-xít của TKV đã vấp
phải sự phản đối quyết liệt của các nhà khoa học. Lý
do là, TKV đã chưa tính toán hết những tác động tiêu
cực của việc khai thác bô-xít đến môi trường, văn hoá,
xã hội; chưa có lộ trình cụ thể về kinh tế, kỹ thuật,
công nghệ…
Về bài toán kinh tế bô-xít của TKV, Tiến sỹ Trần
Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam, cho
rằng, đó là cách làm của “nhà nghèo”: vẫn chỉ dựa vào
việc khai thác bán tài nguyên, mà chưa nghĩ ra cách sử
dụng như thế nào để thúc đẩy các ngành sản xuất khác,
xuất khẩu thêm nhiều sản phẩm. Mặt khác, trở thành
"đại gia" nhôm, chúng ta sẽ phải chấp nhận “trò chơi
kinh tế” về cung - cầu, giá cả, như đã từng diễn ra
với cà phê, thép, hồ tiêu; và nhôm Việt Nam sẽ ra sao
khi thị trường thế giới thay đổi?
Còn Tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Công ty năng
lượng Sông Hồng, phản đối quyết liệt đại dự án bô-xít,
gọi đây là cách làm "chẳng giống ai": Có quá nhiều
tham vọng khi muốn đưa Việt Nam từ một nền kinh tế kém
phát triển trở thành một cường quốc nhôm của thế giới,
trong khi còn nhiều lĩnh vực khác cần ưu tiên đầu tư.
Việc thực hiện Dự án quá nhiều rủi ro vì chưa có đánh
giá chính xác về tài nguyên; còn kỹ thuật, công nghệ,
thị trường thì hoàn toàn phụ thuộc nước ngoài. “Thứ
nhất là chiếm dụng đất rất lớn nhưng hiệu quả tạo ra
việc làm thì rất thấp, bình quân mất 2,5ha mới tạo ra
được 1 chỗ làm việc. Nguy cơ thứ hai là bùn đỏ, chất
độc hại không bao giờ phân huỷ, trong khi chúng ta lại
chôn giữ ở đây, trên độ dốc khoảng 25%, thiệt hại vỡ
đập không thể kiểm soát được. Thứ ba là làm mất nguồn
nước hiện đang còn thiếu cho phát triển cây công
nghiệp: riêng dự án Nhân Cơ tốn gần 15 triệu m3/năm,
dự án Tân Rai là 18 triệu m3/năm, mà cả hai
dự án không hề thấy có bảng cân đối nước, bao nhiêu
nước dùng vào đây thì không hiểu cà phê với chè sẽ ra
sao? Và thứ tư là nguy cơ làm thay đổi môi trường sinh
thái, khâu khai thác lộ thiên này là một trong những
công nghệ tàn phá môi trường mạnh nhất, đặc biệt là
thảm động thực vật và gây xói mòn”- Tiến sỹ Nguyễn
Thành Sơn phân tích.
|
Khai thác lộ thiên sẽ tàn phá
thảm động thực vật và gây xói mòn |
Tiến sỹ Hà Huy Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu môi
trường phát triển bền vững, không tin rằng dự án khai
thác bô-xít có thể hoàn thổ, trả lại màu xanh cho Tây
Nguyên như trước được. Và như vậy, sẽ không thể làm
nông –lâm nghiệp trên những vùng đất đã khai thác
bô-xít. “Chúng ta phải nhìn vào thực tiễn đã có như
vậy mà cân nhắc thận trọng, tỷ mỷ hơn để dự án có thể
bền vững: đó là phát triển đáp ứng được nhu cầu phát
triển của ngày hôm nay, nhưng phải làm sao cho thế hệ
mai sau có cái để sống. Nếu đào cả tỉnh Đắc Nông lên,
thì 50 năm nữa, tỉnh còn cái gì để phát triển; hay là
thế hệ mai sau chỉ còn gặp được một vùng Quảng Ninh
đen mù bụi than, và một Đắc Nông màu đỏ không phân
huỷ?”- Ông Thành dẫn chứng từ thực tế hơn 100 năm khai
thác vùng mỏ than Quảng Ninh.
Nghi ngờ bài toán kinh tế của TKV, lo ngại trước
những hậu quả môi trường không thể kiểm soát khi khai
thác bô-xít, các nhà khoa học đề nghị tạm dừng dự án
này, thay bằng việc phát triển "Tây Nguyên xanh":
trồng rừng, trồng cây công nghiệp.
Và cái lý của người bản địa
Liệu đây có phải là giải pháp tối ưu cho vùng đất
mỏ bô-xít? Chúng ta cùng tìm hiểu thực tế ở tỉnh Đắc
Nông.
Ông Nguyễn Văn Minh được coi là một nông dân sản
xuất giỏi ở xã Kiến Thành, huyện Đắc R'Lấp, tỉnh Đắc
Nông. Ông cho biết, khu vực này là vùng đất quặng, nên
phải khéo chăm sóc cây trồng mới có thu. Với diện tích
gần 5 héc-ta, ông trồng cà phê dưới chân đồi, tiếp đó
là cao su, rồi trồng điều trên vùng đồi cao. Cố gắng
lắm, cà phê mới cho năng suất 2 tấn rưỡi 1ha, còn 1
sào điều thì mỗi năm thu được khoảng chục triệu đồng.
“Trồng 15 năm rồi đó, mà vì đất sỏi quá nên cây
điều nó không tốt lên được. Cà phê thì nước tưới không
đủ, năng suất kém!” – Ông Minh ngao ngán chỉ ra vườn
nhà.
Đó cũng là tình trạng chung ở xã Nhân Cơ, huyện Đắc
R'Lấp. Ông Lâm Trí Hy, Chủ tịch UBND xã, cho biết,
phần lớn kinh tế địa phương phụ thuộc vào nông nghiệp.
Xã có hơn 3 nghìn héc-ta cà phê, năng suất trung bình
chỉ đạt 1tấn rưỡi 1 héc-ta, không bằng một nửa năng
suất cà phê ở tỉnh Đắc Lắc. Đất đai không được ưu đãi,
mà đời sống của nông dân thì thăng trầm theo sự thay
đổi của thời tiết và giá cả nông sản: “Khu vực nào
quặng ít, thì đầu tư trồng cây công nghiệp, hoặc một
số cây ngắn ngày, thì cũng có thu, mặc dù không được
tốt như ở Đắc Min hay các huyện khác. Chỗ nào mà quặng
nhiều, nổi trên mặt đất thì mình trồng cây gì lên, sau
đó nó cũng bị chết. Sản xuất nông nghiệp phập phồng là
do thời tiết, khí hậu thay đổi nên năm được năm mất,
và giá cả thị trường thì rủi ro nhiều, cứ hạ giá 3-4
năm, lên giá được 1 năm lại hạ giá; nên điều kiện phát
triển nông nghiệp ở địa phương gặp nhiều khó khăn”.
Theo ông Trần Phương, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắc
Nông, với 2/3 diện tích tự nhiên của tỉnh có chứa
quặng bô-xít, việc phát triển nông nghiệp không phải
là lợi thế của vùng đất này. Đắc Nông có 2 tiềm năng
lớn: nguồn thuỷ điện khoảng 1.700MW đã và đang được
xây dựng; còn bô-xít nếu không khai thác, thì Đắc Nông
cũng giống như người ngồi trên đống vàng mà vẫn đói.
“Lợi thế nông nghiệp của Đắc Nông không phải tốt như
Bình Phước, như Đắc Lắc, bởi vì các vùng mỏ khô cằn.
Nếu bây giờ không khai thác được tiềm năng bô-xít này,
và chỉ nhìn vào các loại cây nông nghiệp thì buồn lắm,
Đắc Nông của 10 năm sau cũng giống như của hôm nay, vì
không phát triển được. Nên việc khai thác bô-xít là
nguyện vọng tha thiết của cả Đảng bộ và nhân dân Đắc
Nông, nếu chúng ta biết khai thác hợp lý, sử dụng tốt,
thì sẽ phát triển nhanh hơn, có thể theo kịp các tỉnh
lân cận” - Ông Trần Phương bày tỏ.
Cho đến nay, cuộc tranh luận giữa doanh nghiệp,
chính quyền, người dân địa phương và các nhà khoa học
về “lợi” và “hại” của đại dự án bô-xít Tây Nguyên vẫn
chưa có đáp số thống nhất. Đó là chưa kể đến những tác
động xấu từ việc khai thác bô-xít đến đời sống xã hội,
văn hoá…của không chỉ Đắc Nông mà cả khu vực Tây
Nguyên./.