Bệnh sán lá gan và cách ngừa bệnh
Tìm hiểu dịch bệnh Rubella
Đôi điều về vi trùng gây ra viêm dạ dày
Chứng đau nhức khớp xương ở người lớn tuổi
Các căn bệnh thường gặp ở người lớn tuổi
Tìm hiểu hội chứng xơ hoá cơ Delta
Ngày Thế giới Không thuốc lá
Chủng ngừa vaccine cho trẻ em
Các triệu chứng, cách trị và phòng viêm dạ dày
Quản lý dược phẩm lỏng lẻo khiến một em bé thiệt mạng
Đôi điều về vi trùng gây ra viêm dạ dày
Đôi điều cần biết về tiêu chảy
Cách phòng và Trị viêm Tiểu phế quản cấp
Vitamin D giúp ngăn ngừa nguy cơ ung thư vú
Giới trẻ Việt Nam chưa hiểu biết nhiều về căn bệnh HIV/AIDS
Viêm tiểu phế quản cấp và Hậu quả của cắt túi mật
Hậu quả của cắt Amiđan và trị bệnh viêm phế quản cấp
Người dân Việt Nam không quan tâm đến những tác hại của thuốc lá
Chứng Ù Tai và Viêm Phế Quản Cấp
Ai cần chích ngừa Viêm Phổi và cách trị Viêm Họng và Viêm Amiđan Cấp
Các Nguyên Nhân và Triệu Chứng của Viêm Họng và Viêm Amiđan Cấp
Bệnh sán lá gan và cách ngừa bệnh
2006.07.14
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Tại nhiều địa phương ở khu vực miền Trung đang báo động về căn bệnh sán
lá gan. Tin tức trong nước cho hay từ đầu năm đến nay Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn Trùng Quy Nhơn đã tiếp nhận hàng ngàn ca bị nhiễm bệnh này. Do
số bệnh nhân quá đông mà Viện không đủ thuốc đặc hiệu để điều trị, cho nên
nhiều người đã phải cấp cứu vì biến chứng.
Chương trình Sức khoẻ và đời sống tuần này, mời quý vị cùng tìm hiểu về
bệnh sán lá gan qua cuộc trao đổi với bác sĩ Tùng, chuyên khoa gan, từ Đà
Nẵng:
Trà Mi: Xin hỏi thăm bác sĩ căn bệnh sán lá gan là
gì, và nó có những biểu hiệnh như thế nào?
Bác sĩ Tùng: Bệnh này do một loại ký sinh trùng gây ra,
nó ký sinh trong các loại cá sống ở nước lợ, hoặc trong các loại rau mọc ở
dứơi nước như xà lách xoong. Khi người dân ăn vô, ký sinh trùng này sẽ đi
vào bao tử, xuống ruột, vượt qua thành ruột đi vào trong gan.
Tại đây nó sẽ phát triển trong những tế bào gan. Trong vòng 3 tháng, nó
sẽ tạo nên triệu chứng. Triệu chứng đầu tiên người bệnh sẽ có cảm giác sốt
run lạnh.
Thứ hai là đau vùng gan tức vùng hông phải, khiến bệnh nhân phải nhập
viện.
Trà Mi: Bệnh sán lá gan hiện giờ đang báo động ở
Việt Nam. Nguyên nhân vì sao thưa bác sĩ?
Bác sĩ Tùng: Ở Việt Nam có một số vùng bị bệnh này nhiều
ví dụ như Quãng Nam-Đà Nẵng, Nha Trang, Quãng Ngãi, Lâm Đồng. Gần đây phát
hiện nhiều ở Bình Thuận. Còn ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam thì ít có bệnh
lý sán lá gan.
Bệnh này do một loại ký sinh trùng gây ra, nó ký sinh trong các loại cá
sống ở nước lợ, hoặc trong các loại rau mọc ở dưới nước như xà lách
xoong. Khi người dân ăn vô, ký sinh trùng này sẽ đi vào bao tử, xuống
ruột, vượt qua thành ruột đi vào trong gan.
Bác sĩ Tùng
Bệnh này chủ yếu do ăn phải những loại rau sống dưới nước (có thể do ấu
trùng thải ra trong phân hoặc do người ta dùng phân tứơi rau), hay ăn cá
sống, gỏi cá…Ở Việt Nam mình phần đông bị bệnh này do ăn rau, chứ do ăn cá
thì ít. Ở Nhật và Thái Lan thì nhiều người bị bệnh sán lá gan nhỏ do ăn cá
sống, còn ở nước mình thì thường gặp bệnh sán lá gan lớn.
Trà Mi: Bệnh này có những biến chứng hay hậu quả như
thế nào?
Bác sĩ Tùng: Thường bệnh nhân phải đi bệnh viện vì có
triệu chứng sốt và đau vùng gan thành ra trường hợp bệnh nhân không biết mà
để đến biến chứng thì ít gặp. Còn những bệnh nhân vì khó khăn hoặc ở xa bệnh
viện không có điều kiện chẩn đoán thì có thể là bệnh này sẽ âm thầm tạo
thành những ổ áp-se rất nhỏ ở trong gan.
Nhiều ổ áp-se nhỏ tạo thành những ổ áp-se lớn phá tổ chức gan, dần dần
đưa đến tình trạng bị xơ gan ở vùng bị tổn thương đó. Nếu áp-se gan lớn quá
vỡ trong bụng thì có thể gây tử vong cho bệnh nhân vì viêm phúc mạc. Nếu
bệnh nhân có sức đề kháng lớn hơn thì có khả năng bệnh sẽ diễn biến âm thầm
và đưa đến xơ gan.
Trà Mi: Xin hỏi bác sĩ hiện nay ở Việt Nam phương
pháp điều trị bệnh sán lá gan ra sao?
Bác sĩ Tùng: Ở Việt Nam mình chưa có thuốc đặc trị cho
sán lá gan, cho nên 2 năm trước phải dùng loại thuốc điều trị bằng ký sinh
trùng amít. Thời gian trong 10 ngày. Tuy nhiên do biến chứng của loại thuốc
này nhiều quá, nhất là các biến chứng về tim mạch, nên Bộ y tế Việt Nam đã
cấm không cho dùng thuốc này.
Cho đến nay thuốc đặc trị cho bệnh này vẫn chưa có tại Việt Nam mà chỉ có
1 công trình nghiên cứu đang thực hiện ở Quy Nhơn do quốc tế tài trợ để thử
nghiệm 1 loại thuốc điều trị sán lá gan hiệu quả. Đó là triclabendazol. Còn
những nơi chưa mua được thuốc này thì phải dùng các loại thuốc điều trị sán
thường để điều trị sán lá gan, cho nên thời gian điều trị rất lâu và kéo dài
tới 28 ngày.
Nếu có thuốc triclabendazol thì chỉ uống 4 viên 1 lần một thôi là xong
quy trình điều trị, sau đó phải theo dõi tới 3 tháng mới có thể xác định là
khỏi bệnh hay chưa. Mỗi tháng theo dõi 1 lần bằng siêu âm và xét nghiệm máu.
Thường bệnh nhân sau khi uống thuốc này sẽ thấy biểu hiện là không còn
đau ở vùng gan cũng như không còn sốt nữa. Nếu siêu âm sẽ nhận thấy các ổ
áp-se càng ngày càng nhỏ trở lại và xét nghiệm máu cũng cho thấy loại bạch
cầu ưa acid cũng càng ngày càng thấp. Hiện nay có rất nhiều bệnh viện tiếp
nhận bệnh sán lá gan.
Trà Mi: Chi phí điều trị ra sao?
Bác sĩ Tùng: Do bây giờ thuốc triclabendazol vẫn là
thuốc nghiên cứu nên chưa có thuốc đặc hiệu đặc trị, trên thị trường vẫn
phải dùng các loại thuốc thông thường. Với các loại thuốc này thì chi phí
điều trị cỡ 600 ngàn.
Trà Mi: Nhưng với các loại thuốc này thì có chắc
chắn sẽ điều trị dứt hẳn bệnh sán lá gan không?
Bác sĩ Tùng: Với các loại thuốc thông thường sử dụng
điều trị sán lá gan hiện nay thì thời gian theo dõi phải kéo dài hơn, có thể
theo dõi đến 6 tháng. Nếu đến tháng thứ 3 mà bệnh vẫn còn tái lại thì phải
dùng thêm một đợt thuốc nữa để tái điều trị. Và tất cả các loại thuốc này
đều dưới sự theo dõi, hướng dẫn của bác sĩ rất kỹ về thời gian để tái khám,
chứ bệnh nhân không được tự tiện uống.
Trà Mi: Ở Việt Nam thường thấy hiện tượng người dân
phát hiện các bệnh về sán thì thường tự ý ra tiệm thuốc mua thuốc về tự điều
trị.
Bác sĩ Tùng: Đối với các loại sán thường thì người ta
làm vậy, nhưng sán lá gan thì tự nhiên cái bệnh lý của nó buộc bệnh nhân
phải tìm đến bệnh viện để được chữa trị vì sốt và đau. Việc phát hiện chẩn
đoán bệnh này thì cũng đơn giản chứ không khó lắm.
Trà Mi: Xin bác sĩ giới thiệu một vài địa điểm tin
cậy để bệnh nhân có thể tìm tới để điều trị bệnh sán lá gan?
Bác sĩ Tùng: Bệnh viện nào cũng có thể điều trị bệnh
này, nhất là các bệnh viện tỉnh. Bệnh viện công và tư đều có kiến thức về
bệnh này vì đây gần như là loại bệnh lý dịch tễ học cho nên đa số bác sĩ đều
có kiến thức về chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan.
Bệnh nhân ở miền Trung có thể tìm đến bệnh viện đa khoa Đà Nẵng hay bệnh
viện Hoàn Mỹ. Ở Quy Nhơn và các tỉnh khác, bệnh nhân có thể tìm đến tất cả
các bệnh viện tỉnh đều có điều trị bệnh này.
Muốn tránh bệnh này, bà con ở những vùng dịch tễ nên luộc chín rau hơn
là ăn sống, không nên các loại thức ăn sống như gỏi cá hoặc gỏi tôm vì
những loại này dễ có ấu trùng nằm sẵn trong đó và nếu chúng ta không có
biện pháp rửa sạch thì dễ đưa đến tình trạng bị nhiễm sán lá gan.
Bác sĩ Tùng
Trà Mi: Cuối cùng xin bác sĩ một vài lời khuyên giúp
phòng ngừa căn bệnh này?
Bác sĩ Tùng: Muốn tránh bệnh này, bà con ở những vùng
dịch tễ nên luộc chín rau hơn là ăn sống, không nên các loại thức ăn sống
như gỏi cá hoặc gỏi tôm vì những loại này dễ có ấu trùng nằm sẵn trong đó và
nếu chúng ta không có biện pháp rửa sạch thì dễ đưa đến tình trạng bị nhiễm
sán lá gan.
Nếu có điều kiện nên mua rau sạch. Hiện nay Việt Nam mình cũng có một số
vùng khuyến khích nông dân trồng rau sạch, không bón phân chuồng tức là phân
người hoặc phân súc vật. Các loại phân này dùng bón rau thì rất dễ đưa đến
ký sinh trùng.
Đó là vấn đề nuôi trồng. Còn vấn đề vệ sinh ăn uống thì khi rửa rau nên
dùng nước muối với độ mặn chỉ bằng nước mắt mình thôi, và nên ngâm trong
vòng từ 10-15 phút.
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn thời gian và những
thông tin bổ ích bác sĩ dành cho chương trình hôm nay.
(Xin theo dõi toàn bộ nội dung trong phần âm thanh bên trên)
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Thông tin trên mạng:
-
Bệnh sán lá gan SOS!
-
Ký sinh trùng đường ruột
Tìm hiểu dịch bệnh Rubella
2006.07.07
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Báo chí trong nước gần đây báo động về dịch Rubella ở cả người lớn và trẻ
em bùng phát, lây lan trên diện rộng. Bệnh Rubella là gì, lây lan chủ yếu
bằng cách nào, và sự nguy hiểm của nó ra sao?
Photo Courtesy U.S. Centers for Disease Control and Prevention
Mời quý vị cùng Trà Mi tìm hiểu qua cuộc trao đổi với bác sĩ Thùy, chuyên
khoa nhi nhiễm, hiện đang hành nghề tại Hà Nội.
Trà Mi: Xin bác sĩ cho biết khái quát thế nào là
bệnh rubella và nguyên nhân chính gây ra bệnh này là gì?
Bác sĩ Thùy: Bệnh rubella do siêu vi trùng gây ra, đây
là căn bệnh nhiễm siêu vi. Bệnh này có thể gặp ở tất cả lứa tuổi chứ không
riêng gì trẻ em, cả người lớn và trẻ con đều có thể mắc bệnh.
Trà Mi: Bệnh rubella có những dấu hiệu, triệu chứng
nhận biết như thế nào?
Bác sĩ Thùy: Trước hết bệnh nhân có sốt có thể sốt nhẹ
hoặc sốt cao có thể là trứơc khi phát bệnh, còn gọi là thời kỳ ủ bệnh. Trong
thời gian này, bệnh nhân có thể mệt mỏi, sốt nhẹ hoặc có những dấu hiệu như
hắt hơi, sổ mũi, hoặc ho.
Chỉ có một đối tựơng hay gặp những biến chứng nặng đó là các phụ nữ có
thai, nhất là trong ba tháng đầu mà mắc bệnh này thì hay gây ra dị dạng
cho thai nhi. Đó là hậu quả rất nặng nề, thường gặp ở những phụ nữ trong
lứa tuổi sanh đẻ.
Bác sĩ Thùy
Sau thời kỳ ủ bệnh đến giai đoạn khởi bệnh bắt đầu từ ngày thứ hai hoặc
thứ ba. Triệu chứng của thời kỳ toàn phát là bệnh nhân bị phát ban toàn
thân.
Điểm đặc biệt là ban này nổi rất nhanh, trong vòng 1 ngày có thể nổi khắp
thân thể từ đầu tới chân. Nó là những hồng ban mịn, dứơi da, không nổi cộm
nên sờ không thấy, giống như hồng ban của bệnh sởi nhưng khác với sởi là
trong 1 ngày nó mọc và lan nhanh khắp người.
Khi đã phát ban thì bệnh nhân bắt đầu hết sốt và có thể còn cảm giác mệt
mỏi thêm 1, 2 ngày nữa. Một- hai ngày sau, ban tự động lặn hết và không để
lại dấu vết gì trên da cả.
Trà Mi: Vì căn bệnh này gây ra bởi virus, xin bác sĩ
cho biết thêm về khả năng lây truyền của bệnh?
Bác sĩ Thùy: Bệnh này chủ yếu lây qua đường hô hấp, rất
nhanh chóng, đặc biệt ở những quần thể đông người thì bệnh càng lây nhanh.
Trà Mi: Bệnh này thường dẫn đến những hậu quả như
thế nào đối với người bệnh, biến chứng của bệnh ra sao? Bác sĩ
Thùy: Biến chứng của bệnh rubella không nặng như bệnh sởi. Bệnh sởi
hay có nhiều biến chứng nặng như gây viêm phổi…Còn rubella thì biến chứng
nhẹ nhàng thôi.
Chỉ có một đối tựơng hay gặp những biến chứng nặng đó là các phụ nữ có
thai, nhất là trong ba tháng đầu mà mắc bệnh này thì hay gây ra dị dạng cho
thai nhi. Đó là hậu quả rất nặng nề, thường gặp ở những phụ nữ trong lứa
tuổi sanh đẻ.
Trà Mi: Thưa bác sĩ, các biện pháp phòng ngừa hữu
hiệu nhất đối với căn bệnh này ở Việt Nam hiện nay là gì?
Bác sĩ Thùy: Phương pháp hữu hiệu nhất là chích ngừa.
Ngoài ra, các yếu tố như vệ sinh môi trường, ở nhà thoáng, khu mật độ dân cư
thấp thì mức độ lây lan không nặng nề. Ngoài biện pháp chích ngừa thì một
điều quan trọng khác giúp có thể phòng bệnh là khi phát hiện ca bệnh, nên
cho bệnh nhân cách ly.
Trà Mi: Vì sao đã có vaccine phòng bệnh mà tại Việt
Nam lâu lâu lại nghe nói đến dịch rubella bùng phát nơi này nơi kia?
Đối với trẻ bị mắc phải rubella, ở nhà, phụ huynh nên cho bé nằm nơi
thoáng gió, tắm rửa cho bé mỗi ngày một lần bằng nứơc ấm sạch sẽ, tránh
không ủ bé lại. Nếu bé sốt thì có thể dùng những loại thuốc hạ sốt thông
thường, cho bé uống thêm nứơc trái cây tươi, ăn thức ăn dễ tiêu hoá như
soup, cháo, và đồ ăn thức uống phải sạch sẽ.
Bác sĩ Thùy
Bác sĩ Thùy: Lý do là tại Việt Nam, tiêm phòng rubella
chưa nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng, chưa chích ngừa rubella đại
trà trong cộng đồng. Hiện tại bây giờ số lựơng tiêm phòng còn rất hạn chế,
cũng đã bắt đầu ưu tiên tiêm cho các đối tựơng như trẻ em và phụ nữ trong độ
tuổi xây dựng gia đình hoặc sinh con.
Trà Mi: Vaccine ngừa rubella chưa đựơc vào chương
trình tiêm chủng mở rộng, vậy chi phí cho mỗi mũi tiêm này hiện nay là bao
nhiêu?
Bác sĩ Thùy: Giá thành tương đối mắc, hơn 100 ngàn/mũi
tiêm, nhưng ở thành phố cũng đang dần đưa vào tiêm chủng mở rộng cho trẻ ở
tuổi nhũ nhi và trẻ từ 3-5 tuổi.
Nếu có điều kiện, mọi người ở mọi lứa tuổi nên đi tiêm phòng rubella vì
hiện nay ở các cơ sở y tế địa phương cũng đã bắt đầu tiêm vaccine rubella
rồi, đặc biệt là ở thành phố, còn các khu vực nông thôn thì tôi nghĩ là chưa
có.
Trà Mi: Xin bác sĩ cho biết phương pháp chữa trị căn
bệnh rubella ra sao? Có thể điều trị tại nhà đựơc không và khi nào thì cần
đưa trẻ đến bác sĩ?
Bác sĩ Thùy: Bệnh này không có thuốc điều trị đặc hiệu,
chỉ có trị triệu chứng ví dụ như sốt thì uống thuốc hạ sốt…
Trà Mi: Xin bác sĩ vài lời khuyên dành cho các bậc
phụ huynh, hoặc các bà mẹ mang thai?
Bác sĩ Thùy: Các bà mẹ tốt nhất nên đi chích ngừa, đây
là biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất. Thứ hai, khi phát hiện bệnh, nên có
sự cách ly, và tốt nhất là nên đến các cơ sở y tế để đựơc hứơng dẫn chăm
sóc, điều trị bệnh hợp lý.
Đối với trẻ bị mắc phải rubella, ở nhà, phụ huynh nên cho bé nằm nơi
thoáng gió, tắm rửa cho bé mỗi ngày một lần bằng nứơc ấm sạch sẽ, tránh
không ủ bé lại. Nếu bé sốt thì có thể dùng những loại thuốc hạ sốt thông
thường, cho bé uống thêm nứơc trái cây tươi, ăn thức ăn dễ tiêu hoá như
soup, cháo, và đồ ăn thức uống phải sạch sẽ.
Điều quan trọng là phải cách ly tránh lây cho người nhà. Nếu trẻ trong độ
tuổi đi học nên cho nghỉ ở nhà để tránh lây lan cho trẻ khác.
Đối với những ông bố, bà mẹ chăm sóc cho những trẻ này cũng có khả năng
bị lây bệnh rất mạnh, đặc biệt là các bà mẹ đang trong giai đoạn mang thai
thì bắt buộc phải đi chích ngừa. Còn các ông bố thì có thể không chích ngừa
cũng được vì bệnh này đối với nam giới thì các biến chứng không đáng kể.
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn thời gian và những
thông tin bổ ích bác sĩ dành cho chương trình hôm nay.
(Xin theo dõi toàn bộ nội dung trong phần âm thanh bên trên)
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Thông tin trên mạng:
-
Rubella Photos (Immunization Action Coalition)
-
MedlinePlus: Rubella
Đôi điều về vi trùng gây ra viêm dạ dày
2006.05.12
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng - Trà Mi
Tại sao lại nói về vi trùng gây viêm dạ dày ? Vì theo thống kê của Bộ Y
Tế Việt Nam, viêm dạ dày do vi trùng là một trong những bệnh thường gặp nhất
ở Việt Nam.
Dạ dày nằm ở đâu? Có nhiệm vụ gì ?
Dạ dày, còn gọi là bao tử, nằm ở phần trên của bụng, ngay dưới chấn thuỷ.
Đường tiêu hoá bắt đầu miệng, sau được nhai và bắt đầu quá trình tiêu hoá
bằng các men trong nước miếng, sẽ được nuốt qua thực quản rồi xuống dạ dày.
Dạ dày là túi chứa thức ăn, ở đó thức ăn sẽ tiếp tục quá trình tiêu hoá
bằng a xít và sự co bóp, nhào trộn của dạ dày, sau đó mức được đưa từ từ
xuống ruột để được hấp thu, sau đó xuống ruột già để tạo thành các chất bả,
đi dần dần xuống và được thải ra ở hậu môn.
Viêm dạ dày là gì?
Viêm dạ dày là một loại tổn thương của lớp lót bên trong dạ dày. Khi bị
viêm, lớp lót này sẽ bị sưng đỏ lên gây cảm giác đau, nóng rát ở vùng thượng
vị, tức là phần trên của bụng ngay dưới chấn thuỷ. Những phần bị viêm này có
thể bị chảy máu.
Các nguyên nhân thường gặp của viêm dạ dày ?
Nhiều yếu tố khác nhau có thể gây ra viêm dạ dày, các yếu tố này có thể
kết hợp với nhau hoặc hoạt động đơn lẻ. Một số trong các nguyên nhân thường
gặp là: Bị nhiễm vi trùng, là nguyên nhân thường gặp nhất
- Bị nhiễm vi rút: thường chỉ gây ra các cơn viêm ngắn trong khi cơ thể bị
các triệu chứng thường là ngắn hạn khác của nhiễm siêu vi
- Các chất kích thích, thường gặp nhất là rượu, thuốc lá, các thuốc
corticosteroid, aspirin và các thuốc chống viêm không có steroid như
ibuprofen, naproxen...
Những ai thường bị viêm dạ dày?
Bất cứ ai, ở bất cứ lứa tuổi nào, cũng đều có thể bị viêm dạ dày. Tuy
nhiên, bệnh này thường gặp hơn ở:
- Người trên 60 tuổi
- Những người dùng quá nhiều rượu bia
- Những người hút thuốc
- Những người dùng các thuốc có thể gây ra viêm dạ dày, mà một số vừa được
kể trên
Vi trùng nào gây ra viêm dạ dày ? Vi trùng này có thường
gặp không?
Đó là vi trùng Helicobacter, thường được gọi tắt là H. pylori. Đây là
nguyên nhân thường gây ra viêm dạ dày nhất.
Theo một số nghiên cứu, ngay cả đánh giá một cách dè dặt, người ta cho
rằng vi trùng này hiện diện trong khoảng phân nửa dân số thế giới. Đây cũng
là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra nhiễm trùng mạn tính ở loài người.
Tuy nhiên, mức độ bị nhiễm vi trùng tương đối khác nhau khá nhiều ở các
nước với mức phát triển khác nhau:
Ở các nước đã phát triển như Hoa Kỳ, vi trùng hiếm khi tìm thấy ở trẻ
dưới mười tuổi, sau đó tăng lên 10 phần trăm ở tuổi 18 đến 30, và đến 50
phần trăm ở người trên 60.
- Ở các nước đang phát triển, hầu hết trẻ em bị nhiễm H. pylori trước 10
tuổi, và hơn 80 phần trăm người lớn bị nhiễm trước tuổi 50.
Ngoài việc gây ra viêm dạ dày, vi trùng này còn có thể
gây ra những bệnh gì?
Ngoài việc gây ra viêm dạ dày, H. pylori còn có thể gây ra loét dạ dày
cũng như phần đầu của ruột non, gọi là tá tràng, và ung thư dạ dày.
Vi trùng này lan truyền bằng cách nào?
H. pylori thường được lan truyền từ người này qua người khác qua đường
miệng qua miệng hoặc phân qua miệng, vì vi trùng này có thể nằm trong nước
bọt và phân. Một vài ví dụ về các cách có thể làm lan truyền vi trùng này:
- Ăn uống các thức bị nhiễm phân, ví dụ như nước giếng, ao, sông, hồ...,
bị nhiễm mà chưa được nấu sôi trên năm phút
- Trẻ em nuốt phải nước dơ khi bơi ở hồ, ao, sông, suối, ăn phải những rau
quả bị nhiễm bị nhiễm nước dơ, ví dụ như được rữa bằng nước không sạch
- Sống chung ở những nơi đông đúc, chật chội, cũng làm tăng nguy cơ lây
nhiễm, ví dụ, nhà đông người, có nhiều anh chị em, ngủ chung giường, vùng
không có nước máy.
Vi trùng H. pylori thường gặp như vậy và lại còn có thể
gây ra ung thư, vậy thì những ai cần được xét nghiệm để tìm vi trùng này?
Một cách thật ngắn gọn:
- Những người cần được xét nghiệm tìm vi trùng này nhất là những người đang
bị hoặc có tiền sử đã từng bị loét dạ dày hoặc tá tràng (tức là phần đầu của
ruột non, ngay sát với dạ dày).
- Cần chú ý là ngay cả những người bị loét dạ dày, tá tràng do thuốc cũng
nên được xét nghiệm tìm vi trùng này
- Những người mà trong gia đình có người bị ung thư dạ dày
- Những người bị đau dạ dày, khó tiêu, mà không biết có bị loét dạ dày
không, cũng nên thử tìm vi trùng H. pylori
- Nếu không có triệu chứng mà cũng không có tiền sử bị bệnh, thì không cần
thử
Làm cách nào để tìm vi trùng này trong cơ thể ?
Có nhiều cách khác nhau để xác định việc cơ thể bị nhiễm vi trùng. Nói
một cách rất vắn tắt, điều này có thể được thực hiện bằng cách thử máu, thử
hơi thở, thử phân, hoặc đưa ống soi vào bao tử và lấy một số mô bao tử để
tìm sự hiện diện của vi trùng H. pylori bằng nhiều phương cách khác nhau.
Kỳ sau ta sẽ nói về những gì ?
Triệu chứng, cách điều trị và cách phòng các loại viêm dạ dày, đặc biệt
là viêm dạ dày do vi trùng.
Trà Mi chào thính giả và nhắc lại. Chương trình này chỉ nhằm cung cấp
kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng
bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám
trực tiếp.
Chứng đau nhức khớp xương ở người lớn tuổi
2006.06.16
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Tiếp tục đề tài về các bệnh tật thường gặp ở người lớn tuổi, chương trình
hôm nay sẽ nói về căn bệnh thứ hai là chứng đau nhức khớp xương, với sự tham
gia của bác sĩ kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực Lão khoa. Đó là bác sĩ
Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch Hội Y Sĩ Mỹ gốc Á tại Hoa Kỳ:
Bệnh đau nhức khớp xương. Photo courtesy
University of Maryland
Trà Mi: Xin chào bác sĩ. Trước tiên xin mời bác sĩ
trình bày sơ lược về căn bệnh này. Nói một cách khái quát, như thế nào được
gọi là bệnh đau nhức, thấp khớp ở người cao tuổi?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Bệnh thấp khớp ở người lớn tuổi
là do sự thoái hoá của chất sụn ở các khớp xương, dẫn đến tình trạng các
khớp xương bị biến dạng và gây đau nhức cho người bệnh.
Khi dưới 30 tuổi, các khớp xương còn đủ chất nhờn các chất sụn độn ở giữa
các khớp xương còn tốt thì con người không bị đau nhức. Tuy nhiên càng lớn
tuổi, các chất sụn này dần dần biến thành xương cứng và các đầu khớp không
còn có chất đệm, chúng cọ vào nhau và gây ra chứng đau nhức.
Bệnh thấp khớp ở người lớn tuổi là bệnh thông thường nhất về khớp xương.
Nghiên cứu cho thấy bệnh này thường phát triển ngoài tuổi 40, và cứ gia tăng
dần theo tuổi thọ con người.
80% những người mắc bệnh này bị giới hạn trong các hoạt động hàng ngày.
10% các cụ trên 60 tuổi mắc bệnh này rất nặng cần phải chữa trị.
Trà Mi: Như vậy nguyên nhân chủ yếu gây nên chứng
thấp khớp là do tuổi tác, thế nhưng ngoài yếu tố này còn có những nguyên
nhân nào khác dẫn đến chứng thấp khớp ở người cao tuổi không, thưa bác sĩ?
Đau là triệu chứng đầu tiên của bệnh này. Lúc khởi đầu chỉ có một vài
khớp bị đau, rồi từ từ nhiều khớp và có thể toàn thân bị đau nhức. Lúc
bắt đâù, cơn đau thường giảm đi nếu người bệnh nghỉ ngơi và tạm thời
không cử động đến các khớp xương bị đau. Thế nhưng khi bệnh phát nặng
thì nhiều khớp cùng bị đau một lúc và dù chỉ với những cử động nhẹ cũng
bị đau, thậm chí có khi nghỉ ngơi không làm gì nữa cũng bị đau.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Yếu tố tuổi tác là chính nhưng
ngoài ra vẫn còn những nguyên nhân khác khiến sụn bị thoái hoá nhanh chóng
hơn và làm bệnh phát ra sớm hơn. Thứ nhất, ở những người nặng cân quá, trọng
lượng cơ thể đè lên các khớp xương (nhất là những khớp xương chính chống đỡ
cho cơ thể như xương sống lưng, xương đầu gối), nó sẽ làm cho các khớp này
bị thoái hoá đưa đến bệnh thớp khớp.
Thứ hai là yếu tố di truyền. Nhiều khoa học gia cho là di truyền có vai
trò quan trọng trong việc phát triển bệnh thấp khớp ở người lớn tuổi. Những
người có cha mẹ bị thấp khớp thường có nhiều nguy cơ bị bệnh này sớm hơn và
nặng hơn. Thứ ba là những chấn thương do lao động hay làm việc quá sức cũng
làm ảnh hửơng đến quá trình phát bệnh đau nhức khớp xương.
Trà Mi: Những dấu hiệu nào giúp bệnh nhân có thể
nhận biết là họ mắc phải căn bệnh này?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Đau là triệu chứng đầu tiên của
bệnh này. Lúc khởi đầu chỉ có một vài khớp bị đau, rồi từ từ nhiều khớp và
có thể toàn thân bị đau nhức. Lúc bắt đâù, cơn đau thường giảm đi nếu người
bệnh nghỉ ngơi và tạm thời không cử động đến các khớp xương bị đau. Thế
nhưng khi bệnh phát nặng thì nhiều khớp cùng bị đau một lúc và dù chỉ với
những cử động nhẹ cũng bị đau, thậm chí có khi nghỉ ngơi không làm gì nữa
cũng bị đau.
Triệu chứng thứ hai là sáng ngủ dậy cảm thấy như người bị cứng, nhất là
các khớp xương và cần phải vận động hay tập thể thao chừng 15 phút mới hết
bị cứng khớp.
Một triệu chứng khác là vào buổi chiều bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi
rã rời. Đôi khi cử động mấy khớp xương kêu răng rắc, hoặc bị giới hạn như
không thể nắm chặt bàn tay lại hay không thể co duỗi thẳng đầu gối ra. Ngoài
ra, đôi khi cũng có vài khớp xương bị sưng to… Đó là một vài triệu chứng
chứng tỏ bị bệnh khớp xương.
Còn ở những người nặng cân quá thì nhiều khi nhìn thấy ngay như các đốt
xương ở bàn tay, bàn chân bị lớn lên, các bắp thịt ở bàn tay bàn chân bị teo
đi đôi khi bị lệch hẳn đi…
Trà Mi: Có những trường hợp bệnh nhân tự nhiên bị tê
cứng bàn tay, bàn chân không thể cử động được.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Vâng, hoặc là tê cứng hoặc là
khó nắm tay lại, thế nhưng đó cũng có thể là phối hợp của bệnh phong thấp và
một số các bệnh khác như mạch máu không lưu thông. Tuy nhiên phần đông những
người có triệu chứng này có thể phải nghĩ đến trường hợp mình bị mắc bệnh
phong thấp.
Có một số biện pháp ngừa. Thứ nhất là ăn uống điều độ không để lên cân
quá sức. Thứ hai là phải tập thể dục thường xuyên để giúp bảo trì được
các hoạt động, cử động của các khớp xương. Kế đến là phải tránh đừng để
các khớp xương bị chấn thương như va vấp hay té ngã.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân
Trà Mi: Như vậy thì có cách nào phòng ngừa bệnh này
khi về già không thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Có một số biện pháp ngừa. Thứ
nhất là ăn uống điều độ không để lên cân quá sức. Thứ hai là phải tập thể
dục thường xuyên để giúp bảo trì được các hoạt động, cử động của các khớp
xương. Kế đến là phải tránh đừng để các khớp xương bị chấn thương như va vấp
hay té ngã.
Và khi có những triệu chứng như mỏi lưng hay cứng bắp tay thì phải xoa
bóp mát-xa cho mạch máu lưu thông mang nhiều máu đến nuôi các khớp xương,
đồng thời giúp cho các bắp thịt quanh khớp xương đựơc thư giãn ra, làm bệnh
chậm lại. Bệnh thấp khớp ở người già là một diễn tiến không thể nào chữa
khỏi hẳn đựơc, chỉ có cách làm bệnh phát triển từ từ.
Trà Mi: Thưa bác sĩ, Trà Mi có đựơc nghe những lời
khuyên là khi bước vào tuổi trung niên nên uống sữa bổ sung canxi để giúp
các khớp xương ….
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Vâng, chính ra đó là một loại
bệnh khác nữa: bệnh xốp xương, tức là khi phụ nữ vào tuổi mãn kinh thường bị
thiếu kích thích tố nữ khiến việc đưa những chất vôi vào trong xương bị suy
giảm. Xương bị mất chất vôi, trở nên xốp và dễ dẫn đến chứng gù lưng.
Trong trường hợp này cần phải dùng thêm những loại thuốc như vitamin D,
calcium… hoặc là phải uống những thuốc estrogen để thay thế lựơng kích thích
tố trong người bị suy giảm hoặc mất đi khi tắt kinh.
Trà Mi: Thưa bác sĩ, chứng đau nhức thấp khớp ở
người cao tuổi đựơc chữa trị ra sao? Bác sĩ có những lời khuyên nào đối
với bệnh nhân?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Tuy không có phương pháp trị
dứt hẳn nhưng nếu bệnh nhân làm theo hướng dẫn của bác sĩ thì đa số có thể
sống thoải mái và vẫn giữ đựơc các hoạt động bình thường của các khớp xương.
Mục đích khi chữa bệnh này chúng tôi nhắm vào cách làm bệnh nhân bớt đau,
bảo trì tầm hoạt động và cử động của các khớp xương, tránh làm tổn thương
các lớp sụn trong các khớp xương đang bị đau để làm bệnh chậm lại.
Ngoài những biện pháp phòng bệnh nêu trên, bệnh nhân khi đã bị đau cần
phải nhớ là không nên cố gắng mà nên dùng nạng hay gậy để giúp giữ thăng
bằng và tránh việc đè thêm lên các khớp xương. Đôi khi cũng cần phải dùng
một số loại thuốc giảm đau nhưng với liều lựơng giới hạn và trong thời gian
ngắn để tránh các tác dụng phụ….Uống một hai ngày rồi ngưng lại, cái chính
là phải tập thể thao để giữ cho bệnh không phát nặng thêm.
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn thời gian và những
thông tin bổ ích bác sĩ dành cho chương trình hôm nay.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Các căn bệnh thường gặp ở người lớn tuổi
2006.06.09
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Chào mừng quý vị và các bạn đang đến với chuyên mục "Sức khỏe và Đời
sống" trên làn sóng của đài Á Châu Tự Do sáng thứ sáu hàng tuần. Qua những
cuộc trao đổi giữa Trà Mi với các bác sĩ trong và ngoài nước thuộc nhiều
chuyên khoa khác nhau, “Sức khoẻ và đời sống” sẽ cung cấp kiến thức y học
tổng quát nhằm giúp nâng cao nhận thức về việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ.
Chương trình kỳ này sẽ nói về các căn bệnh thường gặp ở người lớn tuổi.
Trà Mi xin được giới thiệu vị khách mời hôm nay là bác sĩ Nguyễn Quốc Quân,
chuyên môn Nội khoa, đặc biệt có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực Lão
khoa. Bác sĩ Quân cũng là Chủ tịch Hội Y Sĩ Mỹ gốc Á tại Hoa Kỳ và hiện đang
hành nghề tại thành phố Annandale, tiểu bang Virginia.
Trà Mi: Xin chào bác sĩ. Là người có kinh nghiệm lâu
năm trong lĩnh vực lão khoa, theo bác sĩ, những chứng bệnh nào thường thấy
và gây phiền toái nhất ở những người cao tuổi?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Trong lĩnh vực lão khoa, chúng
tôi nhận thấy có 3 bệnh gây khốn khổ nhất cho người lớn tuổi là bệnh mất
ngủ, bệnh táo bón kinh niên, và bệnh đau nhức các khớp xương.
Trà Mi: Vì thời gian có hạn nên Trà Mi xin phép được
hỏi thăm bác sĩ về bệnh mất ngủ trước, và chúng ta sẽ bàn đến những chứng
bệnh kia trong những chương trình kế tiếp. Nói về bệnh mất ngủ ở người cao
tuổi, xin bác sĩ nói sơ qua về tầm quan trọng, tác dụng của giấc ngủ, cũng
như một định nghĩa khái quát như thế nào là bị mất ngủ ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Giấc ngủ rất quan trọng và cần
thiết đối với đời sống của chúng ta không kém gì không khí và nước uống.
Trong giấc ngủ, cơ thể có thể phục hồi những năng lượng tiêu dùng trong
ngày, nhờ đó chúng ta bớt mệt nhọc và căng thẳng.
Trong thời gian ngủ, hệ thống thần kinh được thư giãn, trí óc nghỉ ngơi,
sinh lực được tái tạo giúp con người sửa soạn cho những sinh hoạt kế tiếp.
Một giấc ngủ ngon giúp chúng ta có được sự bền bỉ và sống thọ hơn.
Giấc ngủ rất quan trọng và cần thiết đối với đời sống của chúng ta không
kém gì không khí và nước uống. Trong giấc ngủ, cơ thể có thể phục hồi
những năng lượng tiêu dùng trong ngày, nhờ đó chúng ta bớt mệt nhọc và
căng thẳng. Trong thời gian ngủ, hệ thống thần kinh được thư giãn, trí
óc nghỉ ngơi, sinh lực được tái tạo giúp con người sửa soạn cho những
sinh hoạt kế tiếp. Một giấc ngủ ngon giúp chúng ta có được sự bền bỉ và
sống thọ hơn.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân
Mất ngủ có nhiều hình thái. Có người đi vào giấc ngủ khó khăn. Có người
có thể ngủ lúc ban đầu dễ dàng nhưng bị thức dậy quá sớm và không thể ngủ
lại được. Có nhiều người lại bị trằn trọc trong khi ngủ. Mất ngủ có thể tạm
thời như vài ba ngày, hoặc ngắn hạn từ 2-3 tuần đến vài tháng, hoặc là kinh
niên kéo dài cả năm.
Trà Mi: Như vậy đối với người cao niên, ngủ bao
nhiêu tiếng một ngày mới gọi là ngủ đủ giấc, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Giấc ngủ người cao niên thay
đổi rõ rệt so với lúc trẻ. Lúc trẻ ngủ thường thường từ 5-7 tiếng mỗi ngày,
nhưng đến khi lớn tuổi, giờ ngủ giảm đi rất nhiều. Có người chỉ ngủ được cao
lắm là 3 tiếng đồng hồ mỗi đêm, thức giấc nhiều lần giữa khuya và khó dỗ lại
giấc. Tuy nhiên, không hẳn đó là chứng bệnh mất ngủ, có thể đây là thay đổi
sinh lý ở người già nữa.
Trà Mi: Xin hỏi thăm bác sĩ ảnh hửơng của chứng bệnh
mất ngủ đối với người cao tuổi ra sao?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Người lớn tuổi bị mất ngủ sẽ
trở nên thứ nhất không có sinh lực, tính tình cáu gắt khó khăn. Thứ hai,
không thể tập trung, phản ứng chậm, kém nhạy bén. Thứ ba, trí nhớ bị suy
giảm dễ bị lẫn. Thứ tư, bị chóng mặt ù tai. Mất ngủ còn làm thiệt hại cho sự
tăng trưởng của các tế bào và làm suy yếu hệ miễn nhiễm chống vi trùng trong
cơ thể.
Trà Mi: Như vậy chứng mất ngủ ở người cao niên cũng
gây ra nhiều tai hại khôn lường, chứ không phải như người ta thường quan
niệm là người già ngủ ít không sao. Quan niệm đó là sai lầm, phải không,
thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Chúng ta nên phân biệt 2 loại
là chứng mất ngủ thật sự và thay đổi sinh lý ngủ ít của người già. Nếu bệnh
nhân ngủ ít giờ mỗi ngày mà sáng hôm sau tỉnh dậy vẫn thoải mái, minh mẫn,
sinh hoạt bình thường thì đó là thay đổi sinh lý của người già, không gọi là
mất ngủ mà chỉ là ngủ ít đi thôi.
Còn nếu bệnh nhân ngủ ít mà lúc tỉnh dậy cảm thấy hết sức mệt mỏi, không
thể làm việc được và có cảm giác như bị lú lẫn thì đó là bệnh mất ngủ thật
sự ở người cao niên. Đừng đếm số giờ ngủ là bao nhiêu hết, miễn ngày hôm sau
mình vẫn tỉnh táo, không bị mệt mỏi, có thể sinh hoạt được bình thường thì
không sao.
Trà Mi: Nói vậy có nghĩa là sự thay đổi sinh lý ở
người cao tuổi đó có thể kéo dài trong thời gian rất lâu?
Chúng ta nên phân biệt 2 loại là chứng mất ngủ thật sự và thay đổi sinh
lý ngủ ít của người già. Nếu bệnh nhân ngủ ít giờ mỗi ngày mà sáng hôm
sau tỉnh dậy vẫn thoải mái, minh mẫn, sinh hoạt bình thường thì đó là
thay đổi sinh lý của người già, không gọi là mất ngủ mà chỉ là ngủ ít đi
thôi.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Vâng, có thể là ngày nào cũng
ngủ ít hoặc có thể vài ba ngày ngủ được nhiều giờ thì xen kẽ một vài ngày
ngủ ít giờ đi. Trong việc điều trị, điều rrất quan trọng là phải phân biệt
nguyên nhân do thay đổi sinh lý hay do chứng bệnh mất ngủ thật sự.
Trà Mi: Và trong trường hợp bị bệnh mất ngủ thật sự
thì có phương cách nào giúp dễ ngủ mà không phải cần dùng đến thuốc ngủ
không, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Dùng thuốc ngủ là một biện pháp
bất đắc dĩ vì nó có những phản ứng phụ hoặc gây nên bệnh nghiện. Cho nên,
trước khi nghĩ đến việc dùng thuốc, chúng ta nên áp dụng những phương thức
giúp giấc ngủ được dễ dàng và thoải mái như: đi ngủ có giờ giấc tạo thành
thói quen cho cơ thể, tránh tập thể thao quá sức trước khi đi ngủ vì sẽ làm
tâm thần bị kích thích khó đi vào giấc ngủ, trước khi đi ngủ tránh ăn quá no
nhất là những thức ăn có nhiều gia vị. Một ly sữa ấm nhỏ trước khi đi ngủ có
thể giúp cho 1 giấc ngủ ngon.
Trà Mi: Ngoài ra có những loại thức ăn hay trái cây
nào có thể giúp cảm thấy dễ chịu, dễ buồn ngủ hơn không thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Ở người lớn vào buổi tối vấn đề
tiêu hoá chậm nên cần nhất là phải chú trọng đến những thức ăn nhẹ, dễ tiêu.
Các loại trái cây mà không có vị chua nhiều hoặc không có vị ngọt quá nhiều
sẽ giúp cho tiêu hoá dễ dàng. Cần tránh cà phê, thuốc lá hay rượu mạnh vào
buổi tối vì chúng kích thích hệ thần kinh gây trằn trọc khó ngủ.
Phòng ngủ phải được yên tĩnh, thoáng khí với nhiệt độ vừa phải và tránh
coi TV hay phim ảnh bi thương, kích động hoặc thảo luận những chuyện khó
khăn gặp phải trong ngày trước khi đi ngủ. Và khi bị thức giấc nửa đêm không
ngủ lại được thì đừng nên nằm trên giường trằn trọc mà nên làm những việc gì
cho đến khi mệt buồn ngủ thì trở lại giường.
Trà Mi: Cũng liên quan đến phương cách giúp dễ ngủ,
bác sĩ có lời khuyên gì đối với tư thế nằm ngủ không?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Tư thế ngủ phải thoải mái, tay
chân sải rộng, tránh nằm cong queo. Có thể nằm ngửa hoặc nếu nằm nghiêng thì
về bên phải để tránh nằm đè lên tim.
Mời bạn tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Mọi email xin gửi về
Vietweb@rfa.org
Trà Mi: Bác sĩ có thể nói sơ qua về cách chữa bệnh
mất ngủ như thế nào, các loại thuốc ngủ và hậu quả của việc dùng thuốc ngủ
ra sao?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Trước tiên phải tìm ra nguyên
do gây mất ngủ và tìm cách kiểm soát những nguyên nhân đó. Ví dụ nhiều người
lớn tuổi bị mất ngủ chỉ vì quá lo lắng về một vấn đề nào đó thì cần phải
giải toả những mối lo âu đó thì bệnh mất ngủ sẽ giảm đi, hoặc có nhiều người
mất ngủ do bị đau nhức khớp xương thì cho dùng thuốc giảm đau nhức để giảm
cơn đau thì giấc ngủ cũng được cải thiện…Về thuốc nam, người ta cho rằng
dùng tim hạt sen hoặc dùng hạt sen nấu chè cũng giúp chữa bệnh mất ngủ.
Trà Mi: Ngoài ra Trà Mi cũng được nghe nói đến những
phương pháp hơi giản dị hơn như đọc kinh hay đếm số trước khi đi ngủ để giúp
dễ ngủ hơn. Những phương pháp này theo khoa học có đúng không, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Chúng tôi khuyên dùng phương
pháp này ngay lúc đi ngủ, chứ khi bị thức giấc rồi thì không nên.
Nếu đã dùng tất cả những phương pháp nêu trên mà bệnh nhân vẫn bị mất ngủ
thì buộc phải dùng một số loại thuốc nhưng thuốc dùng lâu sẽ gây nghiện và
kém trí nhớ vì vậy chỉ nên dùng trong thời gian hết sức ngắn hạn và nên dùng
cách khoảng, không nên dùng liên tục và dài hạn.
Bệnh nhân luôn phải được nhắc nhở và khuyến khích giảm dần liều lượng và
cố gắng bỏ thuốc càng sớm càng tốt. Nghĩa là dùng thuốc với sự theo dõi và
hướng dẫn của bác sĩ chứ không nên tự tiện dùng bừa bãi, Nếu có phản ứng phụ
gì phải cho bác sĩ biết ngay.
Ngoài ra, có một số loại thuốc không cần toa bác sĩ cũng giúp dễ ngủ như
Benadryl. Thuốc này có thể dùng được nhưng không dùng cho những ai bị sưng
nhiếp hộ tuyến hoặc là những bệnh về mắt….
Trà Mi: Ở Việt Nam thường thấy hiện tượng hễ mất ngủ
liền đi ra nhà thuốc tây mua thuốc ngủ về uống.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Vâng việc tự động đi mua thuốc
như thế hết sức nguy hiểm nhất là ở người cao tuổi vì người già vốn đã dùng
rất nhiều loại thuốc để trị nhiều bệnh khác nhau rồi mà nếu dùng thêm một
thứ thuốc nữa mà không biết rõ phản ứng của nó ra sao thì rất có hại cho sức
khoẻ. Nếu bị mất ngủ kinh niên nên tìm tới một bác sĩ để tìm ra nguyên do để
điều trị từ đó.
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn bác sĩ đã dành thời
gian cho chương trình hôm nay.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Tìm hiểu hội chứng xơ hoá cơ Delta
2006.06.02
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Hội chứng “chim sệ cánh” hay còn gọi là xơ hoá cơ Delta ở trẻ em đang
bùng phát và lan rộng tại các vùng nông thôn Việt Nam. Số trẻ mắc bệnh đã
lên tới con số hàng ngàn. Tuy nhiên, giới chuyên môn vẫn chưa xác định được
nguyên nhân chính của chứng bệnh này.
Vùng cơ delta trên hai bả vai. Photo courtesy wikipedia.
Chương trình “Sức khỏe và đời sống” tuần này, Trà Mi trao đổi với bác sĩ
Kim, người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực Nhi Khoa, hiện đang hành
nghề tại TPHCM:
Trà Mi: Xin chào bác sĩ. Được biết hội chứng “chim
sệ cánh” còn gọi là xơ hoá cơ delta hiện nay đang bùng phát ở hàng ngàn trẻ
em tại Việt Nam. Xin hỏi thăm bác sĩ thực sự đây là bệnh gì và nguyên nhân
do đâu?
Bác sĩ Kim: Nguyên nhân chắc chắn 100% thì cũng chưa rõ
ràng lắm, nhưng theo nhiều tài liệu thì có thể là do chích thuốc vô cái cơ
chỗ bắp vai. Bây giờ nghi ngờ nhiều nhất là do nguyên nhân này.
Ở Việt Nam nhất là các tỉnh miền Bắc thì hay chích. Hồi xưa ở miền Nam hễ
chích vô thịt thì chích ngay mông, còn ở phía Bắc thì hay chích vô cơ delta,
tức ở chỗ vai…
Trà Mi: Nếu do nguyên nhân chích thuốc gây nên thì
được biết là trẻ em ở các thành phố lớn có điều kiện được chích nhiều hơn
trẻ ở thôn quê, nhưng thực tế cho thấy những em bị xơ hoá cơ delta thì phần
đông là ở nông thôn mà, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Kim: Không phải đâu. Thường trẻ ở nhà quê mới hay
chích thuốc nhiều đó, vì dân quê mình khoái chích lắm. Hễ bệnh là đòi chích
à, chứ ở thành phố giờ người ta cũng ít chích hơn, vả lại thường chích ở
mông nhiều. Trong khi ở vùng quê ngươì ta hay chích ở bả vai hơn, mà đa số
là y tá chích chứ không phải bác sĩ.
Hiện giờ mình loại bỏ từ từ các nguyên nhân, thấy không sốt, không nhiễm
trùng, không ho, chẳng có gì cả mà cơ nó teo từ lâu dần dần bao nhiêu năm
trứơc. Tới giờ thấy tay trẻ bị xệ xuống mới đi khám. Nguyên nhân chắc chắn
thì chưa dám nói nhưng nghi có thể là do chích thuốc bổ, thuốc kháng sinh,
chứ không phải là do tiêm vaccine vì chích vaccine thường chích nông chứ
không chích sâu. Còn cái này thường thường thì chích vô thịt, vô cơ. Ở thôn
quê hay chích mấy cái đó lắm.
Tôi cũng có đọc một số y văn tài liệu bên Nhật. Trước đây mấy chục năm
người ta cũng hay gặp trường hợp bệnh này nhiều lắm, và thường thường là do
chích thuốc.
Trà Mi: Bác sĩ đang hành nghề tại thành phố HCM thì
bác sĩ thấy hội chứng teo cơ delta tại thành phố có nhiều không ạ?
Bác sĩ Kim: Cũng không phải là quá nhiều, quá phổ biến
mà tại vì báo chí đăng tin lên rồi phụ huynh sợ hãi đem con tới khám nhiều.
Nhiều người thấy vai con mình nhô ra thì xin khám chứ thật ra nhiều khi do
cháu ốm quá nên vậy.
Trà Mi: Thật ra ở thành phố thì ít nhưng trẻ em ở
nông thôn thì đã hàng ngàn em bị mắc chứng bệnh này?
Bác sĩ Kim: Dạ, ở thôn quê nhiều hơn.
Trà Mi: Xin được hỏi thăm bác sĩ các triệu chứng
thường thấy của bệnh này là gì?
Bác sĩ Kim: Cơ vai teo nhỏ, vai xệ xuống, tay và sức cơ
trở nên yếu đi chứ không có triệu chứng gì rầm rộ.
Trà Mi:Hiện thời cách điều trị hữu hiệu nhất đối với
căn bệnh này ở Việt Nam là gì ạ?
Bác sĩ Kim: Chúng tôi phẫu thuật các dãi cơ bị teo.
Trà Mi: Nguyên nhân chưa được xác định rõ mà quyết
định mổ thì có vội vàng quá không ạ?
Bác sĩ Kim: Mổ tại vì cơ ngay đó bị teo, cứng, xơ hoá
nên khi cắt đi thì giải phóng các cơ còn lại tự do hoạt động thì bớt co rút,
bớt xệ. Tại vì do thuốc chích ngấm vô cơ làm cho cơ xơ hoá, rồi dính, teo
lại kéo vai lên cho nên mình chỉ cắt chỗ cơ bị xơ thôi.
Trà Mi: Những ca mổ đã thực hiện được thì kết quả ra
sao ạ?
Bác sĩ Kim: Rất tốt. Đa số tốt hơn.
Trà Mi: Chi phí mỗi ca mổ là bao nhiêu, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Kim: Chừng mấy trăm ngàn thôi.
Trà Mi: Xin bác sĩ giới thiệu một vài địa điểm tin
cậy tại TPHCM để các bậc phụ huynh có thể mang con đến khám và điều trị bệnh
này?
Bác sĩ Kim: Thành phố thì có bệnh viện nhi đồng 1,2 và
các bệnh viện thực hiện mổ nhiều như Chợ Rẫy.
Trà Mi: Thưa nếu không được điều trị kịp thời thì
những tác hại của căn bệnh này ra sao? Nó có những biến chứng như thế nào?
Bác sĩ Kim: Tác hại thì cũng không dữ dội gì, chỉ có cơ
bị teo làm cho vai xệ xuống, không nở nang mà bị nhão lại…
Trà Mi: Như vậy nó có ảnh hửơng gì cho sức khoẻ về
sau ạ?
Bác sĩ Kim: Ảnh hưởng sức lao động, sức làm việc, chứ
còn sức khoẻ toàn thân thì không đến nỗi lắm.
Trà Mi: Thế nó có những biến chứng nào nguy hiểm
không ạ?
Bác sĩ Kim: Biến chứng khác thì cũng chưa rõ, chưa thấy
ảnh hửơng toàn thân nhiều lắm..
Trà Mi: Hiện giờ có những đề nghị về các phương pháp
phòng căn bệnh này như thế nào, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Kim: Biết chắc nguyên nhân chính xác 100% thì
phòng mới hữu hiệu. Gìơ thì chưa biết chắc nhưng nghĩ nhiều về nguyên nhân
chích thuốc nên khuyên là không nên chích thuốc bừa bãi, bỏ thói quen thích
chích thuốc. Chỉ chích trong trường hợp thật sự cần thiết thôi và đặc biệt
là nên tránh chích ngay vùng cơ vai đó..
Trà Mi: Có phải căn bệnh này chỉ mới đột phá tại
Việt Nam trong thời gian gần đây?
Bác sĩ Kim: Bệnh này từ xưa đã có nhưng rải rác rồi báo
chí không nêu lên nên không rầm rộ. Còn bây giờ báo chí nêu lên, dân chúng
chú ý nhiều hơn chứ bệnh này đâu có gì mới, đâu phải dịch hay bệnh nhiễm
trùng gì đâu.
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn bác sĩ đã dành thời
gian cho chương trình hôm nay.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Thông tin trên mạng:
-
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
-
Deltoid muscle
Ngày Thế giới Không thuốc lá
2006.06.01
Đỗ Hiếu, phóng viên đài RFA
Ngày 31 tháng 5 năm nay được chọn là ngày thế giới không thuốc lá để cảnh
giác những người hút thuốc và khuyến khích những biện pháp nghiêm ngặt cấm
sử dụng thuốc lá, từng gây thiệt mạng cho 5 triệu người mỗi năm, trên toàn
cầu. Đỗ Hiếu trình bày thêm chi tiết về mối nguy hiểm do thuốc lá gây ra.
Theo ước tính thì hiện trên toàn cầu có 650 triệu người
sử dụng thuốc lá hàng ngày. AFP PHOTO
WHO tức tổ chức y tế thế giới cho hay việc hút thuốc lá là một nguyên
nhân gây tử vong hàng đầu cho nhân loại, giết chết 3 ngàn người mỗi ngày. Cứ
10 người lớn chết vì bệnh thì có một người vì đã hút thuốc lá.
Vẫn theo WHO thì nếu không kịp thời ngăn chặn, thì từ giờ đến năm 2020,
số người chết vì những bệnh do hút thuốc lá gây ra có thể lên tới 10 triệu.
Theo ước tính thì hiện trên toàn cầu có 650 triệu người sử dụng thuốc lá
hàng ngày. Nếu không biết cai thuốc, phân nửa số người này tức là hơn 300
triệu sẽ chết dần, vì hậu quả tai hại của thuốc lá.
Hậu quả đó ra sao? Bác Sĩ Trần Đoàn, từng hành nghề y sĩ gần 40 năm nay,
cho biết về những căn bệnh nguy hiểm có thể xảy đến với người hút thuốc lá
và lây cả sang những người chung quanh.
Để hạn chế việc sản xuất, bày bán, tiêu thụ thuốc lá, việc quảng cáo
thuốc lá ở nhiều nước đã bị ngăn cấm tại các rạp xi nê, các chương trình
radio, tivi thương mại, trên sách báo, ngoài sân vận động, cầu trường.
Rất nhiều quốc gia cấm hút thuốc trên những phương tiện chuyên chở công
cộng, từ máy bay, tàu thủy, đến xe bus, xe lửa. Những nơi công cộng tập
trung đông người lui tới cũng không cho phép người hút thuốc lá lai vãng.
Tuy nhiên, trước những món lợi khổng lồ thu về được, một số công ty sản
xuất thuốc lá vẫn nghĩ cách khuyến khích người ta tiếp tục hút thuốc.
Các hãng thuốc lá Âu Mỹ cho biết đã tung ra thị trường nhiều loại thơm,
nhẹ, có chứa rất ít chất nicotine độc hại, hầu đánh lừa những người nhẹ dạ,
cứ tưởng rằng những sản phẩm mới đó, không nguy hiễm cho sức khỏe.
Ông Cường, một người hút thuốc lá từ mấy chục năm nay, nhấn mạnh rằng,
tất nhiên đã đến lúc phải nhất quyết từ bỏ thuốc lá vì sự nguy hại của nó.
Bà Tâm kể lại nỗi khổ của những người phải sống gần hay chịu đựng khói
thuốc từ người khác nhả vào không khí, và vô tình bị vướng chứng ung thư
phổi.
Ở Hoa Kỳ, số người bỏ thuốc lá ngày càng đông. Người Việt Nam ta ở trong
nước cũng bỏ thuốc khá nhiều, nhưng quan sát trên thực tế xem ra tỉ lệ còn
kém ở nước ngoài khá xa.
Chủng ngừa vaccine cho trẻ em
2006.05.26
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Chào mừng quý vị và các bạn đang đến với chuyên mục "Sức khỏe và Đời
sống". Kỳ này, Trà Mi xin gửi đến quý vị cuộc trao đổi với một bác sĩ nhi
khoa xoay quanh đề tài chủng ngừa vaccine cho trẻ, một vấn đề đang được các
bậc phụ huynh hết sức quan tâm, nhất là sau vụ 6 em nhỏ ở thành phố HCM bị
sốc, trong đó có một em tử vong, vì tiêm vaccine phòng sởi, quai bị, và
rubella.
Bản kế hoạch chủng ngừa vaccine cho trẻ em và người lớn năm 2006 của Hoa
Kỳ.
Xin được giới thiệu đến quý vị bác sĩ Nguyễn Công Viên hiện đang hành
nghề trong nước:
Trà Mi: Xin chào bác sĩ. Trước tiên, xin bác sĩ cho
biết trẻ em cần được tiêm chủng những loại vaccine nào để phòng ngừa những
bệnh nào ạ?
Bác sĩ Nguyễn Công Viên: Tại Việt Nam, trẻ mới sinh ra
được tiêm chủng vaccine ngừa lao và viêm gan siêu vi B. Sau đó sẽ được chích
tiếp các mũi phòng viêm gan siêu vi B cách nhau 2 tháng theo lịch của UNICEF
tức là mới sinh, 2 tháng tuổi, và 4 tháng tuổi. Ngừa bại liệt thì cho thuốc
dưới dạng uống. Còn ngừa bạch hầu, uốn ván, ho gà thì chung trong 1 mũi tiêm
vào tháng thứ 2, 3, và 4.
Trà Mi: Ngoài những vaccine bác sĩ vừa kể, còn những
loại vaccine nào khác không, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nguyễn Công Viên: Ngoài các thuốc trong chương
trình tiêm chủng mở rộng thì các cháu có thể được chích thêm vaccine ngừa
viêm màng não mủ do vi trùng HID. Loại vaccine này ở các nước phát triển thì
nằm trong chương trình vaccine thường quy, nhưng ở mình thì vì phải nhập
cảng nên các mũi này được gọi là các mũi tiêm dịch vụ.
Đó là những mũi chích trong những tháng đầu tiên. Còn chích ngừa sởi thì
vào tháng thứ 9 thay vì vào tháng thứ 12 như ở các nước Châu Âu. Sau đó các
cháu thường được tiêm mũi vaccine phòng quai bị, sởi và rubella vào tháng
thứ 15.
Từ tháng 16 – tháng 20 thì các cháu được nhắc lại các mũi phòng bạch hầu,
uốn ván, ho gà, bại liệt, và nếu cháu nào chích viêm màng não mủ thì cũng
được tiêm vào lúc này luôn. Đó là tất cả những mũi cơ bản và quan trọng nhất
mà các cháu cần được tiêm….
(Xin theo dõi toàn bộ nội dung trong phần âm thanh bên trên)
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ của quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Thông tin trên mạng:
-
Vài Chứng Bệnh Hay Lây Ở Trẻ Em
-
2006 Childhood & Adolescent Immunization Schedule
Quản lý dược phẩm lỏng lẻo khiến một em bé thiệt mạng
2006.05.19
Gia Minh, phóng viên đài RFA
Quản lý dược phẩm là một nhiệm vụ quan trọng của ngành y tế và dược phẩm.
Thế nhưng, vừa qua do lỏng lẻo trong quản lý vaccine chủng ngừa khiến sáu
trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh sau khi tiêm chủng đã bị sốc, trong số đó một
cháu tử vong.
Vaccine Prioxix.
Việc thành lập Hội đồng chuyên môn đánh giá sử dụng vaccine Prioxix tại
thành phố Hồ Chí Minh theo chỉ thị của Bộ Y Tế, rồi việc Tổ chức Y Tế Thế
giới phải cử chuyên gia sang Việt Nam khảo sát và Tổ hợp dược phẩm
Glaxosmithkline gởi chuyên gia y khoa về an tòan vaccine sang Việt Nam, cho
thấy mức độ nghiêm trọng của sự vụ.
Mạng người là quí và uy tín của một công ty sản xuất vaccine cũng quan
trọng nên các bên phải phối hợp sau khi sáu cháu bé tại thành phố Hồ Chí
Minh bị sốc thuốc khi chủng ngừa bằng vaccine.
Nhiệm vụ của hội đồng chuyên môn được cho biết là điều tra đánh giá
nguyên nhân, mức độ các trường hợp phản ứng phụ, tử vong có liên quan đến
việc tiêm vaccine.
Phía đơn vị sản xuất vaccine Priorix thì cho rằng chưa hề có trường hợp
nào tương tự như vừa xảy ra tại Việt Nam đã từng diễn ra trên thế giới.
Tuy nhiên sau một ngày làm việc, hội đồng đã đưa ra nhận định ban đầu về
tai biến nơi cháu bé 13 tháng tuổi là do nhiễm độc tố. Tuy nhiên hội đồng
chưa cho biết lọai độc tố đó là gì, vào khi nào, cơ chế nhiễm ra sao vì còn
phải chờ các thí nghiệm đối chứng.
Bà Dida, phát ngôn nhân của Đại diện Tổ chức Y Tế Thế giới tại Hà Nội cho
biết về công việc đang được tiến hành. Đại ý theo bà là chưa thể đưa ra kết
luận gì mà phải chờ kết quả chính thức. Bà hy vọng sẽ sớm có được kết quả
đó.
Báo chí trong nước đã vào cuộc và cho biết là số vaccine gây tai biến nơi
các cháu là do một công ty dược không có chức năng kinh doanh vaccine cung
cấp. Đó là công ty TNHH dược phẩm và trang thiết bị y tế Hòang Đức.
Con đường lắt léo của số vaccine mà công ty TNHH Hòang Đức bán ra cho đơn
vị sử dụng là Trung tâm Y Tế Quận 5 đuợc báo chí trong nước thuật qua giải
trình của giám đốc Đặng Văn Tuờng của Hòang Đức là công ty này mua 1000 liều
vac xin trong lô hàng 11 ngàn liều mà nhà sản xuất Glaxosmithkline nhập về
chứa trong kho lạnh của hãng dược Zuellig Pharma.
Ông Lê Trương, bác sĩ giám đốc Trung tâm Y tế Quận 5, nói rằng vào ngày
25 tháng tư năm nay khi trung tâm hết vaccine Priorix chính ông gọi điện cho
Glaxosmithkline để mua nhưng thấy Công ty Hòang Đức chở 109 liều đựng trong
thùng lạnh đến cho trung tâm.
Đại diện của công ty Glaxosmithkline tại Việt Nam cho đến ngày 18 tháng 5
vừa qua vẫn chưa có phát biểu gì mà nói vẫn đang chờ kết quả điều tra. Công
ty này cho biết sẽ lấy mẫu vaccine trong lô hàng mà Trung tâm Y tế Quận năm
đã mua để làm xét nghiệm độc lập.
Trong khi các cơ quan chức năng đang lo giải quyết hậu quả của tình trạng
quản lý lỏng lẻo lâu nay dẫn đến tử vong cho người chủng ngừa, thì dân chúng
hoang mang. Những gia đình có con nhỏ phải chủng ngừa thì rất lo ngại khi
phải đưa con em đi chích ngừa dù là bệnh gì. Một vị phụ huynh cho biết về
tình hình quản lý dược phẩm trong nước: “Giờ phải chờ cho tình hình tạm
lắng mới dám cho đi tiêm ngừa lại, chắc cũng phải ba tháng.”
Phát ngôn nhân Dida của đại diện WHO tại Hà Nội thì nói là tổ chức này
ủng hộ việc tạm ngưng sử dụng Priorix cho đến khi có điều tra thêm, nhưng
không khuyến cáo ngưng các lọai tiêm phòng khác.
Theo qui định của ngành y tế Việt Nam thì vaccine là mặt hàng phải đuợc
bảo quản vận chuyển đặc biệt kỹ lưỡng nằm trong dây chuyền lạnh quốc gia.
Tức vaccine nhập về tại 4 kho lạnh khu vực đó là Viện Vệ Sinh Dịch tễ Trung
ương, Viện Dịch Tễ Tây Nguyên, Viện Pasteur Nha Trang và Viện Pasteur Sài
Gòn.
Tiếp đó đuợc phân về kho lạnh tại các trung tâm y tế dự phòng của các
tỉnh, rồi đến tủ lạnh của đội y tế dự phòng quận huyện, cuối cùng là bỏ vào
các phích nước đá đưa xuống phường tiêm chủng. Khi bỏ vaccine vào phích đá
mang đi tiêm thì chỉ sử dụng trong ngày mà thôi. Nếu nhiệt độ không ổn định
thì vaccine hư ngay và không dùng đuợc. Thế nhưng số vaccine mà Trung tâm Y
tế Quận năm mua từ Công ty Hòang Đức lại có một số sử dụng trong suốt ba
ngày, số còn lại vẫn chưa được cơ quan chức năng cho biết đang đuợc bảo quản
ra sao.
Câu 'lợn lành hóa thành lợn què' có thể áp dụng cho truờng hợp nhiều
người lo tiêm phòng bệnh nhưng gặp phải lọai thuốc dởm nên tự nhiên thành
mắc bệnh, và trong trường hợp cháu bé tại Sài Gòn thì mất mạng. Nếu quả đúng
vaccine nhiễm độc tố gây tử vong cho nạn nhân; thì nguyên nhân sâu xa vẫn là
sự tắc trách của ngành y tế thành phố.
Đôi điều cần biết về tiêu chảy
2006.05.05
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng
Tại sao lại nói về tiêu chảy? Tiêu chảy, đặc biệt là tiêu chảy do vi
trùng, là một trong những bệnh thường gặp nhất ở Việt Nam.
Khi nào thì gọi là tiêu chảy?
Một cách đơn giản, tiêu chảy là tình trạng bị đi cầu nhiều lần hơn với
phân lỏng hơn bình thường. Theo một tiêu chuẩn dễ nhớ, việc đi cầu được coi
là bình thường khi ta đi cầu dưới ba lần một ngày hoặc trên một lần mỗi ba
ngày mà vẫn cảm thấy thoải mái.
Các nguyên nhân thường gặp của tiêu chảy?
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra tiêu chảy, nhưng các nguyên nhân thường
gặp nhất của tiêu chảy là việc bị nhiễm trùng với vi trùng, siêu vi trùng
(còn gọi là vi rus) hoặc ký sinh trùng.
Vi trùng gây ra tiêu chảy bằng cách hoặc là xâm lấn làm tổn thương lớp
màng nhầy của ruột, hoặc là sản xuất ra các chất độc làm cho ruột bài tiết
ra nhiều nước hơn.
Ngộ độc thức ăn cũng nguyên nhân tương đối thường gặp gây ra tiêu chảy.
Ta bị ngộ độc thực phẩm khi ăn nhằm các thức ăn bị nhiễm vi trùng, ký sinh
trùng, hoặc các chất độc tiết ra bỡi vi trùng.
Một số nguyên nhân khác gây ra tiêu chảy cấp tính bao gồm thuốc men, viêm
ruột già, và sự căng thẳng khiến ta cứ bị “chột bụng”.
Các thuốc thường gây ra tiêu chảy nhất là một số thuốc kháng sinh, thuốc
chống a xít trong bao tử có chứa chất magnesium, và các thuốc nhuận trường.
Các triệu chứng nào thường đi kèm với tiêu chảy?
Mời các bạn tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Xin gửi email về
Vietweb@rfa.org
Những người bị tiêu chảy thường bị đi phân lỏng hoặc nước. Trong một số
trường hợp ít gặp hơn, nếu bị nhiễm các tác nhân gây ra tổn thương niêm mạc
ruột, ta có thể bị đi cầu ra chất nhầy và máu. Các triệu chứng khác có thể
kèm với tiêu chảy là:
- Đau và quặn bụng
- Ói mữa
- Sốt
- Ớn lạnh
- Đi tiêu không kiểm soát được, thường gọi là ỉa đùn
- Ói mữa và tiêu chảy nhiều quá có thể gây mất nước. Các dấu hiệu của mất
nước có thể là:
- Khô môi, miệng
- Khát nước
- Khô mắt
- Giảm số lượng và số lần đi tiểu
Nếu mất nhiều nước quá có thể gây ra tuột huyết áp khi đang nằm hoặc đứng
dậy làm cho chóng mặt, xây xẩm. Nếu nặng quá có thể dẫn đến choáng do mất
nước, có thể dẫn đến hôn mê và tử vong nếu không được bù nước và nâng huyết
áp kịp thời và thích hợp
Ở trẻ em nhỏ, bên cạnh các dấu hiệu kể trên, mất nước có thể gây ra các
dấu hiệu và triệu chứng như:
- Thóp lõm
- Da nhăn, không căng và đàn hồi như bình thường
- Lờ đờ, bỏ ăn, li bì, khó đánh thức
Tiêu chảy thường kéo dài bao lâu?
Các triệu chứng của tiêu chảy thường nặng nhất trong vòng 24 tiếng đồng
hồ đầu tiên. Mặc dù là một số ít trường hợp tiêu chảy cấp có thể kéo dài đến
hai tuần, đa số thường bình phục trong vòng ba đến bảy ngày.
Sự bình phục nhanh hay chậm cũng ảnh hưởng nhiều bỡi việc điều trị có sớm
và thích hợp hay không.
Cách chữa tiêu chảy ?
Nếu bị nhẹ, ta có thể tự chữa tại nhà bằng cách:
- Nghỉ ngơi nhiều hơn, và đổi sang ăn các chất lỏng nhẹ.
- Bù nước đầy đủ là điều rất quan trọng.
- Tránh các chất làm mất thêm nước và muối như là cà phê và những chất có
chứa chất caffeine như là coca cola chẳng hạn.
- Nếu bị buồn nôn không uống được nước, ta có thể ngậm hoặc mút những miếng
nước đá nhỏ
- Khi đã cảm thấy đở hơn, nên bắt đầu chuyển từ từ sang các thức ăn đặc
hơn, như cháo đặc, bột ngũ cốc quậy loãng rồi đặc hơn, rồi sang cơm nhão...
, rồi cuối cùng là các thức ăn đặc bình thường. Việc chuyển từ từ như vậy có
thể giúp giảm bớt các cơn đau quặn bụng hoặc bao tử.Có thể giảm đau quặn
bụng bằng cách chườm ấm ở chỗ bị đau quặn.
- Ta cũng có thể dùng các thuốc cầm tiêu chảy mua không cần toa bác sĩ,
có bán ở các tiệm thuốc tây.
Điều quan trọng là cần biết khi nào thì cần đi bác sĩ.
- Nên đi bác sĩ nếu tiêu chảy kéo dài hơn 48 tiếng đồng hồ và ta bị sốt trên
38.4 độ C.
- Nên đi bác sĩ ngay nếu thấy có chất nhầy hoặc máu trong phân.
- Trẻ càng nhỏ thì càng nên cẩn thận và đi bác sĩ sớm hơn, nhất là nếu trẻ
không chịu ăn uống và ta không thể bù nước bằng đường miệng tại nhà được.
Xin nói chi tiết hơn về cách bù nước khi bị tiêu chảy?
Bù nước có thể nói là điều quan trọng nhất khi bị tiêu chảy. Nếu bị nhẹ,
ta có thể:
- Dùng nước súp, nước cháo, nước trái cây.
- Nên dùng xen kẻ các thức uống hơi mặn như súp, nước cà chua, với các thức
uống ngọt như nước trái cây. Điều này giúp bù đủ các chất điện giải cho cơ
thể.
Nếu bị tiêu chảy nặng, tức là khoảng trên năm lần đi ra phân lỏng một
ngày, ta nên dùng các dung dịch điện giải bù nước. Ta có thể mua các dung
dịch này ở các tiệm thuốc tây.
Ngoài ra ta cũng có thể làm tại nhà bằng cách trong mỗi lít nước chín,
sạch, pha thêm vào nửa muổng cà phê muối, nửa muổng cà phê chất bột tiêu
(baking soda), và hai muỗng canh đường. Cần nhớ là các nước trái cây, nước
súp... không chứa đúng nồng độ các chất điện giải cần được bù trong các
trường hợp tiêu chảy nặng này.
Khi nào thì nên dùng trụ sinh ? Khi nào không nên dùng ?
Trong hầu hết các trường hợp, tiêu chảy thường khỏi trong vòng năm ba
ngày mà không cần trụ sinh. Tuy nhiên, trụ sinh có thể giúp làm các triệu
chứng thuyên giảm trong vòng một ngày. Do đó, trong một số trường hợp như đi
du lịch, không có điều kiện chạy ra chạy vào nhà vệ sinh suốt ngày, ta có
thể xin bác sĩ cho sẵn các thuốc kháng sinh trị tiêu chảy với các hướng dẫn
về cách dùng.
Tuy nhiên, khi dùng cần được sự hướng dẫn bởi bác sĩ để dùng cho đúng
thuốc, đúng chỗ. Nếu không ta sẽ vừa bị tốn tiền, có thể chữa không đúng
thuốc, đúng bệnh, mà còn góp phần tạo ra các chủng vi trùng bị lờn thuốc.
Khi nào thì nên dùng thuốc cầm tiêu chảy ? Khi nào không nên
dùng ?
Các thuốc cầm tiêu chảy như loperamide, diphenoxylate có thể giúp giảm
các cơn tiêu chảy, và thường rất hữu ích trong một số tình huống , ví dụ như
là khi đang đi du lịch. Ta có thể thử dùng nếu đi tiêu phân lõng, không bị
sốt, không có máu hay đàm nhớt trong phân. Các thuốc cầm này chỉ giúp làm
giảm các cơn tiêu chảy chứ không trị dứt các cơn nhiễm trùng.
Không nên dùng các thuốc cầm tiêu chảy nếu sốt trên 38.4 độ C (khoảng 101
độ F), khi thấy các triệu chứng không thuyên giảm trong vòng 48 giờ, hoặc
nếu trong phân có chất nhầy hoặc máu.
Cách phòng tiêu chảy ?
Ta có thể phòng tiêu chảy bằng cách giữ vệ sinh, mà những điều căn bản
là:
- Rửa tay thường xuyên với nước sạch và xà phòng, ít nhất là 20 giây, đặc
biệt là trước khi ăn, trước khi chuẩn bị thức ăn, và sau khi đi vệ sinh.
- Tránh ăn thịt tái, sống, tôm cá sống, thức ăn đã dọn ra hơn vài tiếng
đồng hồ. Ta có thể phòng tiêu chảy do ngộ độc thực phẩm bằng cách này.
- Nếu bị đi tiểu chảy tái đi tái lại, nên cố chú ý xem các yếu tố nào có
thể gây ra các cơn tiêu chảy đó, ví dụ như là một loại thuốc hay thức ăn nào
đó. Sau đó, ta có thể tránh các cơn tiêu chảy đó bằng cách đơn giản là tránh
các thứ gây ra các cơn tiêu chảy đó.
Khi đi du lịch, một số điều có thể giúp phòng tiêu chảy:
- Không nên dùng nước đá, vì nước đá có thể được làm từ nước đã bị nhiễm
trùng, và do đó sẽ gây ra tiêu chảy, dù là dùng với rượu, hay các loại nước
đóng chai
- Các loại nước đóng chai thường tương đối vô trùng. Tuy nhiên nên cẩn
thận khi rót ra ly, vì ly có thể được rửa bằng nước không hợp vệ sinh. Tốt
nhất là dùng các ống hút, cẩn thận nhất là ống hút sạch mới được lấy ra từ
giấy bọc
- Khi nấu sôi nước, nên để sôi ít nhất là năm phút
- Nên ăn trái cây còn vỏ, và tự gọt vỏ để bảo đảm là trái cây không bị
nhiễm bẩn
- Cũng nên chú ý tránh sữa hoặc các chất làm từ sữa nếu không biết sữa có
được vô trùng đúng cách hay chưa
- Một số thuốc phòng tiêu chảy cũng có thể mua không cần toa tại các tiệm
thuốc tây. Tuy nhiên cần chú ý đọc kỹ các hướng dẫn xem trong trường hợp nào
thì có thể dùng, dùng như thế nào, và trong những trường hợp nào thì không
nên dùng
Khi nào thì nên dùng trụ sinh để ngừa tiêu chảy? Dùng như thế
nào?
Chỉ nên dùng khi được cố vấn từ bác sĩ.
Cần nhớ là các thuốc trụ sinh có thể có các tác dụng phụ, như gây ra dị
ứng, làm da nhạy cảm hơn với ánh nắng mặt trời, và do đó dễ bị nám da hơn,
hoặc làm tăng khả năng bị nhiễm nấm âm đạo...
Thường thì bác sĩ chú ý đến việc phòng tiêu chảy bằng trụ sinh hơn ở
những người đi du lịch mà lại có những tình trạng sức khoẻ dễ trở nên nguy
hiểm hơn nếu bị tiêu chảy.
Có nhiều loại trụ sinh khác nhau có thể được dùng, tuy nhiên tất cả đều
cần có toa và sự hướng dẫn của bác sĩ.
Có thuốc chủng ngừa tiêu chảy hay không ?
Tiêu chảy, đặc biệt là tiêu chảy khi đi du lịch, thường bị gây ra nhất
bỡi một loại vi trùng có tên là E. coli tiết ra độc tố ruột.
Hiện nay, một số nước đã có thuốc chủng phòng được phần nào loại tiêu
chảy do vi trùng này. Một số trong các nước này là Canada, Úc và châu Âu hợp
nhất. Tuy nhiên, vẫn còn cần thêm nghiên cứu để cải thiện thuốc chủng này.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Cách phòng và Trị viêm Tiểu phế quản cấp
2006.04.28
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng - Trà Mi
Các biến chứng của viêm tiểu phế quản cấp?
Trong đại đa số các trường hợp ở trẻ vốn vẫn mạnh khoẻ, viêm tiểu phế
quản cấp thường tự khỏi mà không có biến chứng gì cả. Tuy nhiên, ở các trẻ
bị bệnh nặng, đặc biệt là ở trẻ sinh non, trẻ đã có các bệnh tim phổi hoặc
bị suy giảm miễn dịch, biến chứng sẽ dễ xảy ra hơn.
Biến chứng thường gặp và nguy hiểm nhất là trẻ không thở được hoặc bị suy
hô hấp cấp. Bị suy hô hấp nặng, trẻ sẽ cần phải được đặt ống thở máy. Khi
thở máy, trẻ lại sẽ có thể gặp các biến chứng khác như bị tràn khí vào màng
phổi và vào vùng trung thất, tức là vùng giữa hai lá phổi, các biến chứng
này cũng rất nguy hiểm, dễ dẫn đến tử vong.
Sau khi khỏi bệnh, trong vòng một hai năm, một số trẻ cũng sẽ hay bị các
cơn khò khè như suyễn. Tuy nhiên, có phải viêm tiểu phế quản cấp gây ra
suyễn hay không, điều đó vẫn còn là một câu hỏi có trả lời rõ ràng.
Một số nghiên cứu ở Hoa Kỳ cũng cho thấy là trẻ bị viêm tiểu phế quản
cũng thường bị viêm tai giữa. Có nghiên cứu ở các trẻ sơ sinh bị nhập viện
vì viêm tiểu phế quản, cho thấy là đến 53 phần trăm các trẻ này cũng bị viêm
tai giữa trong vòng hai ngày đầu sau khi nhập viện.
Tỉ lệ tử vong của viêm tiểu phế quản cấp?
Theo thống kê của Hoa Kỳ, tỉ lệ tử vong ở trẻ phải nhập viện do viêm tiểu
phế quản gây ra bởi vi rút RSV (là loại vi rút thường gây ra viêm tiểu phế
quản cấp nhất), là khoảng dưới hai phần trăm.
Nguy cơ dẫn đến tử vong liên quan chặt chẽ với tuổi của bệnh nhân, tuổi
càng nhỏ thì sẽ có nguy cơ tử vong càng cao. Trong số tử vong do viêm tiểu
phế quản cấp, 79 phần trăm là ở trẻ dưới một tuổi. Trẻ trai có nguy cơ tử
vong cao gấp rưỡi trẻ gái.
Ngoài ra, bị các bệnh khác như các bệnh tim phổi, suy giảm miễn dịch,
sinh non, nhỏ cân, cũng là các yếu tố làm tăng nguy cơ tử vong.
Cách điều trị viêm tiểu phế quản cấp?
Mời các bạn tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Xin email về
Vietweb@rfa.org
Trong đa số các trường hợp, điều quan trọng nhất là nâng đỡ thể trạng
bệnh nhân bằng cách cho nghỉ ngơi, dinh dưỡng đầy đủ, chữa các triệu chứng.
Những điều khác mà các bác sĩ cần làm khi bệnh nhân nhập viện, là cho thở
dưỡng khí, truyền dịch, cho thuốc dãn phế quản, đặt ống thở máy, cho thuốc
trị vi rút, thuốc chống viêm, vân vân. Các cách điều trị này thay đổi tùy
theo từng trường hợp bệnh khác nhau.
Khi nào thì cần đem trẻ đến bác sĩ hay bệnh viện?
Các bậc cha mẹ cần chú ý đặc biệt đến điều này, vì nếu không đưa đến bác
sĩ hoặc đến bệnh viện kịp lúc, điều đó có thể đánh đổi bằng chính tính mạng
của trẻ.
Nói chung cần đưa trẻ đến bác sĩ hay bệnh viện nếu trẻ có vẽ bị nhiễm
độc, bỏ ăn, lừ đừ ngủ suốt ngày khó đánh thức, da khô, thóp lõm, sốt cao,
hoặc có các dấu hiệu suy hô hấp.
Các dấu hiệu của suy hô hấp khiến ta phải đưa trẻ đến phòng cấp cứu càng
sớm càng tốt là:
- Cánh mũi phập phồng khi thở
- Các khoảng giữa các xương sườn hoặc vùng dưới xương ức bị co kéo khi trẻ
thở
- Nhịp thở trên 50 đến 70 lần mỗi phút
- Trẻ bị tím môi hoặc đầu các ngón tay, ngón chân
Cũng cần đưa trẻ đến bác sĩ hoặc bệnh viện bất cứ khi nào mà cha mẹ cảm
thấy bất lực, không biết hoặc không đủ khả năng chăm sóc trẻ.
Có thể làm gì để trị viêm tiểu phế quản cấp tại nhà? Làm sao để
tránh các biến chứng và giảm tỉ lệ tử vong?
Hầu hết các bé bị viêm tiểu phế quản cấp sẽ hoàn toàn hồi phục trong
khoảng một đến hai tuần, các vấn đề về hô hấp có thể cải thiện rất nhanh, có
khi chỉ trong vòng hai ba ngày.
Ở các trẻ không có các dấu hiệu trầm trọng cần phải đưa đến bệnh viện,
như vừa trả lời ở câu hỏi trên, điều quan trọng là nâng đở thể lực của trẻ
và trị các triệu chứng bằng cách:
- Cho trẻ nghỉ ngơi thật nhiều
- Cho trẻ uống đủ nước, có thể là nước cháo, nước chanh muối, nước canh,
nước súp...
- Dinh dưỡng đầy đủ bằng cách cho ăn uống các thức đủ bổ dưỡng, dễ tiêu,
nhiều lần hơn trong ngày, mỗi lần một ít để trẻ có thể tiêu hoá được. Nói
chung là nhiều bữa hơn, nhưng bữa nhỏ hơn. Nếu trẻ bị nghẹt mũi, sổ mũi, nên
nhỏ nước muối loãng để nước mũi loãng ra, và sau đó hút bằng các bóng bóp.
- Nếu không có các phương tiện trên, cách mà một số bà mẹ ở vùng quê
thường làm, là kê miệng vào để hút nước mũi cho con, cũng là một cách được
Tổ Chức Sức Khoẻ Thế Giới cho là có ích ở những vùng quá thiếu thốn phương
tiện. Tuyệt đối không nên dùng các thuốc nhỏ làm khô mũi, có thể gây nguy
hiểm.
- Nếu có máy phun hơi nước mát, là điều rất tốt, nếu không, có thể treo
các khăn, vải sạch nhúng nước xung quanh giường trẻ để tăng độ ẩm.
- Nếu trẻ bị sốt, không nên “úm” trẻ với nhiều lớp quần áo, chăn mền, cần
phải lau, chườm nước ấm ở các vùng toả nhiều nhiệt như nách, cổ, bẹn, trán,
và cho thuốc giảm sốt đúng liều. Không nên nhỏ chanh, gừng vào họng, có thể
làm trẻ bị sặc, càng nguy hiểm. Nên đưa đi bác sĩ nếu sốt trên khoảng 38.4
độ C.
- Dĩ nhiên, nên tuyệt đối tránh khói thuốc, ngay cả lúc trẻ không bệnh.
Vì tuyệt đại đa số các trường hợp viêm tiểu phế quản là do vi rút, thường
thì không cần và không nên dùng kháng sinh
Bệnh có hay bị tái đi tái lại hay không ?
Hầu hết các bé sẽ không bị viêm tiểu phế quản do vi rút lại trong cùng
một năm. Tuy nhiên, một số trẻ sơ sinh có thể sẽ bị các cơn khò khè và ho
tái đi tái lại trong vòng vài năm sau đó, mỗi khi các bé bị cảm lạnh. Khi
đó, các bác sĩ sẽ trị bằng các thuốc trị suyễn nếu khi trị thử thấy có hiệu
quả.
Phòng viêm tiểu phế quản cấp bằng cách nào ?
Các bậc cha mẹ, nhất là cha mẹ các bé dưới hai tuổi, cần biết các triệu
chứng của bệnh này, nhất là các dấu hiệu báo động để có thể đối phó với bệnh
thích hợp, tránh các biến chứng hoặc tử vong đáng tiếc.
Cũng như để phòng các bệnh lây qua đường hô hấp khác, cách quan trọng
nhất để phòng là rữa tay thường xuyên với xà bông, mỗi lần rữa ít nhất là 20
giây đồng hồ.
Tránh để trẻ tiếp xúc với khói thuốc lá cũng là điều rất quan trọng.
Dĩ nhiên, nên cố gắng tránh trẻ tiếp xúc với nguồn bệnh, như là với các
anh chị bị lây bệnh khi đi nhà trẻ, cha mẹ, cô, chú, ông, bà, vân vân. Trẻ
càng nhỏ, càng yếu, thì càng phải cẩn thận, vì như đã nói, trẻ càng nhỏ,
yếu, thì bệnh càng dễ nặng và nguy cơ tử vong càng cao.
Ở một số các bé bị suy giảm miễn dịch, hoặc bị bệnh kinh niên, để giảm
nguy cơ phải nhập viện, có khi bác sĩ sẽ phải chích các loại kháng thể chống
vi rút RSV. Bác sĩ sẽ là người quyết định trẻ nào cần chích.
Vì các trẻ dưới hai tuổi có nguy cơ cao hơn bị nhập viện do viêm tiểu phế
quản do vi rút cúm, theo khuyến cáo của Hoa Kỳ, các trẻ từ 6 đến 23 tháng
cần được chích ngừa cúm hàng năm.
Cho tới nay, nguyên nhân gây viêm tiểu phế quản thường gặp nhất là vi rút
RSV và parainfluenza, tuy nhiên vẫn chưa có thuốc chủng ngừa các loại vi rút
này.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ.
Cho các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp
với bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp
Giới trẻ Việt Nam chưa hiểu biết nhiều về căn bệnh HIV/AIDS
2006.04.25
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Muốn khống chế sự lây lan của căn bệnh HIV/AIDS, Châu Á cần phải xoá bỏ
những quan niệm cấm kỵ khi nói về tình dục cũng như các định kiến kỳ thị
bệnh nhân AIDS. Đó là cảnh báo của các chuyên gia quốc tế đối với khu vực
đang có tỷ lệ phát tán virus HIV nhanh nhất trên thế giới hiện nay, với phân
nửa các ca lây nhiễm mới là trong giới trẻ, đặc biệt trong độ tuổi từ 14-24.
Mức độ hiểu biết của thanh niên Việt Nam về căn bệnh này ra sao? Các hoạt
động phòng chống cũng như những khó khăn hiện nay trong công tác giáo dục,
tuyên truyền về AIDS tại Việt Nam là gì? Trà Mi đã trao đổi với bác sĩ Nhân,
cán bộ chương trình phòng chống HIV/AIDS tại TPCHM liên quan đề tài này:
Trà Mi: Là một người công tác trong lĩnh vực giáo
dục, tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS, bác sĩ đánh giá như thế nào về sự
hiểu biết của giới trẻ hiện nay về căn bệnh AIDS, họ có đủ hiểu biết về căn
bệnh này chưa?
Bác sĩ Nhân: Chưa, vì các hoạt động truyền thông phòng
ngừa thay đổi hành vi hãy vẫn còn nhiều đối tượng cần được tiếp cận. Như
vậy, nhu cầu vẫn còn thì thực trạng vẫn còn.
Trà Mi: Tỷ lệ thanh niên Việt Nam hiểu rõ về
HIV/AIDS chiếm tỷ lệ bao nhiêu, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nhân: Thông tin đó thì không có. Ở Việt Nam không
làm nghiên cứu thăm dò về mảng này vì mấy nghiên cứu đó đòi hỏi phải có
phương pháp, có tài trợ mà bên mình không có nên không làm được.
Trà Mi: Thưa tại Việt Nam đối tượng nhiễm AIDS nhiều
nhất trong khoảng độ tuổi nào?
Bác sĩ Nhân: Vẫn tập trung ở độ tuổi 17, 18, 19. Đỉnh
cao tính chung cả nước thì từ 18-49, nhưng nếu chia ra theo từng nhóm tuổi
từng 10 năm thì lứa tuổi từ 19-29 là cao nhất .
Trà Mi: Hiện giờ những công tác tuyên truyền phòng
chống AIDS được thực hiện như thế nào, dưới hình thức ra sao?
Bác sĩ Nhân: Một là dạng tuyên truyền rộng rãi trong
cộng đồng, tiếp cận, phổ biến 1 chiều, tức mình rãi bướm và phát phương tiện
ai thấy cần thì lấy. Còn dạng thứ hai là khu trú tiếp cận những đối tượng
nguy cơ cao.
Kế nữa là phương pháp truyền thông phòng chống phải đi kèm với điều trị
bệnh lây truyền qua tình dục và chăm sóc bệnh nhân AIDS đi kèm với nhau,
không tách rời, khác với trước kia chỉ tuyên truyền một chiều không thôi.
Mình thành lập mạng lưới tập trung những đối tượng nguy cơ, đào tạo và biến
họ thành những giáo dục viên đồng đẳng đi tuyên truyền.
Trà Mi: Thế còn mảng giáo dục trong nhà trừơng thì
sao, thưa bác sĩ?
Bác sĩ Nhân: Các tài liệu về HIV trong nhà trường cũng
có nhưng sơ sài lắm. Cách giáo dục thì dưới dạng nói chuyện chuyên đề nhưng
thấy không rõ ràng, không được sự chăm chút vì người ta coi đối tượng này là
đối tượng cũng tạm ổn, không thuộc nguy cơ cao, thành ra không chú ý lắm.
Trà Mi: Xin hỏi thăm bác sĩ về những khó khăn trong
công tác giáo dục tuyên truyền phòng chống AIDS ở Việt Nam hiện nay là gì?
Bác sĩ Nhân: Thứ nhất là phân biệt đối xử vì người ta
thừơng quan niệm những người mắc bệnh là những người có hành vi xấu. Cho nên
ngừơi ta rất ngại khi nói đến vấn đề này.
Trà Mi: Đối với những định kiến như vậy, làm thế nào
để có thể xoá bỏ?
Bác sĩ Nhân: Phưong pháp chính hiện nay là tạo những
nhóm giáo dục viên đồng đẳng thành đội ngũ tuyên truyền viên. Họ là những
nhân chứng sống thì họ tuyên truyền dễ hơn và tâm lý hơn.
Nếu Việt Nam được có thuốc men đầy đủ điều trị thì sẽ ảnh hửơng tốt đến
sức khỏe và tuổi thọ những đối tượng đó, thì họ sẽ giúp công tác tuyên
truyền nhiều hơn, ngoài ra sẽ tạo hình ảnh người bị bệnh không đến nỗi tệ
quá, ngừơi ta vẫn có thể tham gia vào các hoạt động xã hội được và tự kiếm
sống được thì rất tốt.
Trà Mi: Nói về mặt nhà nước, bác sĩ có nghĩ nên có
những phương pháp cụ thể giúp xoá bỏ định kiến đối với những người bị AIDS?
Bác sĩ Nhân: Nên làm lại luật phòng chống ban hành từ
1985 đã quá cũ và không hiệu lực… Hơn 10 năm rồi mà chưa làm tổng kết được
để thay đổi luật cũng là một điều yếu…
Trà Mi: Theo bác sĩ thì vì sao luật này đã có trên
10 năm mà vẫn không mấy hiệu lực?
Bác sĩ Nhân: Chủ yếu vì bộ phận thi hành luật chưa
nghiêm minh. Những biện pháp xử phạt không rõ ràng. Không có thông tư dưới
luật để hướng dẫn thực thi…
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn bác sĩ đã dành thời
gian cho cuộc trao đổi hôm nay.
Viêm tiểu phế quản cấp và Hậu quả của cắt túi mật
2006.04.21
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng - Trà Mi
Hậu quả của cắt túi mật
Hỏi: Tôi đã đi cắt túi mật, vậy tôi có bị ảnh hưởng
gì trong tương lai không? Và tôi có cần làm gì trong tương lai không? Kiêng
cử ăn uống hay phải làm gì? Tôi cảm thấy từ ngày tôi đã cắt đi túi mật, tôi
đã bị nóng rất nhiều, không được như trước, khi ngủ nóng cả người và mặt mày
bị nổi mụn rất nhiều, đây có phải là những hậu quả của việc cắt túi mật hay
không?
Đáp: Túi mật là một cơ quan
không phải là không thể thiếu được, do đó, hiện nay phương thức điều
trị tiêu chuẩn cho những bệnh nhân bị sỏi túi mật có triệu chứng là
cắt bỏ nó đi cùng với những viên sỏi bên trong. Việc túi mật bị cắt
bỏ thường không ảnh hưởng hoặc nếu có thì chỉ ảnh hưởng đôi chút trong
việc tiêu hoá. Ở khoảng 50 phần trăm các bệnh nhân bị cắt bỏ túi mật,
họ có thể có các triệu chứng như đầy hơi, tiêu chảy, nhưng hầu hết
thường nhẹ, và do đó thường không cần phải kiêng cử ăn uống gì cả. Nếu
muốn, ta có thể ăn ít đi các thức gây ra các triệu chứng kể trên, rồi
tăng lên từ từ để cơ thể dần dần tái thích nghi với các thức ăn đó.
Có một vài báo cáo cho rằng việc túi mật bị cắt bỏ có thể làm tăng
nguy cơ ung thư ruột già, vì mật bị chảy thẳng vào ruột già một cách
kinh niên. Tuy nhiên, các báo cáo này bị nhiều chuyên gia cho rằng
không chính xác. Dù sao, nếu có tăng nguy cơ ung thư ruột già theo các
báo cáo đã đề cập bên trên, thì cũng chỉ là sự gia tăng đôi chút nguy
cơ ung thư phần bên phải của ruột già.
Tôi không tìm thấy nghiên cứu nào cho thấy việc cắt túi mật làm cho
bị nóng khi ngủ và mặt mày nổi mụn. Về mặt lý thuyết, mật cũng chỉ
giúp vào việc tiêu hoá chứ không ảnh hưởng đến thân nhiệt hay các thay
đổi ở da. Khi bị ứ mật trong máu, một chất gọi là bilirubin, có thể
gây ngứa, nhưng chất này không gây ra mụn. Hơn nữa việc cắt bỏ túi mật
thường không dẫn đến việc ứ mật gây ra ngứa (chứ không phải mụn) kể
trên.
Viêm tiểu phế quản cấp
Tại sao lại nói về viêm tiểu phế quản cấp? Đây là một trong những
bệnh thường gặp nhất ở người Việt Nam, dựa theo thống kê của bộ y tế
Việt Nam.
Mời các bạn tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Mọi email xin gửi
về Vietweb@rfa.org
Bệnh thường gặp nhất ở trẻ em nhỏ, không biết nói, và do đó các bậc
cha mẹ cần hiểu về căn bệnh này để biết đối phó thích hợp hầu tránh
các hậu quả tai hại không đáng có.
Viêm tiểu phế quản cấp là gì?
Viêm tiểu phế quản là một phần của các bệnh nhiễm trùng đường hô
hấp dưới. Đường hô hấp bắt đầu từ mũi, qua họng, xuống thanh quản, khí
quản, hai phế quản để dẫn khí vào hai phổi, rồi sang các nhánh nhỏ hơn
gọi là tiểu phế quản để đi sâu vào các thuỳ của phổi, xuống các phế
nang, là nơi mà dưỡng khí được trao đổi với thán khí của cơ thể để
được đưa ngược ra mũi để thở ra trước khi tiếp tục hít dưỡng khí vào.
Viêm tiểu phế quản cấp là tình trạng viêm sưng cấp tính của lớp
màng nhầy lót các tiểu phế quản.
Viêm tiểu phế quản thường được chẩn đoán ở trẻ nhỏ, bị khò khè, mà
không thể được giải thích bỡi các bệnh gây khò khè khác như viêm phổi
hoặc bị hen suyễn.
Trẻ em tuổi nào thường bị viêm tiểu phế quản nhất?
Viêm tiểu phế quản thường ảnh hưởng nhiều nhất đến trẻ từ sơ sinh
đến hai tuổi. Ở các vùng ôn đới, bệnh thường gặp nhất là trong mùa
lạnh, còn ở các vùng nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới, bệnh thường bùng
phát vào mùa mưa. Trong một số nghiên cứu ở Hoa Kỳ, viêm tiểu phế quản
chiếm đến 60 phần trăm các trường hợp viêm đường hô hấp dưới ở trẻ em
dưới một tuổi.
Bệnh nặng hay vừa thường cần phải nhập viện, bệnh nhẹ có thể được
chữa ở nhà, thường gặp nhất ở tuổi hai đến sáu tháng, và chiếm tỉ lệ
cao ở trẻ em dưới năm tuổi.
Bệnh nhân càng nhỏ thì càng dễ bị nhập viện hơn. Trong một nghiên
cứu lớn ở Hoa Kỳ, kéo dài đến 17 năm, từ 1980 đến 1996:
- Tỉ lệ cần phải nhập viện ở trẻ dưới một tuổi chiếm đến 81 phần
trăm tổng số các trường hợp cần nhập viện do viêm tiểu phế quản
Viêm tiểu phế quản. Photo courtesy
healthgate.partners.org
- Và tỉ lệ phải nhập viện ở trẻ dưới sáu tháng chiếm đến 57 phần
trăm các trường hợp nhập viện do viêm tiểu phế quản
Các nguyên nhân thường gặp của viêm tiểu phế quản cấp ở
trẻ em?
Ở trẻ em nhỏ, là lứa tuổi thường bị viêm tiểu phế quản cấp nhất,
nguyên nhân thường gặp nhất là một loại vi rút (còn gọi là siêu vi
trùng) có tên gọi chuyên môn là RSV. Loại vi rút này thường chỉ gây
cảm nhẹ ở người lớn hoặc trẻ lớn, nhưng có thể gây triệu chứng nặng
hơn nhiều ở trẻ nhỏ.
Các yếu tố nguy cơ khiến trẻ dễ bị nhiễm loại vi rút này hơn, là
những trẻ đi nhà trẻ, ở nhà có đông người, có các anh chị đi nhà trẻ,
bị hít khói thuốc. Ngay cả nếu không có yếu tố nguy cơ nào như kể
trên, theo các thống kê ở Hoa Kỳ, thường thì đến khi lên ba tuổi, trẻ
cũng đã bị nhiễm vi rút RSV ít nhất là một lần.
Các nguyên nhân gây ra viêm ra tiểu phế quản ở trẻ nhỏ ít gặp hơn,
là các loại vi rút khác có tên gọi là adenovirus, parainfluenza, vi
rút cúm... Một loại vi trùng thỉnh thoảng cũng có thể gây ra các cơn
khò khè ở trẻ em, là loại vi trùng viêm phổi có tên gọi là Mycoplasma.
Bệnh viêm tiểu phế quản cấp ở trẻ em thường biểu hiện ra
sao?
Trong các trường hợp điển hình, thường gặp nhất do loại vi rút RSV
gây ra, ở các trẻ sơ sinh, đầu tiên các bé thường chỉ có các triệu
chứng như bị cảm nhẹ thông thường. Tuy nhiên, sau khoảng hai đến ba
ngày, triệu chứng có thể trở nặng lên, bao gồm sốt, chảy mũi nặng, ho
nặng, tiếng ho lớn và khô, được mô tả như là tiếng chó sủa, bị khò
khè, thở nhanh và nông. Nặng hơn, bé có thể sẽ bỏ ăn, bỏ chơi, có vẽ
lo lắng, sợ hãi.
Hầu hết các bé sẽ phục hồi hoàn toàn trong vòng một đến hai tuần,
các triệu chứng khó thở có thể được cải thiện trong vòng vài ba ngày.
Nếu khó thở nặng, ta có thể nhìn thấy cánh mũi của bé phập phồng,
các xương sườn và khoảng giữa các xương sườn, cũng như lõm trên xương
đòn gánh ở vai, bị co kéo mỗi khi bé thở, khoảng bụng dưới chấn thủy
bị co kéo. Bé có thể bị tím, tái ở môi, các đầu ngón tay. Ngay khi vừa
mới thấy các dấu hiệu khó thở , cha mẹ cần đưa bé đi bệnh viện hoặc
gặp bác sĩ ngay.
Cần chú ý là nhiều khi, do tiểu phế quản viêm nặng quá, ta có thể
không nghe được tiếng khò khè, do đó, nếu thấy bệnh có vẽ trở nặng, bé
bỏ ăn, bỏ chơi, lo lắng, sợ hải, tốt nhất là nên cho đi gặp bác sĩ
ngay.
Trong các trường hợp vừa hoặc nặng, bé có thể cần phải được nhập
viện để được điều trị thích hợp và giảm nguy cơ tử vong do suy hô hấp
cấp tính.
Một số nghiên cứu ở Hoa Kỳ cũng cho thấy là trẻ bị viêm tiểu phế
quản cũng thường bị viêm tai giữa. Có nghiên cứu ở các trẻ sơ sinh bị
nhập viện vì viêm tiểu phế quản, cho thấy là đến 53 phần trăm các trẻ
này cũng bị viêm tai giữa trong vòng hai ngày đầu sau khi nhập viện.
Bệnh thường bị nặng ở những trường hợp nào?
Độ nặng của bệnh phụ thuộc vào một số yếu tố: - Tuổi của bé càng
nhỏ thì càng dễ bị nặng hơn
- Bé cũng sẽ dễ bị nặng hơn nếu đã có sẵn các bệnh khác như bệnh tim
bẫm sinh, bệnh phổi mạn tính, bị suy giảm miễn dịch
- Trẻ sinh non, phổi chưa đủ trưởng thành cũng sẽ dễ bị nặng
- Trong một số nghiên cứu, triệu chứng sốt cao trên 38 độ C hoặc hai
lần đo trên 37.8 độ C ở trẻ sơ sinh, cũng là một yếu tố giúp tiên đoán
bệnh sẽ có thể nặng hơn
Các trường hợp nặng cũng thường gặp hơn ở các em trai so với các em
gái, ở các trẻ sống ở các vùng đô thị (thường bị ô nhiễm hơn) so với
các trẻ ở thôn quê.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức
khoẻ. Cho các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc
trực tiếp với bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Hậu quả của cắt Amiđan và trị bệnh viêm phế quản cấp
2006.04.14
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng - Trà Mi
Hậu quả của cắt Amiđan
Hỏi: “Như đã biết Amiđan sẽ có chức năng tạo ra một
phần trong hệ miễn dịch của cơ thể. Trong trường hợp phải cắt bỏ Amiđan thì
nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến những lần nhiễm trùng về sau, và tuổi thọ
của người đã bị cắt Amiđan với người chưa bị cắt Amiđan có chênh lệch quá
lớn?
Bệnh viêm phế quản cấp. Photo courtesy childrenscentralcal.org
Đáp: Có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của việc cắt bỏ
amiđan với tỉ lệ viêm họng tái phát. Trong một nghiên cứu
tương đối điển hình trên 187 trẻ bị nhiễm trùng họng tái phát nhiều
lần, kết quả cho thấy, so với trẻ cũng bị nhiễm trùng tương tự mà không được
cắt amiđan:
- Tỉ lệ nhiễm trùng họng trong vòng hai năm đầu sau khi cắt amiđan thấp
hơn một cách đáng kể ở nhóm được cắt so với nhóm không được cắt amiđan.
- Sự khác nhau ở năm thứ ba không đáng kể bằng, dù rằng nhóm được cắt
cũng có tỉ lệ nhiễm trùng ít hơn.
- Tuy nhiên, ở nhóm được cắt amiđan, tỉ lệ bị các biến chứng liên quan
đến phẩu thuật này lên đến 14 phần trăm, dù rằng tất cả các trường hợp biến
chứng này đều được chữa trị thoả đáng hoặc tự khỏi.
- Ngay ở nhóm bị viêm amiđan tái phát trầm trọng nhiều lần mà không được
cắt amiđan, số lần nhiễm trùng vào các năm sau đó cũng thường giảm xuống
đáng kể với các điều trị không phẩu thuật.
- Do đó mà chỉ định cho việc cắt amiđan tương đối giới hạn: chỉ nên cắt
khi bị viêm amiđan hơn sáu lần trong một năm hay ba, bốn lần mỗi năm trong
hai năm liên tiếp.
Mời quý thính giả tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Mọi email xin gửi
về Vietweb@rfa.org
Chúng tôi chưa đọc được nghiên cứu nào khảo sát về sự khác nhau về tuổi
thọ giữa người được cắt amiđan với người không bị cắt amiđan.
Chẩn đoán và trị viêm phế quản cấp
Xin nói chi tiết hơn về các nguyên nhân của viêm phế quản cấp? Nguyên
nhân thường gặp nhất là nhiễm vi rút ở đường hô hấp trên. Trong một số
trường hợp, viêm phế quản cấp có thể gây ra bỡi vi trùng, đôi khi do những
vi trùng thường gây ra viêm phổi.
Tuy nhiên các trường hợp này thường chỉ xảy ra ở những người đã bị tổn
thương đường hô hấp trên (như là những người bị đục lổ ở khí quản hay những
người đã bị đặt ống thở máy, trong các trường hợp suy hô hấp trầm trọng),
hoặc ở những người viêm phế quản mạn tính trở nên trầm trọng lên
Viêm phế quản do vi rút thường do những vi rút nào? Có loại nào
nguy hiểm cần phải chú ý hơn? Thường được điều trị ra sao?
Các vi rút thường gây ra viêm phế quản cấp cũng thường là các vi rút
thường gây ra viêm đường hô hấp trên.
Trong số đó, vi rút gây ra cúm được coi là tương đối nguy hiểm hơn, vì nó
gây ra tỉ lệ bị bệnh nặng hoặc tử vong cao hơn. Đặc điểm của viêm phế quản
gây ra do vi rút cúm là ho có đờm, sốt và các triệu chứng cúm thường gặp
khác như đau nhức mình mẩy, xảy ra trong mùa cúm. Nếu được trị trong vòng 48
tiếng đồng hồ đầu tiên với các thuốc diệt vi rút cúm, bệnh có thể sẽ nhẹ hơn
và mau hết hơn.
Viêm phế quản do vi trùng thường do những vi trùng nào? Các
triệu chứng có khác với viêm phế quản do vi rút hay không? Và giữa các loại
vi trùng, triệu chứng khác nhau như thế nào?
Trong một tổng hợp tất cả các nghiên cứu đã được công bố tư năm 1966 đến
195, ba loại vi trùng thường gây ra viêm phế quản cấp và nhạy với thuốc
kháng sinh nhất là Mycoplasma pneumonia, Chlamydia pneumonia và vi trùng gây
ho gà. Ngay cả ở những người đã được chích ngừa ho gà, cũng có thể bị viêm
phế quản do vi trùng này.
Các trường hợp viêm phế quản do vi trùng kể trên thường gây ra triệu
chứng ho kéo dài hơn vài tuần. Do đó nếu thấy ho, sốt hơn vài tuần không
khỏi với các thuốc cảm thông thường, ta nên đến bác sĩ để được chẩn đoán
chính xác và điều trị thích hợp.
Điều trị các loại viêm phế quản do vi trùng khác nhau này có
khác nhau hay không?
Điều giống nhau trong việc điều trị các bệnh gây ra do vi trùng, là việc
cần dùng kháng sinh. Đối với vi trùng khác nhau, có thể cần các loại kháng
sinh khác nhau. Kháng sinh nên được kê toa bỡi bác sĩ, và do đó ta không
thật cần thiết phải biết tên các kháng sinh này.
Viêm phế quản thường gây ra ho là triệu chứng chính. Những bệnh
nào cũng thường gây ra ho, chữa trị ra sao?
Các bệnh đường hô hấp thường gây ra ho, trong đó các bệnh tương đối nguy
hiểm là viêm phổi, lao phổi và cúm.
Nhiều trường hợp ho mạn tính, tức là ho kéo dài trên ba tuần thường được
gây ra bỡi hội chứng nhỏ giọt sau mũi, suyễn, và bệnh trào ngược a xít từ
bao tử lên thực quản. Trong một nghiên cứu các trường hợp ho kéo dài trung
bình là trên bảy năm, ba nguyên nhân trên chiếm đến 90 phần trăm các nguyên
nhân.
- Hội chứng nước mũi nhỏ giọt từ lỗ mũi sau xuống họng,
- Gây ra triệu chứng dính dính ở họng khiến bệnh nhân cứ phải khịt mũi, hắng
giọng
- Hội chứng này có thể gây ra bỡi cảm lạnh, viêm mũi dị ứng, viêm mũi vận
mạch, viêm xoang, một nhóm thuốc trị cao huyết áp
Tùy theo nguyên nhân, bác sĩ sẽ đưa ra các cách điều trị khác
nhau:
- Hen suyễn
- Thường gây ra triệu chứng khò khè, nhất là khi thở ra
- Cách giản tiện nhất để chẩn đoán bệnh này là bác sĩ cho dùng thử thuốc trị
suyễn trong vòng khoảng một tuần, nếu thấy bệnh thuyên giảm, thì nhiều khả
năng đó chính là bệnh suyễn
- Có nhiều xét nghiệm, thử chức năng phổi, có thể giúp xác định chẩn đoán
suyễn, tuy nhiên cách giản tiện nhất và tốt nhất đang được sử dụng, chính là
điều trị thử, nếu bệnh khỏi trong vòng một tuần với thuốc suyễn, chẩn đoán
có thể được xác định
Bệnh trào ngược acid từ bao thử lên thực quản và họng. Là một nguyên nhân
rất thường gặp của ho, có thể xảy ra trong đến 40 phần trăm các bệnh nhân bị
ho mạn tính. Triệu chứng thường gặp là ợ chua, tuy nhiên vẫn có tới 40 phần
trăm các bệnh nhân bị bệnh trào ngược axít mà lại không có triệu chứng ợ
chua. Cách chẩn đoán tốt nhất vẫn là điều trị thử
Xin tóm tắt những điều quan trọng nhất
Viêm phế quản cấp thường gây ra bỡi vi rút và đa số có thể tự khỏi, chỉ
cần trị bằng các thuốc chữa triệu chứng, có thể tự khỏi.
Tỉ lệ bị viêm phế quản cấp do vi trùng rất thấp. Do đó không bắt buộc cứ
thấy ho, đau họng, có đàm là phải uống kháng sinh. Chỉ nên uống kháng sinh
khi được khám và kê toa bởi bác sĩ.
Nếu thấy ho kéo dài trên vài tuần hoặc ho với sốt cao, khó thở, nên đi
gặp bác sĩ sớm để được chẩn đoán và điều trị thích hợp.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ của quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Người dân Việt Nam không quan tâm đến những tác hại của thuốc lá
2006.04.09
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ hút thuốc lá cao nhất thế
giới. Nguyên nhân vì người dân chưa hiểu rõ được hết những tác hại của thuốc
lá đối với sức khoẻ hay là vì hút thuốc đã trở thành thói quen không thể
thiếu của đàn ông Việt Nam?
Trao đổi với chúng tôi, anh Toàn, một cán bộ y tế thuộc Trung tâm truyền
thông giáo dục sức khoẻ thành phố nhận định về tình hình hút thuốc lá tại
Việt Nam cũng như những nguyên nhân nguyên nhân khiến cho tỷ lệ tìm đến khói
thuốc ngày một gia tăng:
“Tình trạng hút thuốc lá tại Việt Nam vẫn còn rất phổ biến ngay cả
những nơi công cộng và những nơi cấm hút thuốc mà người ta vẫn thản nhiên
hút thuốc. Nguyên nhân thứ nhất có lẽ vì ý thức người dân chưa cao, môi
trường dễ bị tác động bởi những người xung quanh.
Các phương tiện truyền thông có đề cập đến tác hại của thuốc lá nhưng
không nhiều và không đủ mạnh để tác động vào ý thức của người dân. Chỉ là
tuyên truyền suông thôi mà không đi sâu vào thực tế, không có luật nghiêm và
biện pháp chế tài xử phạt. Ngoài ra, những người lớn không làm gương cho thế
hệ trẻ.
Ở Việt Nam độ chừng 10 tuổi là có thể bắt đầu hút thuốc lá rồi. Rất nhiều
em cấp hai tập tành hút thuốc. Trẻ em cứ cầm tiền ra ngoài là mua được rượu
mua được thuốc, không có luật lệ nào cấm đoán cả.”
Đó là nhận xét của một người công tác trong lĩnh vực tuyên truyền-giáo
dục y tế cộng đồng về tình trạng hút thuốc lá tại Việt Nam.
Thế còn chính những người làm bạn với khói thuốc, có phải vì họ không
hiểu rõ những tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ hay là vì hút thuốc đã
trở thành thói quen cố hữu? Trà Mi có dịp hỏi thăm ông Tám Nâu, một nông dân
tại Đồng Tháp quanh năm vất vả đồng áng, chỉ biết mượn khói thuốc làm bạn
giải khuây. Ông cho biết.
Ông Tám Nâu: Mỗi ngày hút gần một gói thuốc. Có chuyện
buồn còn hút nhiều hơn nữa. Dân ở đây ai cũng hút hết trơn. Sáng dậy lớn nhỏ
đều uống ly cà phê là phải có điếu thuốc hút, không có thì buồn miệng lắm…
Trà Mi: Ông có biết là thuốc lá có những ảnh hửơng
không tốt nguy hại đến sức khoẻ của mình không?
Ông Tám Nâu: Có biết chứ. Hút vô nhiều khi mệt, khó thở,
đàm nhiều, nhiều khi nó làm mình mất trí nhớ, bần thần trong người..biết là
sau này nó sẽ ung thư , ai cũng biết vậy mà vẫn hút như thường. Bỏ không
được…Làm sao bỏ?
Trà Mi: Thế ông có nghe nói đến những loại thuốc
hoặc kẹo ngậm giúp cai nghiện thuốc lá không?
Ông Tám Nâu: Không nghe nói. Không ai phản ứng vụ đó
hết. Nhiều người hút lắm. Sáng dậy mà không có điếu thuốc thì chịu không
được. Con nít ở đây 13,14 tuổi biết hút thuốc rồi…
Những biện pháp nào có thể giúp giải quyết tích cực tỷ lệ hút thuốc càng
ngày càng gia tăng tại Việt Nam? Giới chuyên môn có những đề nghị gì? Anh
Toàn cho biết quan điểm của mình: (Xin theo dõi toàn bộ phần âm thanh
bên trên)
Tuy có thể phòng ngừa được, nhưng thuốc lá hiện vẫn là nguyên nhân gây
chết người hàng đầu trên thế giới. Nó không những ảnh hửơng trực tiếp lên
những người hút mà còn gây tác hại đến những người bị hít phải khói thuốc. Ở
Việt Nam, đa số trường hợp ung thư phổi là do thuốc lá gây ra, nhất là ở nam
giới.
Chứng Ù Tai và Viêm Phế Quản Cấp
2006.04.07
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng - Trà Mi
Chứng Ù Tai
Câu hỏi của thính giả: Xin cho biết nguyên nhân gây
ra ù tai, bị lâu ngày có ảnh hưởng đến sức khoẻ không, và cách chữa trị ra
sao?
Chứng Ù Tai. Photo courtesy American Hearing Research Foundation.
Đáp: Ù tai có thể biểu hiện ra sao. Ù tai có thể là
tiếng “u u”, reng như tiếng chuông, “xì xì” như gió thổi, hoặc có thể là
những tiếng động khác mà ta cảm nhận được trong khi không có tiếng động nào
như vậy bên
như vậy bên ngoài lúc đó cả. Nó có thể là cảm giác của cả hai tai hay chỉ
một tai, nghe như ở trong đầu hay từ xa xăm.
Ù tai có thể liên tục hay không liên tục. Dù cả hai đều có thể làm cho
người bị ù tai rất khó chịu, loại ù tai không liên tục, lúc có lúc không,
thường không liên quan đến các vấn đề sức khoẻ ít trầm trọng hơn.
Theo một số thống kê ở Hoa Kỳ, có tới khoảng một phần sáu dân số Mỹ bị ù
tai, trong số đó, có khoảng một phần tư bị ù tai trầm trọng đến mức làm cản
trở các hoạt động hàng ngày của người bệnh.
Ù tai thường gặp hơn ở đàn ông, và thường gặp hơn ở người lớn tuổi. Cũng
theo một số nghiên cứu ở Mỹ, ù tai thường gặp nhất trong khoảng tuổi 40 đến
70, trong đó, chỉ một phần trăm những người dưới 45 tuổi có bị ù tai, tỉ lệ
này là 12 phần trăm ở những người từ 60 đến 69 tuổi, và 25 đến 30 phần trăm
ở những người 70 đến 79 tuổi.
Nguyên nhân của chứng ù tai
Đầu tiên cần phân biệt giữa ù tai với ảo thính. Ù tai đã được định nghĩa
trên đây, còn ảo thính là cảm giác nghe thấy những tiếng động có ý nghĩa,
như có ai nói gì đó với ta, hoặc tiếng nhạc, trong khi thật sự không có
những tiếng động đó.
Mời các bạn tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Mọi email xin gửi về
Vietweb@rfa.org
Ảo thính có thể là một trong những triệu chứng của bệnh tâm thần phân
liệt, hoặc do một số bệnh tâm thần hay thể chất khác, nó cũng có thể là biến
chứng của một số thuốc.
Có thể phân biệt ù tai thật sự thành hai nhóm chính: chủ quan và khách
quan
Ù tai khách quan
Là loại ù tai mà không chỉ bệnh nhân, mà cả bác sĩ cũng có thể nghe thấy.
Loại này hiếm gặp, thường gây ra bỡi các rối loạn về mạch máu hoặc các cơ
thần kinh, u bướu trong đầu, cổ, hay não, hoặc các khiếm khuyết của một số
cấu trúc của tai. Ù tai có thể cảm giác như mạch đập, hoặc có thể đồng nhịp
với nhịp tim. Bị ù tai như tim đập cần được chẩn đoán bỡi bác sĩ chuyên khoa
càng sớm càng tốt, vì đây có thể là triệu chứng của một bệnh nguy hiểm.
Ù tai chủ quan
Là những tiếng ù chỉ có bệnh nhân cảm thấy. Loại này chiếm đại đa số (95
phần trăm) các trường hợp ù tai. Trong số này, hơn 60 phần trăm trường hợp
không thể tìm ra nguyên nhân dù là có làm các xét nghiệm phức tạp. Trong số
các trường hợp có thể tìm ra nguyên nhân, các nguyên nhân thường gặp nhất
là:
Do tuổi cao. Một phần của ù tai có thể liên quan với sự lãng tai ở người
lớn tuổi do sự thoái hoá của thần kinh liên quan đến thính giác
Do ảnh hưởng của tiếng ồn quá độ. Ví dụ như những công nhân làm việc
trong các hãng xưởng với nhiều máy móc ồn ào, nhạc sĩ nhạc rock, lính trận
thường xuyên phải chịu đựng tiếng súng, những người làm trong phi trường,
vân vân
- Bệnh Méniere, là một bệnh của tai trong, với các cơn chóng mặt, mất thính
lực, ù tai
- Do ráy tai hoặc dị vật làm nghẹt tai
- Bất thường của ống tai
- Viêm tai giữa đi kèm với tràn dịch gây ra điếc do tổn thương sự dẫn truyền
tiếng động trong tai
- Xơ cứng các xương tai, cũng là một nguyên nhân gây điếc do tổn thương sự
dẫn truyền tiếng động trong tai
- Do thay đổi của huyết áp
- Các bệnh nội tiết, như bệnh tiểu đường hay các bất thường của tuyến giáp
- Tổn thương vùng đầu cổ
- Bất thường của vùng khớp hàm thái dương
Thuốc men, cũng là một trong các thủ phạm rất thường gặp gây ra ù tai.
Một số thuốc thường gặp có thể gây ra ù tai:
- Aspirin
- Một số thuốc chữa cao huyết áp
- Một số thuốc kháng sinh
- Một số thuốc trị trầm cảm và lo lắng
- Một số thuốc antihistamine
- Một số thuốc giảm đau, chống viêm
- Một số thuốc an thần
- Bướu thần kinh thính giác, nếu không được cắt bỏ kịp thời, có thể chèn ép
thần kinh, gây điếc
Ảnh hưởng của chứng ù tai đến sức khoẻ
Triệu chứng ù tai, có thể gây ra nhiều vấn đề, ví dụ:
- Mất ngủ
- Mất tập trung
- Trầm cảm
- Bực bội, vân vân
- Ngoài ra, các bệnh gây ra ù tai, cũng có thể gây ra điếc, chóng mặt, buồn
nôn...
Cách chữa chứng ù tai:
Điều quan trọng nhất là chữa nguyên nhân kịp thời và thích hợp, đặc biệt
là những người bị ù tai không cân xứng giữa hai tai, hoặc chỉ bị ù một bên
tai, hoặc bị ù tai liên tục. Nếu bác sĩ chuyên khoa tai không tìm ra nguyên
nhân của ù tai, một số phương pháp có thể giúp làm giảm ù tai, dù nhiều
phương pháp chưa được chứng minh rõ ràng bằng các nghiên cứu khoa học. Một
số trong số này có thể được tự thực hiện ở nhà một cách dễ dàng. Ví dụ như:
- Thể dục đều đặn, giúp cho máu đến vùng đầu cổ đầy đủ hơn
- Tránh rượu và những thứ có rượu, thuốc lá, chất caffeine, phó mát. Vì các
thứ này có thể làm ù tai tệ hơn
- Ăn bớt mặn
- Nghỉ ngơi đầy đủ
- Tránh tiếng ồn
- Kiểm soát huyết áp đúng mức
- Thư giãn, ví dụ như tập dưỡng sinh
- Dùng các tiếng động nhẹ nhàng khác để “đè” tiếng ù, như nghe nhạc nhẹ,
dùng tiếng quạt máy, nhất là vào giờ đi ngủ
- Các bác sĩ cũng có thể dùng thuốc men hoặc một số phương pháp chuyên môn
khác để giúp ta giảm hoặc khỏi ù tai.
Viêm Phế Quản Cấp
Tại sao lại nói về viêm phế quản cấp? Đây là một trong những bệnh thường
gặp nhất ở Việt Nam Đây cũng là một trong những tình trạng khiến bệnh nhân
đến thăm bác sĩ nhiều nhất. Mặc dù viêm phế quản cấp thường gây ra bỡi vi
rút, bệnh nhân thường được cho kháng sinh. Và, do đó, đây cũng là một trong
những tình trạng mà kháng sinh bị lạm dụng nhiều nhất.
Phế quản là gì?
Phế quản cũng thường được gọi là cuống phổi, là hai ống lớn nhất nối khí
quản với phổi. Không khí sau khi được hít qua mũi hoặc miệng, sẽ qua họng,
xuống thanh quản, khí quản, rồi qua phế quản trước khi vào các nhánh dẫn khí
nhỏ hơn, để vào phổi.
Viêm phế quản cấp là gì?
Là tình trạng bị viêm cấp tính của phế quản. Thường gây ra ho, có đàm,
thường xảy ra trong bệnh cảnh của một trận cảm, viêm đường hô hấp trên, tức
là viêm mũi, họng, amiđan.
X quang phổi loại trừ viêm phổi sẽ giúp khẳng định chẩn đoán của viêm phế
quản. Tuy nhiên, bác sĩ thường không cần phải dùng đến phim X quang phổi để
chẩn đoán viêm phế quản.
Viêm phế quản cấp cần được phân biệt với viêm phế quản mạn ở những người
hút thuốc hoặc bị các bệnh phổi kinh niên. Viêm phế quản mạn cũng gây ra ho
có đàm, nhưng kéo dài hơn ba tháng mỗi năm trong hai năm liên tiếp, và các
bệnh phổi khác đã được loại trừ.
Các nguyên nhân của viêm phế quản cấp?
Như đã nói, đại đa số các trường hợp viêm phế quản cấp gây ra bỡi vi rút,
cũng thường là các vi rút gây ra cảm. Vi trùng chỉ là nguyên nhân một số rất
ít các trường hợp viêm phế quản.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp.
Ai cần chích ngừa Viêm Phổi và cách trị Viêm Họng và Viêm Amiđan Cấp
2006.03.31
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng - Trà Mi
Trả lời thính giả: Ai cần chích ngừa Viêm Phổi
Tim và phổi. Photo courtesy wikipedia.
Hỏi: Xin cho biết nếu bị bệnh suyển thì có thể chích
ngừa viêm phổi được không? Và những ai không thể chích ngừa viêm phổi?
Đáp:
Suyễn không phải là một tình trạng khiến ta thật cần phải chích ngừa viêm
phổi. Chỉ những người bị suyễn cùng với viêm phế quản mạn tính, khí phế
thủng, hoặc dùng thuốc corticosteroid như prednisone, mới cần phải chích
ngừa viêm phổi.
Nói chung, những người không thể chích ngừa viêm phổi là những người bị
dị ứng với thuốc hoặc các thành phần của thuốc chích ngừa. Những ngừa đang
bị các bệnh gây sốt cần chờ đến khi khỏi bệnh mới nên chích ngừa.
Thuốc chích ngừa viêm phổi, nói chung và một cách rất giản lược, có hai
loại: Một loại dành cho trẻ em và một loại dành cho người lớn, bác sĩ sẽ
hướng dẫn cụ thể ở tuổi nào thì dùng loại thuốc nào. Tổng cộng, cho tới nay,
người ta biết có 80 loại vi trùng viêm phổi khác nhau, loại thuốc ngừa cho
trẻ em phòng được 7 loại, loại chích ngừa cho người lớn phòng được 23 loại.
Một số điều cần phải chú ý khi chích ngừa viêm phổi:
- Những người bị rối loạn đông máu, không nên chích vào bắp thịt (vì sợ
máu chảy không cầm được) mà nên chích dưới da
- Những người bị bệnh tim mạch hoặc bệnh phổi trầm trọng, khi chích ngừa,
nếu bị phản ứng, phản ứng sẽ nguy hiểm hơn, do đó, người chích sẽ phải cẩn
thận hơn, không nên chích khi đang bị bệnh nặng, và cần chuẩn bị sẵn sàng
hơn các thuốc và phương tiện cấp cứu, để nếu có phản ứng, sẽ có thuốc chữa
phản ứng ngay lập tức
Mời bạn tham gia mục Sức khoẻ và Đời sống. Mọi email xin gửi về
Vietweb@rfa.org
- Những người bị viêm phổi trong vòng ba năm cũng có nhiều kháng thể hơn
với loại viêm phổi mà người đó đã bị, và do đó cần phải cẩn thận hơn vì với
các kháng thể này, sẽ tương đối dễ bị phản ứng với thuốc chích ngừa hơn
- Những người bị các bệnh cần phải dùng các thuốc làm giảm miễn dịch của
cơ thể (ví dụ như những người bị một số ung thư cần dùng hoá trị liệu, những
người cần thuốc chống thải ghép sau khi được ghép các bộ phận như gan,
thận...), những người sắp được cắt bỏ lá lách, nên được chích ngừa ít nhất 2
tuần trước khi bắt đầu điều trị
- Những bệnh nhân bị nhiễn vi rút HIV (Siđa), nên được chích ngừa viêm
phổi càng sớm càng tốt sau khi chẩn đoán đã được khẳng định
Theo các khuyến cáo hiện hành ở Hoa Kỳ, những người sau đây cần
được chích ngừa viêm phổi, nên chích loại thuốc nào sẽ do bác sĩ quyết định
dựa vào hướng dẫn của các hãng sản xuất thuốc
- Tất cả những người từ 65 tuổi trở lên. Nếu đã được chích ngừa trước 65
tuổi, sẽ cần phải chích bồi một mũi thuốc nữa nếu mũi trước chích đã quá 5
năm
- Những người từ 2 trở lên với các tình trạng sau đây:
+ Các bệnh tim mạch,hoặc bệnh phổi kinh niên, hoặc bệnh tiểu đường, hoặc
được cấy ốc tai (là một ống hình xoắn ốc ở tai trong) để trị điếc, bệnh gan
kinh niên, nghiện rượu, bị rò dịch não tủy. Nếu đã được chích ngừa trước 65
tuổi, sẽ cần phải chích bồi một mũi thuốc nữa nếu mũi trước chích đã quá 5
năm
+ Những người bị cắt lá lách hoặc lá lách không hoạt động. Nếu bệnh nhân
lớn hơn 10 tuổi, sẽ cần một mũi chích bồi ít nhất năm năm sau đó, nếu từ 10
tuổi trở xuống, sẽ cần chích bồi một mũi ít nhất là ba năm sau đó.
+ Bị bệnh suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV, ung thư máu (leukemia,
lymphoma, Hodgkin's disease), đa u tuỷ (multiple myeloma), hoặc ung thư khác
nói chung, suy thận mạn tính, kể cả những người cần lọc thận, những người
cần trị liệu làm giảm miễn dịch, những người đã được ghép cơ quan hoặc ghép
tuỹ. Nếu bệnh nhân lớn hơn 10 tuổi, sẽ cần một mũi chích bồi ít nhất năm năm
sau đó, nếu từ 10 tuổi trở xuống, sẽ cần chích bồi một mũi ít nhất là ba năm
sau đó.
- Loại thuốc chích ngừa cho trẻ em (PCV-phòng được 7 loại vi trùng viêm
phổi), ở Hoa Kỳ, được khuyến cáo nên chủng cho các trẻ em dưới 24 tháng tuổi
cũng như các trẻ em từ 24 đến 59 tháng tuổi với các bệnh đã được kể trên
Cách trị Viêm Họng và Viêm Amiđan Cấp
Viêm Amidan. Photo courtesy wikipedia.
Kỳ trước chúng ta đã nói có hai nhóm nguyên nhân quan trọng nhất gây ra
viêm họng và viêm amiđan, là vi rút chiếm đại đa số khoảng 85 phần trăm các
trường hợp, và khoảng 10 phần trăm là do vi trùng strep. Việc điều trị của
hai nhóm nguyên nhân này có khác nhau hay không, và khác nhau như thế nào?
Nói chung, ở những người bị viêm họng hoặc viêm amiđan do vi rút chỉ cần
trị các triệu chứng. Còn nếu do vi trùng thì bên cạnh việc trị triệu chứng,
người bệnh cần được trị bằng kháng sinh.
Nên chữa các triệu chứng này như thế nào?
Các triệu chứng như đau họng, sốt, ho, thường có thể được chữa bằng các
thuốc giảm đau, giảm sốt không cần toa như acetaminophen, súc miệng và họng
bằng nước ấm hoặc nước ấm pha muối thật loãng, uống nhiều nước, và nghỉ
ngơi. Cần chú ý là nếu súc họng bằng nước muối thì cần pha nước muối loãng,
chỉ mặn như nước mắt của mình, nước muối quá mặn có thể kích thích cổ họng
làm đau và ho nhiều hơn.
Làm sao biết được khi nào thì cần dùng kháng sinh?
Cách tốt nhất là lấy một mẩu chất tiết ở họng để tìm kháng thể của vi
trùng hoặc cấy để xem trực tiếp có vi trùng hay không.
Nếu không có điều kiện để làm các xét nghiệm kể trên, các bác sĩ có thể
tạm dựa vào các triệu chứng để quyết định việc sử dụng kháng sinh. Có 4
triệu chứng thường liên quan với viêm họng do vi trùng là sốt, sưng amiđan,
sưng đau các hạch ở phía trước cổ, và không bị ho.
- Nếu bệnh nhân chỉ có một hoặc không có dấu hiệu nào như trên thì hầu
như không cần dùng kháng sinh, ngay cả không cần phải xét nghiệm tìm vi
trùng strep
- Nếu có hai đến ba dấu hiệu kể trên thì cần xét nghiệm tìm kháng thể của
vi trùng rồi trị kháng sinh nếu xét nghiệm cho thấy có vi trùng
- Nếu có đủ cả bốn hoặc ít nhất là ba trong số bốn dấu hiệu kể trên thì
có thể dùng kháng sinh ngay
Một số nghiên cứu cho thấy ngay cả chỉ trị khi có ba hoặc bốn dấu hiệu kể
trên, cũng đã có ít nhất 50 phần trăm đã bị trị bằng kháng sinh không cần
thiết. Nếu không xét nghiệm mà chỉ dựa vào triệu chứng như kể trên, cũng có
khoảng 10 đến 20 phần trăm bệnh nhân đã không được trị đúng bằng kháng sinh.
Tuy nhiên, ở người lớn, hậu quả của việc không dùng kháng sinh đúng lúc hầu
như không đáng kể, vì các biến chứng nguy hiểm thường ít gặp ở người lớn.
Ở trẻ em, các biến chứng do strep thường gặp hơn, nên việc dùng kháng
sinh cần được chú ý hơn, cách tốt nhất là cấy hoặc làm các phương pháp khác
để tìm vi trùng ở họng.
Các nguyên nhân khác gây viêm họng như vi rút HIV, vi trùng lậu, bạch
hầu, cúm, vân vân, sẽ cần được chú ý khi bệnh nhân có nguy cơ bị các bệnh
này hoặc có các triệu chứng đặc hiệu của các bệnh này.
Những mục đích của việc dùng kháng sinh là gì?
Bệnh viêm họng ngay cả do vi trùng strep cũng thường tự khỏi. Việc dùng
kháng sinh là nhằm các mục đích giảm các biến chứng tại chỗ và toàn cơ thể
gây ra do vi trùng strep, phòng ngừa vi trùng lây sang người khác, và kháng
sinh nếu dùng sớm cũng có thể làm giảm sự trầm trọng và thu ngắn thời gian
bị bệnh.
Như bác sĩ vừa nói, một trong những điều quan trọng nhất trong
việc dùng kháng sinh là để phòng các biến chứng nguy hiểm, xin nhắc lại các
biến chứng này?
Các biến chứng này có thể là:
- Bệnh thận
- Sốt thấp khớp (có thể làm tổn thương các van tim và có thể gây tử vong)
- Sự tạo thành các túi mủ (gọi là áp xe) ở amiđan và các vùng lân cận
Thuốc kháng sinh chích có tốt hơn thuốc uống hay không? Có phải
là thuốc kháng sinh mới và mắc tiền sẽ có hiệu quả hơn không?
Để trị viêm họng và amiđan chưa có biến chứng, thường chỉ cần dùng kháng
uống. Rất may là vi trùng strep gây viêm họng thường vẫn còn rất nhạy với
kháng sinh penicilin uống tương đối rất rẽ tiền. Trong đa số các trường hợp,
các kháng sinh mới mắc tiền chẳng có gì lợi hơn.
Làm sao để trị viêm họng và viêm amiđan bị tái đi tái lại?
Ở trẻ em bị viêm amiđan tái đi tái lại trên sáu lần một năm, hoặc trên
bốn lần một năm trong hai năm liên tiếp, thì cắt bỏ amiđan để loại bỏ ổ chữa
vi trùng sẽ là giải pháp.
Như đã nói, amiđan cũng là một phần của hệ miễn dịch của cơ thể, do đó,
chỉ nên cắt bỏ amiđan khi thật sự cần thiết, như đã nói trên.
Chương trình này chỉ nhằm cung cấp kiến thức tổng quát về sức khoẻ. Cho
các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với
bác sĩ cuả quí vị để được thăm khám trực tiếp
|