|
Hệ nội tiết ở động vật hữu nhũ |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Gs. Bùi Tấn Anh - Võ Văn Bé - Phạm Thị Nga |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chương IVHỆ
NỘI TIẾT Ở ÐỘNG VẬT HỮU NHŨ
Các hormone động vật thường
được gọi là chất truyền tin hóa
học. Chúng được tiết vào dịch cơ
thể (thường là vào máu) bởi các tế bào
chuyên biệt gọi là các tế bào nội tiết
hoặc bởi các tế bào thần kinh được
chuyên hóa gọi là tế bào thần kinh tiết
(neurosecretory cell). Các tế bào thần kinh tiết là
những tế bào thần kinh nhận các tín
hiệu từ những tế bào thần kinh khác và
đáp ứng bằng cách phóng thích hormone vào
dịch cơ thể hoặc vào một cơ quan
dự trữ để sau này các hormone được
phóng thích. Mặc dù một hormone có thể đi
đến tất cả các phần của cơ
thể nhưng chỉ một số loại tế bào
nhất định gọi là các tế bào đích
(target cell) mới có thể đáp ứng. Vì
vậy, mỗi hormone di chuyển trong dòng máu chỉ
tạo ra một đáp ứng chuyên biệt từ các
tế bào đích, trong khi các loại tế bào khác
không đáp ứng. Ngay cả một sự thay đổi
rất ít trong nồng độ của hormone cũng
có một tác động quan trọng đối
với cơ thể. I.
CÁC TUYẾN NỘI TIẾT VÀ CÁC HORMONE Các
tế bào nội tiết thường được
tập hợp thành một cơ quan gọi là
tuyến nội tiết. Ở động vật các
tuyến thường được phân biệt thành
hai loại: tuyến ngoại tiết và tuyến
nội tiết. Các tuyến ngoại tiết (exocrine
gland) sản xuất ra các chất như mồ hôi,
chất nhờn, các enzim tiêu hóa và phóng thích chúng
đến các vị trí thích hợp nhờ các
ống dẫn. Ngược lại các tuyến
nội tiết (endocrine gland) là những tuyến không
có ống dẫn. Chúng sản xuất ra các hormone và
tiết những chất nầy vào dịch cơ
thể. Trong
cơ thể người có hơn 50 hormone đã
được biết đến. Về bản
chất hóa học, những hormone nầy có thể
được chia thành hai loại: hormone steroid và
hormone dẫn xuất từ axit amin. Hormone steroid là các
phân tử lipid được hình thành từ
cholesterol. Hormone dẫn xuất từ các axit amin bao
gồm các hormone amin (dạng biến đổi
của một axit amin), hormone peptide (một sợi
ngắn gồm một ít axit amin) và hormone protein.
Mỗi hormone có một cấu trúc chuyên
biệt được nhận biết bởi các
tế bào đích. Bước đầu tiên trong
hoạt động của hormone là sự gắn
của chúng vào một thụ thể
(receptor) . Sự gắn hormone vào thụ thể
sẽ phát động đáp ứng của tế bào
đích đối với tín hiệu hormone. Các
hormone hỗ trợ cho các hoạt động đã
có sẵn, thường thông qua sự kích thích
hoặc ức chế hoạt động của các
enzim trong tế bào. Trong một số trường
hợp chúng tác động đến nhân tế bào
từ đó ảnh hưởng lên hoạt động
hoặc sự biểu hiện của gen. Trong các trường
hợp khác, chúng
ảnh hưởng lên tính thấm của tế bào
hoặc hoạt động của các enzim trong
tế bào chất.
Tác động sinh lý của các hormone thường
được chia thành bốn loại: (1) kiểm soát
sự tăng trưởng của cơ thể; (2)
điều hòa sự sinh sản, bao gồm cả
sự phát triển của các đặc tính sinh
dục thứ cấp; (3) duy trì sự cân bằng
nội môi; (4) cùng với hệ thần kinh điều
phối các hoạt động của cơ thể. II.
CÁC TUYẾN NỘI TIẾT CHÍNH Ở NGƯỜI Mặc
dù các tuyến nội tiết chính được
đề cập dưới đây là của người
song vẫn có những điểm tương đồng
rất lớn về tổ chức và chức năng
so với các tuyến nội tiết ở các động
vật có xương sống. Cấu trúc phân tử
của các hormone cũng đặc biệt giống
nhau ở các động vật hữu nhũ. Vị
trí các tuyến nội tiết chính của người
được mô tả ở hình 1.
Hình 1. Các tuyến nội tiết chính ở người
Tuyến
yên là một tuyến tương đối nhỏ,
nặng khoảng 0,5 g ở người. Chúng gắn
vào vùng dưới đồi (hypothalamus) ở đáy
não bằng một cuống. Tuyến nầy có hai
phần chính: thùy trước và thùy sau. Ngoài ra còn
có một thùy trung gian.
Thùy sau tiết ra hai hormone: vasopressin và oxytocin (Hình
2).
Hình 2. Oxytocin và vasopressin
Thùy trước tiết ra ít nhất bảy
hormone: (1) hormone tăng trưởng (GH= growth hormone);
(2) hormone kích thích vỏ thượng thận (ACTH =
adrenocorticotropin); (3) hormone kích thích tuyến giáp (TSH =
thyroid-stimulating hormone); (4) hormone kích thích tế bào
hắc tố (MSH = melanocyte-stimulating hormone); (5) hormone
lutein (LH = luteinizing hormone); (6) hormone kích thích bao noãn
(FSH = follicle-stimulating hormone); (7) prolactin. Tất cả
các hormone của tuyến yên đều là các peptid.
Vai trò của tuyến yên và các tuyến
nội tiết khác có thể được
chứng minh trong thực nghiệm bằng cách
cắt bỏ hoặc bằng liệu pháp thay
thế. Thí dụ khi tuyến yên của một con
khỉ chưa thành thục bị cắt bỏ, con
vật sẽ duy trì kích thước như cũ và
không thành thục sinh dục. Từ những quan sát
trên chúng ta biết rằng tuyến yên cần cho
việc kiểm soát sự tăng trưởng và
sự thành thục sinh dục bình thường.
Liệu pháp thay thế là tiêm chất trích từ
tuyến yên hoạt động vào một động
vật đã bị cắt bỏ tuyến làm khôi
phục lại chức năng bình thường.
Những nghiên cứu như thế chứng minh
rằng tuyến yên là nguồn của hormone tăng
trưởng. Bên cạnh sự tăng trưởng,
tuyến yên còn kiểm soát sự thành thục sinh
dục. Chín hormone của tuyến yên có thể
được chia thành hai nhóm chính, tùy thuộc vào
tuyến hoặc mô mà chúng tác động. Nhóm
thứ nhất bao gồm các hormone ACTH,TSH,FSH,LH,
tất cả đều là sản phẩm của thùy
trước. Các hormone nầy tác động lên các
tuyến nội tiết khác như tuyến giáp,
tuyến thượng thận và tuyến sinh dục
để điều phối chức năng của
những tuyến nầy. Nhóm thứ hai bao gồm GH,
MSH, prolactin,oxytoxin và vasopressin tác động trực
tiếp trên các mô đích không phải là mô nội
tiết. (Hình 3).
Thùy
sau của tuyến yên xuất phát từ một
phần của não phôi, duy trì mối liên hệ
chặc chẽ và chịu sự kiểm soát của
vùng dưới đồi, một phần của não
có rất nhiều tế bào thần kinh tiết.
Một chức năng của vùng dưới đồi
là sản xuất ra các tiền chất
(precursors) của oxytocin và vasopressin, những
chất nầy sau đó được hoạt hóa
trong thùy sau tuyến yên. Vùng dưới đồi cũng
sản xuất ra nhiều chuỗi polypeptide ngắn
gọi là các yếu tố kích thích tuyến yên
(hypophysiotropic factor). Các yếu tố nầy là
những hormone kích thích hoặc ức chế sự
phóng thích các hormone của thùy trước tuyến
yên. Chúng bao gồm TRH (TSH releasing hormone), GnRH
(gonadotropin releasing hormone), CRH (corticotropic releasing hormone),
Somatostatin và PIF (prolactin release inhibiting factor).
Ngoài việc chịu ảnh hưởng của
vùng dưới đồi, sự phóng thích hormone
của thùy trước tuyến yên để kích thích
một tuyến nội tiết khác (chẳng hạn
như tuyến giáp) còn bị ức chế bởi
sự tiết của tuyến đích khi chúng đạt
đến một nồng độ nhất định
trong dòng máu. Ðây là một thí dụ kinh điển
về mối liên hệ ngược âm tính sẽ
được đề cập chi tiết ở
phần sau. Những mối liên hệ khác nhau
được tóm tắt trong hình 4.
Hình 4. Tóm
tắt một số liên hệ giữa vùng dưới
đồi và tuyến yên Ở
người, tuyến giáp là một cặp tuyến
nằm phía trước khí quản, ngay dưới
thanh quản. Tuyến nầy tiết ra hormone thyroxine,
dẫn xuất có chứa iod của một loại
axit amin là tyrosine (Hình 5).
Hình 5. Công thức cấu tạo của Thyroxine
(T4)
Thyroxine có ảnh hưởng nhiều mặt
đến sự biến dưỡng ở động
vật trưởng thành và cũng ảnh hưởng
đến sự phát triển ở giai đoạn
phôi và giai đoạn còn non. Sự cắt bỏ
tuyến giáp (thyroidectomy) hoặc thiểu năng
tuyến giáp (sự thiếu một lượng thích
hợp của hormone) sẽ làm giảm tốc độ
biến dưỡng cơ bản của cơ
thể trong khi làm tăng nồng độ của
Na+ và nước trong dịch ngoại bào cũng như
nồng độ cholesterol trong máu.
Hoạt động tiết của tuyến giáp
thay đổi tùy theo mùa trong năm, tùy khẩu
phần dinh dưỡng và giai đoạn sinh sản
của động vật. Người và các động
vật hữu nhũ sản xuất nhiều thyroxine
vào các tháng lạnh trong năm. Ngược lại,
sự căng thẳng do xúc động, hoặc các
trường hợp chấn thương, xuất
huyết và tiếp xúc với các chất độc
sẽ làm giảm sự tiết thyroxine. Lượng
iod trong thức ăn cũng ảnh hưởng đến
việc sản xuất thyroxine. Nếu khẩu
phần thiếu iod, tuyến giáp sẽ đáp
ứng bằng cách gia tăng kích thước, gây ra
bệnh bướu cổ (hypothyroid goiter).
Bằng
thực nghiệm người ta đã chứng minh
được TSH kiểm soát hoạt động
của tuyến giáp. Sau khi cắt bỏ tuyến yên,
thyroxine chỉ còn lại trong máu dưới dạng
vết, và tuyến giáp có những biểu hiện
suy giảm hoạt động rất rõ. Tình
trạng nầy có thể được làm dịu
đi bằng cách tiêm các chất trích từ
tuyến yên hoặc tiêm TSH tinh khiết. Chức năng
của tuyến giáp bình thường phụ
thuộc vào sự tiết TSH của tuyến yên. Nhưng
cơ chế nào kiểm soát sự tạo thành và phóng
thích TSH? Các tế bào thể dịch thần kinh
của vùng dưới đồi tiết ra hormone
TRH, hormone nầy kích động sự tổng
hợp và phóng thích TSH của thùy trước
tuyến yên. Việc kiểm soát sự tiết
thyroxine được hoàn tất nhờ vòng liên
hệ ngược âm tính (negative feedback loop). Khi
mức thyroxine trong máu đạt đến mức
cực thuận, các tế bào sản xuất TSH
của tuyến yên và các tế bào thể dịch
thần kinh sản xuất TRH của vùng dưới
đồi sẽ bị ức chế, sự phóng thích
TSH bị giảm xuống. Thyroxine được duy
trì ở mức bình thường nhờ cơ
chế nầy (Hình 6). Năm
1961, một hormone khác của tuyến giáp là calcitonin
được phát hiện. Nó không có liên hệ
về hóa học và chức năng với TH. Aính hưởng
chính của calcitonin là ngăn chận sự gia tăng
quá mức nồng độ calci trong máu. Vì vậy,
nó hoạt động như một chất đối
kháng của các hormone cận giáp. Hình
6. Cơ chế kiểm soát hoạt động
của tuyến giáp
Ở
người, tuyến cận giáp là một cơ quan
nhỏ hình hạt đậu, gồm 4 hạt
nằm trên bề mặt tuyến giáp. Trong một
thời gian dài chúng được xem như là
một phần của tuyến giáp hoặc có quan
hệ chức năng với tuyến nầy. Tuy nhiên,
ngày nay người ta đã biết rõ chúng hoàn toàn
khác biệt về cả sự phát triển và
chức năng.
Các hormone cận giáp, thường được
ký hiệu là PTH (parathyroid hormone) là một hormone
dẫn xuất của protein. PTH cần cho sự
sống và các chức năng trong sự điều
hòa cân bằng calci-phosphate giữa máu và các mô khác.Thông
thường, nó là một yếu tố quan trọng
trong việc duy trì cân bằng nội môi (môi trường
dịch mô trong cơ thể). PTH làm tăng nồng
độ ion Calci, làm giảm nồng độ ion
Phosphate trong máu bằng cách tác động lên ít
nhất là ba cơ quan: thận, ruột già và xương.
Nó ngăn cản sự bài tiết ion Calci của
thận và ruột già trong khi kích thích sự phóng thích
ion calci cũng như ion phosphate từ xương vào
máu. PTH bù đắp lại lượng ion phosphate
bằng cách kích thích thận tiết ra chất
nầy.
Hình 7. Sự kiểm soát mức Calci huyết Ở người và động vật hữu nhũ, tuyến thượng thận gồm hai phần riêng biệt: phần vỏ (cortex) bên ngoài và phần tủy (medulla) bên trong. Hai phần nầy có nguồn gốc phát triển riêng biệt, phương thức kiểm soát và chức năng khác nhau. Phần vỏ tiết ra nhiều hormone steroid, gọi chung là corticosteroid (hormone vỏ thượng thận). Các hormone của vỏ thượng thận chịu sự kiểm soát của ACTH do thùy trước tuyến yên tiết ra. a.
Tủy thượng thận Tủy
thượng thận được hợp thành
bởi các tế bào thần kinh biến dạng.
Sản phẩm chính của những tế bào
nầy, chiếm khoảng 80% tổng số, là
epinephrine, tên thương mại là adrenaline (Hình 8A),
phần còn lại là norepinephrine (noradrenaline). Cả
hai thường được gọi chung là
catecholamines, có hiệu quả tương tự nhau.
Khi được phóng thích vào dòng máu,
epinephrine tạo ra một tình trạng cho cơ
thể động vật sẵn sàng chiến đấu
hoặc chạy trốn, nghĩa là khi động
vật gặp tình huống căng thẳng. Sự phóng
thích đột ngột epinephrine (chẳng hạn như
để đáp ứng với sự giận dữ
hay sợ hãi) làm tăng huyết áp, tăng lượng
máu cung cấp tới gan và cơ, tăng nồng
độ đường huyết, kích thích sự hô
hấp, làm giãn nỡ đường hô hấp và làm
tăng nhịp tim. Sự tăng huyết áp ở
những người thường xuyên bị căng
thẳng thường là do sự gia tăng lượng
catecholamin được phóng thích.
Vì tủy thượng thận xuất phát
từ các mô thần kinh trong giai đoạn phôi nên
nó có thể tác động nhanh, tức thì
(giống như phản xạ thần kinh) trong
sự tiết epinephrine. Không giống như phần
lớn các hormone khác, epinephrine có thể đạt
hiệu quả chỉ trong vài giây. b.
Vỏ thượng thận Vỏ
thượng thận tiết ra hai nhóm hormone:
glucocorticoids như là cortisol (Hình 8B) và mineralocorticoids
như là aldosterone (Hình 8C). Các glucocorticoid điều
hòa sự biến dưỡng đường và
đạm. Do chúng cũng làm giảm số lympho bào
trong cơ thể nên đôi khi chúng cũng được
dùng như các tác nhân ức chế miễn nhiễm
trong việc ngăn chận sự loại trừ các
cơ quan ghép. Các mineralocorticoid điều hòa cân
bằng nước và các chất điện ly trong
dịch cơ thể.
Hình 8. Một số hormone của tuyến thượng
thận Các
hormone của vỏ thượng thận rất
cần thiết cho sự sống. Sự thiếu các
hormone vỏ thượng thận thường
dẫn đến tình trạng suy nhược cơ,
giảm nồng độ đường huyết,
giảm huyết áp và nhiệt độ cơ
thể, mất nước, nồng độ các
tế bào máu cao hơn bình thường, suy thận.
Sự sản xuất các hormone của vỏ thượng
thận chịu sự kiểm soát của
hormone ACTH từ thùy trước tuyến yên.
Sự tổng hợp và phóng thích ACTH chịu sự
kiểm soát của hormone CRH từ vùng dưới
đồi. CRH lại chịu sự kiểm soát
của các phần khác ở não và cũng bị
ảnh hưởng bởi các hormone khác trong dòng máu. Bên
cạnh sự khác biệt trong hệ sinh dục, cơ
thể đực và cái cuả phần lớn các loài
còn khác biệt nhau ở các đặc tính sinh
dục thứ cấp. Chúng có thể khác nhau về
màu lông, hình dạng và kích thước bộ xương,
kiểu phân bố của lông trên cơ thể, âm
sắc và đặc biệt là tập tính. Các loài
mà giới đực và giới cái khác nhau về hình
thái hoặc cấu trúc cơ thể được
gọi là các loài lưỡng hình giới tính (sexual
dimorphism).
Sự phát triển của tất cả các
đặc tính sinh dục thứ cấp được
điều hòa bởi các hormone sinh dục testosterone
và estradiol. Testosterone là hormone sinh dục nam, được
tiết ra bởi dịch hoàn, kích động sự
phát triển của các đặc tính sinh dục thú
cấp ở giới đực trong khi estradiol,
một estrogen được sản sinh từ
buồng trứng, cần thiết cho sự phát
triển của các đặc tính sinh dục thứ
cấp ở giới cái. Giống như sự
tiết thyroxine, sự tiết của các hormone sinh
dục được điều hòa bởi các
hormone của thùy trước tuyến yên (trong trường
hợp nầy là FSH và LH) và các yếu tố
giải phóng được tạo ra từ vùng dưới
đồi. Chu kỳ sinh sản chịu ảnh hưởng
bởi xung thần kinh phát xuất từ não và
khớp với những thời điểm nhất
định trong năm, tháng hoặc ngày.
Một hormone sinh dục steroid khác là progesterone
được sản xuất bởi một mô đặc
biệt trong buồng trứng gọi là thể vàng
(corpus luteum). Progesterone rất quan trọng trong
việc duy trì sự mang thai. Nhau thai (placenta) hoặc
dạ con (womb) cũng có chức năng như
một tuyến nội tiết. Nó sản sinh ra
gonadotropin estrogen và progestin trong suốt quá trình mang
thai.
Sự kiểm soát hormone của chu kỳ kinh
nguyệt và sự có mang ở người sẽ
được thảo luận chi tiết ở chương
11.
Tuyến tụy là
một tuyến có chứa các tế bào ngoại
tiết, tiết ra dịch tiêu hóa, đồng
thời cũng có các mô nội tiết gọi là các
tiểu đảo Langerhans (islets of Langerhans). Các
tiểu đảo được hợp thành từ
hai loại tế bào: tế bào ( và tế bào (. Chúng
tiết ra các hormone insulin và glucagon.
Insulin ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến nhiều loại quá
trình sinh hóa. Chức năng chính của chúng là kích
thích sự tổng hợp glycogen ở thận và cơ
và làm cho tất cả các tế bào dễ dàng
sử dụng glucose. Thêm vào đó, insulin còn làm tăng
sự chuyển axit amin và glucose vào trong tế bào và
kích thích sự tổng hợp protein và lipid. Ở
những người thiếu insulin, axit amin và glucose
trong máu được duy trì ở mức cao hơn
bình thường. Nếu mức glucose trong máu tăng
vượt quá khả năng tái hấp thu của
thận, lượng glucose thừa sẽ bị
mất đi theo nước tiểu. Trường
hợp nầy gọi là bệnh
tiểu đường (diabetes), đặc trưng
bởi lượng đường cao trong nước
tiểu, cảm giác khát và đói kéo dài, dẫn
tới việc ăn uống quá độ.
Do protein và lipid bị phân giải, người
bị tiểu đường dần dần suy
yếu, và tình trạng này ngày càng trầm trọng
thêm do sự giảm dự trử glycogen trong gan và cơ.
Các thể Keton (do sự oxy hóa một phần
của chất béo vì lúc nầy chất béo trở
thành nguồn năng lượng) làm cho máu trở nên
quá acid. Thận không thể duy trì cân bằng ion bình
thường trong máu. Nếu tình trạng nầy kéo
dài, người bệnh tiểu đường
sẽ bị hôn mê, shock và chết. Một
hormone khác của tuyến tụy là glucagon kiểm soát
sự sử dụng đường theo một cách
khác. Như là một chất đối kháng với
insulin, glucagon kích thích sự phân giải của
glycogen trong gan và làm tăng nồng độ
đường huyết. Vì vậy insulin và glucagon có
ảnh hưởng trái ngược nhau trong việc
duy trì mức glucose trong máu ở một giới
hạn bình thường (Hình 9). Hình
9. Tác dụng của insulin và glucagon trong việc
kiểm soát đường huyết
Chúng ta đã lưu ý rằng epinephrine và các glucocorticoid cũng có ảnh hưởng đến mức độ đường huyết. Tác động qua lại của insulin, glucagon và những hormone nầy trong sự cân bằng đường huyết được sơ đồ hóa trong hình 10.
Hình 10. Kiểm soát sự biến dưỡng glucose trong trường hợp nồng độ đường huyết thấp III.
PHƯƠNG THỨC TÁC ÐỘNG CỦA CÁC HORMONE Các
hormone đi vào trong các tế bào đích theo
nhiều cách khác nhau. Một số
hormone như các hormone steroid trực tiếp xuyên qua màng
tế bào hoặc gắn vào một thụ thể (Hình
11A). Sau đó phức hệ thụ thể-hormone
gắn vào ADN và hormone biểu hiện tác dụng.
Một số hormone có thể đi vào trong tế bào
qua các kênh chuyên biệt và một số khác đi vào
tế bào nhờ sự vận chuyển tích cực.
Cuối cùng, phần lớn các hormone không đi vào
trong tế bào mà gắn vào các thụ thể bên ngoài
tế bào. Sự gắn nầy gây ra một hiệu
quả bên trong tế bào, dẫn đến sự
mở một kênh ion trên màng (Hình 11B) hoặc
hoạt hóa một enzim hay một chất truyền
tin thứ hai trong tế bào (Hình 11C).
Bên trong tế bào phương thức kiểm
soát của hormone cũng khác nhau. Một số hormone
như testosterone gắn vào ADN và trực tiếp
ảnh hưởng đến sự biểu hiện
của gen. Kết quả là sự sản sinh ra
một enzim chuyên biệt. Một số khác như
adrenalin kiểm soát hoạt tính của các enzim đã
được tổng hợp hoặc biểu
hiện tác dụng của chúng bằng sự
biến đổi các protein cấu trúc.
Hình
11. Mô hình cách thức hormone đi vào tế bào đích Những
năn 1960 đã chứng kiến những tiến
bộ đáng phấn khởi trong việc tìm
hiểu cơ chế tác động của các hormone
đến các tế bào đích. Một đóng góp
chính là của E.W. Sutherland và T.W. Rall. Họ nghiên
cứu cơ chế mà nhờ đó glucagon và
adrenalin kích thích tế bào gan phóng thích nhiều
glucose vào máu. Họ phát hiện rằng những
hormone nầy kích thích sự gia tăng nồng độ
của AMP vòng (cAMP) trong tế bào (Hình 12). Hình
12. AMP vòng Họ
thấy rằng hợp chất nầy dẫn đến
sự hoạt hóa một enzim cần thiết để
phân giải glycogen thành glucose. Những nghiên cứu
tiếp theo đã chứng minh rằng một lượng
lớn của các hormone khác tác động đến
các tế bào đích cũng làm tăng hoặc
giảm nồng độ của cAMP.
cAMP là một hợp chất có quan hệ
với ATP. Chúng được phân bố rộng rãi
trong tự nhiên và được tìm thấy trong
hầu hết các mô động vật. cAMP
được tổng hợp từ ATP trong tế bào
nhờ một phản ứng được xúc tác
bởi một enzim gọi là adenylate
cyclase (là một thành phần của màng tế bào).
Khi có nhiều bằng chứng cho thấy các
hormone protein hoặc dẫn xuất của
protein (trong đó có glucagon và adrenalin) không thực
sự đi vào các tế bào đích mà thường
tạo các liên kết yếu với một vị trí
tiếp nhận trên màng tế bào, một mô hình
chất truyền tin thứ hai (second-messenger model)
đã được đưa ra. Theo mô hình
nầy, chính hormone tác động như chất
truyền tin thứ nhất, đi từ tuyến
nội tiết đến tế bào đích và
gắn vào thụ thể trên màng tế bào. Sau đó
sự gắn hormone vào thụ thể đã kích thích
bên trong tế bào sản sinh ra một chất
truyền tin thứ hai, thường là cAMP. Ðặc
biệt, sự gắn của hormone với một
thụ thể chuyên biệt trên màng tế bào đích
đã hoạt hóa một protein thứ hai trên màng
tế bào gọi là G-protein. Từ đó G-protein
ảnh hưởng đến hoạt tính của
enzim adenylate cyclase, xúc tác sự tạo thành cAMP
từ ATP trên mặt trong của màng (Hình 13). Sau
đó cAMP hoạt hóa các enzim chuyên biệt bên trong
tế bào và từ đó khởi động các
đặc tính của tế bào đáp ứng
với kích thích của hormone. Như vậy, tín
hiệu khởi đầu ngoài tế bào (hormone =
chất truyền tin thứ nhất) được
biến đổi thành một tín hiệu nội bào
(cAMP = chất truyền tin thứ hai) mà bộ máy hóa
học của tế bào có thể hiểu được.
Hình
13. Mô hình phương thức tác động của
hormone qua
hệ thống adenylate cyclase
Như chúng ta sẽ thấy, nhiều hormone khác
nhau (glucagon, adrenalin, PTH,
calcitonin, các hormone của thùy trước tuyến yên)
được cho rằng tác động thông qua
hệ thống adenylate cyclase. Những hormone nầy
đều là dẫn xuất của axit amin, các peptid
ngắn, các protein và đều ưa nước.
Nếu tất cả những hormone nầy đều
tác động để điều hòa hệ
thống adenylate cyclase của tế bào đích thì cơ
sở cho tính đặc thù của hormone là gì? Ðó là
nhờ sự có mặt hoặc vắng mặt
của các thụ thể đặc thù trên màng
tế bào, nhờ đó xác định được
một loại tế bào có chịu ảnh hưởng
của 1 có chịu ảnh hưởng của
một hormone hay không (nghĩa là nó có phải là
tế bào đích của hormone đó hay không).
Những loại tế bào khác nhau sẽ có các
thụ thể chuyên biệt khác nhau. Mặc
dù phần lớn các hormone protein hoặc dẫn
xuất của protein đều dùng cAMP như
chất truyền tin thứ hai, nhưng vẫn có
ngoại lệ. Chẳng hạn Insulin trực
tiếp tác động đến các enzim trong tế
bào. Một số hóa chất kiểm soát khác tác
động làm biến đổi GTP thành cGMP nhưng
chi tiết về hệ thống cGMP là chất
truyền tin thứ hai vẫn chưa được
hiểu rõ.
Trong khi một số hormone non-steroid biểu
hiện tác dụng của chúng trên sự biến dưỡng
của tế bào nhờ hoạt động của
chất truyền tin thứ hai là cAMP, một số
khác mở một kênh ion chuyên biệt và các ion tác
động như một chất truyền tin thứ
hai trong tế bào. Ion
Ca++ có thể giữ vai trò này vì nồng độ
của chúng trong tế bào thường được
duy trì thấp nhờ các bơm vận chuyển tích
cực đẩy chúng ra ngoài tế bào hoặc vào
mạng nội chất. Kết quả là khi một
hormone gắn vào thụ thể chuyên biệt của
nó, làm mở một kênh ion Ca++ trong màng, gradient điện
hóa sẽ làm cho ion Ca đi vào phía trong. Những ion
nầy sau đó sẽ liên kết và hoạt hóa các
enzim đặc biệt trong tế bào (Hình 14). Hình
14. Ion Ca++ là chất truyền tin thứ hai trong
tế bào Các
hormone kỵ nước như các hormone của
tuyến giáp, các hormone steroid của vỏ thượng
thận và tuyến sinh dục có phương
thức tác động không bao gồm chất
truyền tin thứ hai. Thay vì tác động với
một thụ thể trên mặt ngoài của màng
tế bào đích, các hormone steroid có thể dễ dàng
đi qua màng tế bào vào tế bào chất. Ở
đây, các steroid (S) gắn vào một phân tử
tiếp nhận chuyên biệt thường có bản
chất là protein. Phức hệ S-R
di chuyển vào trong nhân, gắn với một
vị trí đặc biệt trên ADN và điều hòa
hoạt động của các gen chuyên biệt (Hình
15). Nói cách khác, bằng việc tương tác
với vật liệu di truyền của các tế bào
đích, các hormone steroid giúp xác định những
yếu tố nào cần cho sự tổng hợp
protein (đặc biệt là sự tổng hợp các
enzim) được gởi từ nhân ra tế bào
chất. Một tế bào có đáp ứng với
một loại hormone hay không tùy thuộc vào chúng có
thụ thể chuyên biệt cho hormone đó hay không.
Hình
15. Mô hình phương thức hoạt động
của hormone steroid Bảng
tóm tắt một số hormone chính và vai trò của
chúng
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||