I.
HỆ BÀI TIẾT
Sự
biến dưỡng sản sinh ra nhiều
chất độc. Có
lẽ gây rắc rối nhất là các sản
phẩm thải có nitơ từ sự biến dưỡng
protein và acid nucleic. Nitơ
được phóng thích từ các chất dinh dưỡng
nầy khi chúng bị phá vỡ để cung
cấp năng lượng hoặc khi chúng
bị biến thành carbohydrate hay lipid.
Một sản phẩm thải có nitơ là
ammonia ,
là một phân tử nhỏ và rất độc.
Sự bài tiết ammonia trực tiếp là
một con đường có hiệu quả
về mặt sinh học để loại
bỏ chất thải nầy.
Tuy nhiên, ở nhiều động vật
ammonia đượüc biến đổi thành các
hợp chất như Urê hoặc Acid Uric ít độc
hơn nhưng để loại bỏ lại
cần nhiều năng lượng dưới
dạng ATP.
Chúng ta sẽ thấy rằng các sản
phẩm thải có nitơ mà động vật
bài tiết vừa phụ thuộc vào lịch
sử tiến hóa của động vật
vừa phụ thuộc vào môi trường
sống của chúng (H́nh 1).
Hầu hết động vật thủy
cá mập, cá xương
côn trùng, ḅ sát
Sinh, nhiều loài cá
lưỡng thê, thú
chim
Nh3 Urê: CO(NH2)2 Acid Uric
H́nh
1. Các sản
phẩm thải có nitơ
a.
Ammonia
Phần
lớn động vật thủy sinh tiết các
chất thải có nitơ là ammonia.
Phân tử ammonia
tan nhiều trong nước nên chúng dễ
dàng thấm qua màng tế bào.
Ở các động vật không xương
sống, ammonia khuếch tán qua toàn bộ bề
mặt cơ thể vào môi trường nước
chung quanh. Ở
một số loài cá, phần lớn ammonia
bị mất đi ở dạng ion ammonium ( )
qua biểu mô của mang c̣n thận chỉ
giữ một vai tṛ nhỏ trong sự bài
tiết các sản phẩm thải có nitơ.
Ở cá nước ngọt, biểu mô
của mang thu nhận
từ nước trong sự trao đổi
để giữ cho nồng độ
trong cơ thể cao hơn nồng độ
trong môi trường nước chung quanh.
b.
Urê
V́
rất độc nên chỉ có thể được
chuyên chở và được bài tiết trong
một dung dịch rất loăng và động
vật ở cạn không thể loại bỏ nó
nhanh chóng. Do
đó, các động Vật hữu nhũ và
phần lớn lưỡng thê trưởng thành
đều bài tiết urê.
Chất nầy có thể được duy
tŕ ở dạng đậm đặc hơn v́
chúng ít độc hơn ammonia khoảng 100.00
lần. Sự bài
tiết urê cho phép động vật mất ít
nước trong khi bài tiết các chất
thải có nitơ, một sự thích nghi rất
quan trọng cho đời sống ở cạn.
Urê
được sản xuất trong gan bởi
một chu tŕnh chuyển hóa kết hợp
và .
Hệ tuần hoàn mang urê đến
thận, nơi đây chúng tham gia vào sự
điều hóa áp suất thẩm thấu
bằng cách duy tŕ gradient thẩm thấu. Cá
mập cũng sản sinh ra urê và giữ lại
ở một nồng độ tương đối
cao trong máu, giúp cân bằng tính thẩm thấu
(osmolarity) giữa dịch cơ thể và môi trường
biển xung quanh.
Lưỡng thê phải trải qua sự
biến thái thường chuyển từ sự
tiết ammonia ở giai đoạn ấu trùng
sống trong nước đến sự bài
tiết urê ở giai đoạn trưởng thành
sống trên cạn. Tuy
nhiên, sự biến đổi sinh hóa nầy không
phải luôn luôn đi đôi với sự
biến thái. Loài
ếch Nam Phi (Xenopus) sống dưới nước
vẫn tiếp tục bài tiết ammonia sau khi
đă biến thái. Tuy
nhiên nếu bị buộc sống tách rời môi
trường nước trong nhiều tuần, chúng
sẽ bắt đầu sản xuất urê.
c.
Acid uric
Côn
trùng, chim và một số ḅ sát bài tiết acid
uric như là sản phẩm thải có nitơ.
V́ chất nầy ít tan trong nước hơn
ammonia và urê nên chúng có thể được bài
tiết dưới dạng kết tủa sau khi
hầu như toàn bộ nước đă
được tái hấp thu từ nước
tiểu. Ở
chim và ḅ sát, nước tiểu được
thải ra ngoài theo phân.
Acid uric và urê cho thấy hai kiểu thích
nghi khác nhau giúp các động vật ở
cạn bài tiết các sản phẩm thải có
nitơ với lượng nước bị
mất ít nhất. Một
nhân tố rất quan trọng trong việc xác
định dạng bài tiết là phương
thức sinh sản. Các
chất thải ḥa tan có thể khuếch tán qua
khỏi trứng của lưỡng thê (không có
vỏ) hoặc được chuyên chở
bởi ḍng máu của mẹ trong trường
hợp phôi thú. Tuy
nhiên những động vật đẻ
trứng có vỏ (chỉ cho phép các chất khí
mà không cho các chất lỏng đi qua) phải
bài tiết acid uric v́ nếu phôi bài tiết
ammonia hoặc urê bên trong một trứng, các
chất thải ḥa tan nầy sẽ tích tụ
với nồng độ gây độc.
Acid uric được kết tủa,
được trử lại trong trứng dưới
dạng rắn và sẽ bị thải bỏ khi
trứng nở.
Ở
người, thận là một cặp cơ quan
h́nh hạt đậu dài khoảng 10cm.
Máu đi vào mỗi thận theo động
mạch thận (renal artery) và rời khỏi
thận theo tĩnh mạch thận (renal vein).
Mặc dù thận chiếm không tới 1%
trọng lượng cơ thể người, nó
nhận khoảng 20% lượng máu được
bơm mỗi lần tim đập.
Nước tiểu ra khỏi thận theo
một ống gọi là niệu
quản (ureter). Niệu
quản của cả hai thận đổ vào bàng
quang (urinary bladder).
Tại đây nước tiểu được
tích trử cho đến khi được bài
tiết ra khỏi cơ thể.
Nước tiểu từ bàng quang đi vào
niệu đạo (urethra) để ra ngoài.
Các cơ ṿng ở chỗ nối giữa bàng
quang và niệu đạo kiểm soát sự phóng
thích nước tiểu (H́nh 2).
H́nh
2. Hệ bài tiết của người
H́nh
3. Lát cắt dọc qua thận người
Thận có hai vùng riêng biệt: một vùng
vỏ (renal cortex) bên ngoài và một vùng
tủy (renal medulla) bên trong.
Nằm trong cả hai vùng là các ống bài
tiết có kích thước hiển vi gọi
là các ống thận, kết hợp với
nhiều mao mạch (H́nh 3).
Đơn vị chức năng của
thận là ống thận (nephron).
Ống thận gồm
có một khối cầu của các mao mạch
gọi là quản cầu (glomerulus) và một
ống dài cuộn xoắn.
Đầu tận cùng của ống h́nh thành
một cơ quan gọi là nang Bowmann, bọc quanh
quản cầu. Huyết
áp đẩy máu, nước, urê, muối và các
chất nhỏ ḥa tan khác từ máu trong quản
cầu đi vào ḷng ống của nang Bowmann.
Chất dịch bên trong ống của
ống thận được gọi là dịch
lọc (filtrate). Từ
nang Bowmann, dịch lọc đi ngang qua 3 vùng
của ống thận: ống lượn
gần (proximal convoluted tubule), quai Henle (loop of Henle)
và ống lượn
xa (distal convoluted
tubule). Ôúng
lượn xa đổ vào
ống góp chung (collecting duct).
Ôúng này nhận dịch lọc từ
nhiều ống thận khác nhau.
Nhiều ống góp chung của thận
đổ vào trong bể thận (renal pelvis).
H́nh
4. Ống
thận và hệ mạch máu thận
Ống thận và ống góp chung được
lót bởi một lớp biểu mô có vai tṛ
xử lư dịch lọc để tạo thành nước
tiểu. Có
từ khoảng 1.100 đến 2.000 lít máu
chảy qua thận mỗi ngày, các ống
thận và ống góp chung tạo ra khoảng 180
lit dịch lọc nhưng thận chỉ bài
tiết khoảng 1,5 lit nước tiểu.
Phần c̣n lại của dịch lọc có
khoảng 99% nước được tái
hấp thu vào máu.
Mỗi ống thận được cung
cấp máu nhờ động mạch
đến (afferent arteriole) là một nhánh
của động mạch
thận và được phân nhánh thành các
mao mạch của quản cầu.
Các mao mạch nầy nhập lại khi chúng
rời khỏi quản cầu, tạo thành động
mạch đi
(efferent arteriole). Mạch
nầy lại phân nhánh lần lần nữa
tạo thành một lưới mao mạch
thứ hai là các mao mạch quanh niệu quản
(peritubular capillaries). Những
mao mạch nầy đan xen vào các ống lượn
gần và các ống lượn xa của
ống thận. Các
mao mạch chạy dài xuống phía dưới
tạo thành một hệ thống mao mạch
cung cấp máu cho quai Henle.
Các mạch này uốn ṿng, với một
đoạn đi xuống và một đoạn
đi lên phân phối máu theo hai hướng ngược
nhau (H́nh 4).
Mặc dù ống bài tiết và các mao
mạch quanh chúng có quan hệ mật thiết nhưng
chúng không trao đổi chất trực
tiếp. Các
ống và các mao mạch đều nằm
trong chất dịch kẽ, là môi trường
để các chất khác nhau di chuyển qua
lại giữa huyết tương trong mao
mạch và dịch lọc trong ống thận.
Sau
khi đă biết rơ các mối liên hệ trong
cấu trúc của thận, chúng ta hăy khảo sát
cơ chế của sự thành lập nước
tiểu. Trong
sự thành lập nước tiểu có 3 quá tŕnh:
sự lọc, sự tái hấp thu và sự
tiết qua thành ống.
A.
Sự lọc (Filtration)
Theo
nhà sinh lư học người Đức là Carl
Ludwig (1844) th́ quản cầu hoạt động
như một máy lọc: các phân tử nhỏ có
thể đi qua thành mao mạch và xuyên qua
lớp màng mỏng của nang, chất lọc
từ máu đi vào ống thận do huyết áp
trong quản cầu cao.
Kỹ thuật hiển vi học hiện nay
đă cung cấp những bằng chứng cho
thấy sự lọc đă diễn ra như
thế nào. Dưới
kính hiển vi điện tử có thể phát
hiện các lổ (pores) trong lớp biểu mô
của mao mạch quản cầu và giữa các
tế bào biểu mô tạo nên thành của nang
Bowman. Huyết
áp cao đẩy các ion, nước và những
phân tử nhỏ khác như glucose, acid amin, urê
qua các lỗ trên thành mao mạch đi vào trong
nang, nơi có áp suất thấp hơn.
Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng
thành phần % của chất dịch đi vào
ống thận về cơ bản giống như
của máu, chỉ thiếu các tế bào máu và
và các protein huyết tương (cả hai đều
quá lớn nên không thể đi qua màng).
Các
tế bào của mao mạch quản cầu và
của nang Bowman không vận chuyển tích
cực các chất từ quản cầu vào nang
mà các chất được đẩy vào do
tim đập, bơm máu có áp suất cao vào các
quản cầu. V́
các chất lọc được tạo thành
nhờ áp suất nên quá tŕnh nầy được
xem là sự siêu lọc (ultra filtration).
Chất caffeine trong cafe, trà có tác dụng làm
tăng sự lọc ở quản cầu v́
vậy làm tăng thể tích của dịch
lọc.
B.
Sự tái hấp thu
Sự
tái hấp thu giúp cho các chất cần thiết
trong dịch lọc khỏi bị mất đi.
Chỉ một ḿnh nước đă góp
phần tạo nên 170 lít dịch lọc mỗi
ngày và sẽ cần phải được thay
thế nếu nó bị thải ra khỏi cơ
thể (nghĩa là phải uống gần 300 lit
nước mỗi ngày).
Sự tái hấp thu có chọn lọc
phần lớn nước và các chất ḥa tan
là một trong những chức năng của các
ống thận. Ở
người, đầu tiên dịch lọc đi
qua ống lượn gần, qua quai Henle, sau
đó đi vào ống lượn xa và cuối
cùng đổ vào ống góp chung.
Khi dịch lọc đi qua những ống
nầy, có khoảng 99% nước được
tái hấp thu nhờ thẩm thấu qua các
tế bào của thành ống và trở về máu
trong lưới mao mạch.
Như vậy thận người có
thể tạo ra nước tiểu đậm
đặc (nghĩa là nước tiểu tương
đối ưu trương hơn huyết tương)
mặc dù dịch lọc ban đầu là
gần đẳng trương.
Việc ống góp chung phóng thích nước
tiểu loăng hay đậm đặc phụ
thuộc vào lượng nước trong cơ
thể ở thời điểm đó.
Tuyến
tụy đáp ứng với những thay đổi
trong lượng nước của cơ thể
bằng cách tiết ra hormone vasopressin để
điều ḥa tính thấm của ống góp
chung đối với nước.
Khi
hormone nầy hiện diện, tính thấm
của ống tăng lên và có nhiều nước
được tái hấp thu vào máu.
Kết quả là nước tiểu
được tạo thành ít hơn và đậm
đặc hơn. Khi
thiếu vasopressin, ống góp chung trở nên hoàn
toàn không thấm đối với nước,
nước được giữ lại trong
ống và đi xuống niệu quản vào bàng
quang, tạo ra một lượng lớn nước
tiểu loăng. Rượu
ngăn cản sự phóng thích vasopressin nên nó có
khuynh hướng làm tăng thể tích của nước
tiểu được tạo ra.
Các ống thận không chỉ hấp thu nước.
Ở người khỏe mạnh b́nh thường,
glucose, phần lớn các acid amin và các ion vô cơ
cũng được tái hấp thu và trở
về máu. Hầu
hết sự tái hấp thu là sự vận
chuyển tích cực và do đó cần sử
dụng năng lượng của các tế bào
trong ống. Trong
trường hợp nầy các tế bào của
ống lượn gần rất quan trọng.
Màng của những tế bào nầy có các
bơm protein giúp cho việc hấp thu tích
cực glucose, các acid amin và các ion vô cơ.
Sự tái hấp thu nước là thụ
động nhờ vào sự thẩm thấu.
Khoảng 85% nước và các ion trong
dịch lọc được tái hấp thu
ở ống lượn gần và phần đầu
của quai Henle. Các
muối được vận chuyển tích
cực nhờ các tế bào lót của đoạn
lên quai Henle, nhưng nước không thể
thẩm thấu v́ thành của đoạn
nầy không thấm nước.
Phần lớn nước c̣n lại
được tái hấp thu trong ống góp
chung.
C. Sự tiết qua ống
Sự
di chuyển của các chất giữa ống
thận và các mao mạch quanh ống không
chỉ xảy ra theo một chiều.
Một số chất được
vận chuyển tích cực từ máu vào
ống lượn xa và đọng lại trong nước
tiểu. Các ion
nhất định, đặc biệt là cùng
những phân tử lớn như acid uric và các
hợp chất lạ được thành
lập trong gan sẽ đi vào nước
tiểu nhờ quá tŕnh nầy.
Đây là sự tiết qua ống, một quá
tŕnh thứ ba trong sự thành lập nước
tiểu, bổ sung cho sự tiết ở
quản cầu và làm tăng hiệu quả
của sự bài tiết các thành phần
của máu (H́nh 5).
Nước
tiểu đi vào niệu quản có nồng
độ muối cao khoảng 2,2% (trong khi máu
chỉ có nồng độ muối khoảng
0,9%). Do đó
thận người có khả năng tạo ra nước
tiểu ưu trương (nhưng cần lưu
ư rằng nồng độ tối đa của
nó là 2,2%). Điều
này giải thích v́ sao người không thể
uống nước biển có nồng độ
muối là 3,5%. Để
cho lượng muối nầy được
thải khỏi cơ thể, nước từ
trong dịch mô phải thẩm thấu vào
ống thận để pha loăng muối trong nước
tiểu từ 3,5% thành 2,2%.
V́ vậy, người uống nước
biển sẽ mất nhiều nước hơn
lượng nước uống vào.
H́nh
5. Tóm tắt
sự lọc, sự tái hấp thu và sự
tiết qua ống thận
Thận có thể bị nguy hiểm do viêm,
huyết áp cao làm tổn thương quản
cầu, do thuốc hoặc các chất độc,
hoặc các tổn thương vật lư.
Phổ biến nhất là trường
hợp sạn
thận. Chúng do
sự kết hợp của các ion Ca không ḥa tan
và kết tủa trong bể thận. Cách
ngăn ngừa sạn thận là uống
nhiều nước để rửa các tinh
thể trước khi một hạt sạn
lớn được thành lập.
II.
HỆ SINH DỤC
Nói
chung, có hai phương thức sinh sản ở
động vật: sinh sản vô tính (asexual
reproduction) là sự tạo thành cá thể con mà
bộ gen của chúng chỉ thừa hưởng
từ một cá thể bố hoặc mẹ, không
có sự phối hợp giữa tinh trùng và
trứng. Sự
sinh sản vô tính hoàn toàn dựa trên sự phân
bào nguyên phân. Sinh sản hữu tính (sexual
reproduction) ở động vật là sự
tạo thành cá thể con do sự phối
hợp giữa hai giao tử đơn bội
(tinh trùng và trứng) để tạo thành
một hợp tử lưỡng bội.
Các giao tử được thành lập
bằng cách giảm phân, và sinh sản hữu tính
thường bao gồm hai cá thể bố và
mẹ, cả hai cùng góp phần vào bộ gen
của cá thể con.
a.
Sinh sản vô tính
Nhiều
động vật không xương sống có
thể sinh sản vô tính bằng cách phân đôi
(fission), một cá thể ban đầu phân
chia thành hai hoặc nhiều cá thể có kích thước
gần bằng nhau, chẳng hạn như ở
trùng roi, trùng đế giày (H́nh 6A).
Một số khác như thủy tức nước
ngọt sinh sản bằng cách nảy chồi
(budding) tạo ra các cá thể con.
Các cá thể con có thể tách khỏi
bố mẹ hoặc vẫn c̣n dính với cá
thể ban đầu, tạo thành tộc đoàn
(H́nh 6B).
A
B
C
D
E
H́nh
6. Một số h́nh thức sinh sản ở
động vật
A.
Sự phân đôi ở trùng đế giày
B. Nảy chồi ở thủy tức
C.
Sự tái sinh ở thằn lằn
D. Sự tiếp hợp ở trùng đế
giày
E.
Giao phối ở Trùng đất
Một
loại sinh sản vô tính khác là sự phân
mảnh (fragmentation): cơ thể phân cắt thành
nhiều mảnh, mỗi phần phát triển thành
một cơ thể mới.
Ở những động vật sinh
sản theo cách nầy, sự phân mảnh
phải được hoàn tất nhờ sự
tái sinh (regeneration)
tức là sự phát triển trở lại
những phần đă bị mất của cơ
thể. Sự
sinh sản bằng cách phân mảnh và tái sinh
xảy ra ở các hải miên, ruột khoang, giun
đốt... Nhiều
động vật có thể thay thế một
bộ phận bị mất bằng cách tái sinh
nhưng đó không phải là sự sinh sản
v́ không tạo ra cá thể mới (H́nh 6C).
b.
Sinh sản hữu tính
Sinh
sản hữu tính bao gồm sự trao đổi
vật liệu di truyền giữa hai cá thể.
Có nhiều dạng sinh sản hữu tính.
Bốn dạng chính được t́m
thấy ở động vật là:
Sự
tiếp hợp (conjugation) xảy ra khi hai cá
thể ḥa hợp và trao đổi vật
liệu di
truyền. Các
nguyên sinh động vật như trùng đế
giày có thể sinh sản vô tính bằng cách phân
cắt hoặc sinh sản hữu tính bằng cách
tiếp hợp (H́nh 6D).
Lưỡng
tính sinh (hermaphroditism): hầu hết các động
vật thường biểu hiện
thành hai giới đực và cái riêng biệt,
nhưng trong một số trường hợp
cả hai giới tính được t́m thấy
trên cùng một cơ thể.
Những sinh vật này được
gọi là sinh vật lưỡng tính.
Lưỡng tính sinh phổ biến ở các
động vật không xương sống như
hải miên, trùng đất (H́nh 6E).
V́ giao tử đực và cái được
tạo ra vào những thời điểm khác
nhau nên sự tự thụ tinh không xảy ra mà
những loài này vẫn thụ tinh chéo.
Trinh sản (parthenogenesis) là một dạng
biến đổi của sinh sản hữu tính
trong đó một trứng không thụ tinh
tự phát triển thành một cá thể
mới. Trinh
sản rất phổ biến ở ong, kiến và
một số côn trùng khác.
Chẳng hạn như ở ong mật, ong
chúa chỉ giao phối một lần trong
suốt đời sống.
Tinh trùng được trử trong một
túi có một van cơ nhỏ ở ống sinh
dục. Khi ong chúa
đẻ trứng, van có thể được
mở ra hoặc đóng lại.
Nếu van mở ra, trứng sẽ
được thụ tinh và nở thành ong cái
(ong chúa hoặc ong thợ).
Nếu van bị
đóng lại và trứng không thụ tinh, chúng
sẽ nở thành ong đực do sự trinh
sản.
Đơn
tính sinh (biparentalism) là dạng sinh sản quen
thuộc nhất phổ biến ở hầu
hết các động vật có xương
sống.Trong h́nh thức sinh sản này loài
được chia thành hai giới đực và
cái riêng biệt. Con
đực sinh ra tinh trùng nhỏ, di động.
Con cái sinh ra trứng lớn, không di động.
Tinh trùng lội đến trứng và
sự thụ tinh xảy ra, nhân của tinh trùng
và nhân của trứng hợp nhất thành
hợp tử lưỡng bội.
Có
hai cách cơ bản để trứng và tinh trùng
gặp nhau. Sự
thụ tinh ngoài (external
fertilization) là trường hợp cả hai
loại giao tử được phóng thích vào môi
trường xung quanh và tinh trùng sẽ lội
hoặc được ḍng nước mang đến
trứng. Sự
thụ tinh trong
(internal fertilization) là trường hợp
trứng được giữ lại trong
ống sinh dục của con cái cho đến
khi chúng được thụ tinh bởi tinh trùng
do con đực đưa vào.
Sự thụ tinh ngoài chỉ có ở
những động vật sống trong môi trường
nước: hầu hết động vật không
xương sống thủy sinh, cá, lưỡng
thê. Những
động vật thụ tinh ngoài thường
phải phóng thích cùng một lúc một lượng
giao tử rất lớn.
Hầu hết các động vật ở
cạn đều thụ tinh trong, tinh trùng
được đưa trực tiếp vào
ống sinh dục của con cái.
Sự thụ tinh trong thuận lợi hơn
thụ tinh ngoài v́ tinh trùng tập trung và
được bảo vệ bên trong cơ
thể con cái và các giao tử rất gần nhau
nên sự thụ tinh dễ xảy ra.
Đồng thời do thụ tinh trong ít hao phí
tế bào trứng hơn thụ tinh ngoài nên
mỗi mùa sinh sản chỉ có một ít
trứng được phóng thích.
Một khi đă thụ tinh, trứng
được bao bởi một lớp vỏ
bảo vệ và được con cái đẻ
ra ngoài cơ thể hoặc được
giữa lại trong cơ thể cái cho đến
khi giai đoạn phôi kết thúc.
Lưỡng thê tiến hóa từ cá và chúng
thường thụ tinh ngoài.
V́ vậy chúng phải trở về môi trường
nước hoặc một nơi rất ẩm
để đẻ trứng.
Ḅ sát tiến hóa từ lưỡng thê
cổ, là những động vật có xương
sống đầu tiên không phụ thuộc vào
môi trường nước trong sinh sản.
Trứng được thụ tinh trong và
được bao trong một lớp màng và
vỏ bảo vệ.
Chim tiến hóa từ một nhóm ḅ sát
cổ, chúng cũng thụ tinh trong và đẻ
trứng có vỏ. Thú
tiến hóa từ một nhóm ḅ sát cổ khác.
Trứng được thụ tinh trong và
ở lại trong ống sinh dục cái cho đến
khi sự phát triển phôi hoàn tất.
Một đặc điểm rất quan
trọng ở ḅ sát là trứng có màng ối
(amniotic egg). Trứng
này có màng và vỏ bảo vệ, có thể
được đẻ trong đất.
Trứng có màng ối của các động
vật có xương sống ở cạn như
ḅ sát và chim có 4 lớp màng: màng ối, túi
niệu, túi noăn hoàng, màng đệm và ngoài cùng
là lớp vỏ.
Màng ối (amniotic) bao bọc một
buồng có đầy dịch, chứa phôi giúp
cho phôi
tiếp tục phát triển trong môi trường
nước mặc dù trứng được
đẻ trên cạn.
Túi niệu
(allantois) là nơi tiếp nhận các chất
thải của phôi đang phát triển.
Các mạch máu của chúng nằm
gần vỏ giữ chức năng trao đổi
khí. Túi noăn hoàng
(yolk sac) chứa noăn hoàng là nguồn thức
ăn cho phôi. Màng
đệm (chorion) là lớp màng ngoài cùng bao
quanh phôi và các màng khác (H́nh 7).
H́nh
7. Một phôi
đang phát triển trong trứng
Giống như ḅ sát và chim, thú cũng
thụ tinh trong, phôi cũng có 4 lớp màng nhưng
không có vỏ và không được đẻ
ra. Phôi non và các
màng của chúng được giữ lại
trong một buồng đặc biệt của
ống sinh dục cái. Ở
đây sự phát triển phôi được hoàn
tất và cá thể con được đẻ
ra.
a.
Hệ sinh dục nam
Hệ
sinh dục của người thường
được mô tả thành hai phần: các cơ
quan bên ngoài và các cơ quan bên trong.
Các cơ quan bên ngoài của người
nam là b́u (scrotum) và dương vật (penis).
Cơ quan sinh dục bên trong bao gồm
tuyến sinh dục sản sinh ra các giao tử và
các hormone, các tuyến phụ tiết ra các
sản phẩm cần thiết cho sự cử
động của tinh trùng và các ống để
chuyên chở các tinh trùng và các chất tiết
của tuyến.
Tuyến
sinh dục nam là tinh hoàn (testes) gồm nhiều
ống cuộn xoắn được bao quanh
bởi nhiều lớp mô liên kết.
Những ống nầy là nơi các tinh trùng
được tạo thành gọi là các ống
sinh tinh (seminiferous tubules).
Các tế bào kẻ (interstitial cells) nằm
xen giữa các ống sinh tinh sản xuất ra các
hormone sinh dục nam như testosterone và các androgen
khác.
Sự sản sinh tinh trùng không thể
xảy ra ở nhiệt độ b́nh thường
trong cơ thể, nhưng tinh hoàn của người
được giữ trong b́u, bên ngoài xoang
bụng. Ở
đây nhiệt độ thấp hơn trong
xoang bụng khoảng 2o C.
Trong giai đoạn phôi, tinh hoàn nằm
trong xoang bụng và di chuyển xuống b́u ngay
trước khi sinh.
Từ
các ống sinh tinh của mỗi tinh hoàn, tinh trùng
đi ngang qua các ống cuộn xoắn của mào
tinh hoàn (epididymis), tại đây tinh trùng
được dự trử.
Trong sự phóng tinh (ejaculation), tinh trùng
được phóng thích từ mào tinh hoàn qua các
ống dẫn tinh (vas deferens).
Hai ống nầy chạy từ b́u ṿng qua
phía sau bàng quang, tại đây mỗi ống
nối với một ống xuất phát từ
túi tinh, tạo thành một ống phóng tinh
(ejaculation duct) ngắn.
Hai ống phóng tinh đổ vào niệu
đạo (urethra) là ống thoát chung của
cả hệ bài tiết và hệ sinh dục.
Niệu đạo chạy qua dương
vật và đổ ra ngoài ở đầu dương
vật (H́nh 8).
H́nh
8. Ôúng sinh
dục của nam giới (nh́n từ phía trước)
Có 3 tuyến sinh dục phụ tham gia vào
sự tiết tinh dịch (semen).
Một cặp tinh
nang (seminal vesicles) tạo thành khoảng 60%
tổng thể tích của tinh dịch.
Chất dịch từ tinh nang th́ trong, có
chứa chất nhầy, acid amin và một lượng
lớn đường fructose để cung
cấp năng lượng cho tinh trùng.
Tinh nang cũng tiết ra prostaglandin.
Khi vào trong ống sinh dục nữ,
prostaglandin kích thích sự co của cơ tử
cung giúp cho tinh dịch di chuyển lên phần trên
của tử cung. Các
protein trong tinh dịch cũng làm cho tinh dịch
đông tụ sau khi nó kết tủa trong
ống sinh dục nữ, làm cho sự co bóp
của tử cung dễ dàng đẩy các tinh
dịch đi.
Tuyến
tiền liệt (prostate gland) là tuyến tiết
tinh dịch lớn nhất.
Nó tiết sản
phẩm trực tiếp vào niệu đạo
qua nhiều ống nhỏ.
Chất dịch của tuyến đục
như sửa, có nhiềöu enzim và hoàn toàn
kiềm tính.. Nó
cân bằng tính acid của cặn nước
tiểu c̣n lại trong niệu đạo, trung ḥa
tính acid của âm đạo và giúp hoạt hóa
các tinh trùng.
Tuyến Cowper là một cặp tuyến
nhỏ nằm dọc theo niệu đạo phía
dưới tuyến tiền liệt.
Chức năng của chúng vẫn c̣n là
một câu hỏi, nhưng trước khi phóng
tinh chúng tiết ra một chất dịch trong,
nhờn để có thể trung ḥa nước
tiểu acid c̣n lại trong niệu đạo.
Chất dịch của tuyến nầy cũng
có chứa một ít tinh trùng được phóng
thích ra trước khi xuất tinh.
Dương vật của người
được tạo ra từ ba ống mô cương,
xốp xuất phát từ các tĩnh mạch và
mao mạch bị biến đổi.
Phần thân chính của dương vật
được bao bởi một lớp da tương
đối dầy. Phần
đầu của dương vật gọi là
qui đầu (glans penis) phủ một lớp
mỏng hơn, và được bao bởi
một nếp da gọi là bao qui đầu
(prepuce).
b.
Hệ sinh dục nữ
Bộ
phận sinh dục ngoài của nữ là âm
vật (clitoris) và hai môi bao quanh âm vật và
cửa âm đạo.
Cơ quan sinh dục bên trong bao gồm
một cặp tuyến và một hệ thống
ống và buồng để dẫn các giao
tử và làm tổ cho phôi.
Tuyến
sinh dục nữ là buồng trứng (ovary),
nằm trong xoang bụng, hai bên hông và được
nối với tử cung bằng màng treo
ruột. Mỗi
buồng trứng được bọc trong
một nang bảo vệ và có chứa nhiều
noăn nang. Một
noăn nang (follicle) gồm có một tế bào
trứng được bao quanh bởi một
hoặc nhiều lớp tế bào nang, có
nhiệm vụ nuôi dưỡng và bảo vệ
trứng đang phát triển.
Toàn bộ 400.000 noăn nang của một người
nữ được thành lập trước
khi sinh. Trong
số này chỉ có vài trăm là sẽ phóng thích
các tế bào trứng trong thời kỳ sinh
sản của người nữ.
Bắt đầu từ lúc dậy th́ và
tiếp tục cho đến khi măn kinh, thường
chỉ có một noăn nang chín và phóng thích noăn
trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt.
Các tế bào của noăn nang cũng tạo
ra các hormone sinh dục cái
là estrogen. Các
tế bào trứng rời khỏi noăn nang trong
sự rụng trứng (ovulation).
Phần mô c̣n lại của nang sẽ phát
triển tiếp tục trong buồng trứng và
tạo thành một khối rắn gọi là
thể vàng (corpus luteum).
Thể vàng tiết thêm các hormone estrogen và
progesterone là hormone giúp duy tŕ lớp màng tử
cung trong thời gian mang thai.
Nếu tế bào trứng không thụ tinh,
thể vàng sẽ bị thoái hóa và một
trứng mới lại chín trong chu kỳ kế
tiếp.
Hệ sinh dục nữ không hoàn toàn kín và
tế bào trứng được phóng thích vào
xoang bụng gần miệng ống dẫn
trứng (oviduct). Các
tiêm mao trong lớp nội b́ của ống giúp
thu nhận tế bào trứng bằng cách kéo
chất dịch từ xoang cơ thể vào trong
ống. Các tiêm
mao cũng tiếp tục đẩy các tế bào
trứng xuống phía dưới ống vào
tử cung (uterus).
Tử cung là một cơ quan có thành cơ
dầy, có thể nở rộng trong lúc mang thai.
Lớp màng nhầy tử cung (endometrium)
được cung cấp nhiều mạch máu.
Cổ tử cung
(cervix) mở vào âm đạo.
Âm đạo là một buồng có vách
mỏng, tạo thành đường sinh sản
qua đó đứa bé được sinh ra.
Lúc
mới sinh ra cửa âm đạo thường
được bao phủ bởi một lớp màng
có nhiều mạch máu gọi là màng trinh (hymen).
Cửa âm đạo và cửa niệu
đạo riêng biệt nhưng cùng nằm trong
một vùng gọi là tiền đ́nh (vestibule),
bao bởi hai nếp da gọi là môi
nhỏ (labia minora).
Hai mép dầy, nhiều mỡ gọi là môi
lớn (labia majora), bao bọc và bảo vệ môi
nhỏ cùng tiền đ́nh.
Ở phía trên mép tiền đ́nh là âm
vật (clitoris), gồm một thân ngắn nâng
đỡ một đầu tṛn được
bao bởi một lớp da.
Âm vật có một số lớn các mô cương
và nhiều đầu dây thần kinh nên nó là
một trong những điểm nhậy cảm
nhất đối với kích thích sinh dục.
Trong lúc tiến hành hoạt động sinh
dục, các tuyến Bartholin nằm gần
cửa âm đạo sẽ tiết ra chất
nầy vào tiền đ́nh, giữ cho nó
được trơn và hỗ trợ cho
hoạt động giao hợp (H́nh 9).
H́nh 9. Ôúng
sinh dục của nữ giới
A.
Nh́n từ phía trước
B. Nh́n
từ bên
Tuyến vú (mammary gland) là một cấu trúc
quan trọng trong sự sinh sản của người,
mặc dù nó không phải là một thành
phần của ống sinh dục.
Bên trong tuyến, các túi nhỏ của các
biểu mô tiết ra sửa, đi vào một
loạt ống và đổ ra ngoài ở núm vú
(nipple). Các mô
mỡ tạo thành khối chính của tuyến
vú. Ở nam
giới do thiếu estrogen làm cản trở
sự phát triển của các tuyến tiết và
mô mỡ v́ vậy vú của người nam
nhỏ và các núm không được nối
với các ống.
a.
Ở nam giới
Ở
nam giới, hormone sinh dục chính
là các androgen, trong đó quan trọng
nhất là testosterone.
Androgen là các hormone steroid được
sản xuất chủ yếu từ các tế bào
kẻ của tinh hoàn, chịu trách nhiệm
trực tiếp đối với các đặc
tính sinh dục sơ cấp và thứ cấp
ở nam giới. Các
đặc tính sinh dục sơ cấp là
những đặc tính có liên quan đến
hệ sinh dục: sự phát triển của
ống dẫn tinh, bộ phận sinh dục ngoài
và sự tạo tinh trùng.
Các đặc tính sinh dục thứ
cấp là những đặc điểm không
quan hệ với hệ sinh dục, bao gồm
giọng nói, sự phân bố của râu và lông,
sự phát triển cơ.
Androgen cũng giúp xác định các
tập tính sinh dục.
Sự tiết androgen và sự sinh tinh trùng
của tinh hoàn chịu sự kiểm soát
của các hormone do thùy trước tuyến yên
và vùng dưới đồi (H́nh 10).
b.
Ở nữ giới
Cũng
như ở nam giới, tuổi dậy th́ ở
nữ giới được xem là bắt đầu
khi vùng dưới đồi nhận cảm
mức hormone sinh dục thấp trong cơ
thể và bắt đầu tiết ra GnRH, kích
thích thùy trước tuyến yên phóng thích
nhiều FSH và LH. Những
hormone này gây ra sự chín của buồng
trứng làm chúng bắt đầu tiết ra
hormone sinh dục nữ là estrogen.
Hormone này kích thích sự trưởng thành
của tử cung và âm đạo, làm phát
triển các đặc tính sinh dục thứ
cấp như xương chậu nở ra, vú phát
triển, thay đổi trong sự phân bố
mỡ của cơ thể...
đồng thời xuất hiện chu
kỳ kinh nguyệt (menstrual cycle).
Chúng ta sẽ tập trung vào việc
thảo luận chu kỳ kinh nguyệt
như là một thí dụ về mối
quan hệ phức tạp giữa các hormone và
giữa hệ nội tiết với hệ
thần kinh.
H́nh 10. Sự
kiểm soát bằng hormone các hoạt động
của tinh hoàn
Sự
thay đổi đều đặn trong việc
tiết các hormone kích tuyến sinh dục ở
giới cái của hầu hết các loài thú
dẫn đến chu kỳ động dục
(estrous cycle). Đó
là những thay đổi có tính chu kỳ trong
ống sinh dục và trong sự ham muốn sinh
dục. Giới
cái sẽ chấp nhận cho con đực giao
phối chỉ trong một giai đoạn
ngắn của chu kỳ, gần thời điểm
rụng trứng khi lớp màng nhầy tử
cung dầy nhất và ham muốn sinh dục cao
nhất. Nhiều
loài thú chỉ có một hoặc vài chu kỳ
động dục trong một năm.
Nếu sự thụ tinh không xảy ra,
lớp màng nhầy tử cung dần dần
được tái hấp thu bởi cơ
thể cái.
Người
và các linh trưởng không có chu kỳ động
dục, con cái sẵn sàng tiếp nhận con
đực trong suốt chu kỳ sinh dục.
Lớp màng nhầy tử cung không
được tái hấp thu nếu sự
thụ tinh không xảy ra mà một phần
của lớp màng bị bong ra kèm theo hiện tượng
chảy máu trong một giai đoạn gọi là
kỳ kinh nguyệt (menstruation).
Chu kỳ kinh nguyệt của người
trung b́nh là 28 ngày. Thời
gian của mỗi chu kỳ thay đổi từ
người này đến người khác và
từ chu kỳ này đến chu kỳ khác trên
cùng một người.
Bây giờ chúng ta hăy theo dơi các sự
kiện xảy ra trong một chu kỳ tiêu
biểu 28 ngày. Trong
y học người ta thường xem ngày đầu
tiên của sự hành kinh là ngày thứ nhất
của chu kỳ. Tuy
nhiên, trên quan điểm sinh học, kết thúc
của thời kỳ hành kinh được xem
là bắt đầu của một chu kỳ
mới. Ở
thời điểm này, màng nhầy tử cung
mỏng và không có nang chín trong buồng
trứng. Dưới
ảnh hưởng của FSH do thùy trước
tuyến yên tiết ra, các noăn nang trong buồng
trứng bắt đầu tăng trưởng và
do ảnh hưởng bởi hoạt động
phối hợp của FSH và LH, chúng bắt đầu
tiết ra estrogen. Một
trong số các noăn nang tiếp tục tăng trưởng
và tiết estrogen. Estrogen
kích thích làm màng nhầy tử cung dầy lên.
Đây là giai đoạn tăng trưởng
(grow phase) của chu kỳ, trung b́nh từ 9-10 ngày
sau khi hành kinh.
Khi noăn nang tăng trưởng, chúng
sản xuất ngày càng nhiều estrogen.
Sự gia tăng mức estrogen làm cho
tuyến yên tiết ra nhiều LH, kích động
sự phóng thích trứng từ noăn nang chín.
Sự rụng trứng (ovulation) đánh
dấu sự kết thúc của giai đoạn
tăng trưởng trong chu kỳ.
Sau khi rụng trứng, nang c̣n lại
được kích thích bởi LH, trở thành
một cấu trúc mới gọi là thể vàng
(corpus luteum). Thể
vàng tiếp tục tiết thêm estrogen, đồng
thời bắt đầu tiết hormone thứ
hai là progesterone. Progesterone
tác động lên lớp màng nhầy, kích thích
các tuyến nhầy của màng tiết ra
chất dịch trong.
Nhiều thí nghiệm cho thấy sự làm
tổ của trứng đă thụ tinh không
thể xảy ra nếu thiếu những thay
đổi trong lớp màng lót tử cung do tác
động của progesterone.
Đây là giai đoạn tiết (secrete phase)
của chu kỳ.
H́nh
11. Tŕnh tự các
sự kiện trong chu kỳ kinh nguyệt của
người
Mức độ cao của estrogen và
progesterone có thể tác động ngược
lại vùng dưới đồi để
ức chế sự tiết GnRH làm giảm
sự tiết LH và FSH của thùy trước
tuyến yên. Chúng
cũng có thể tác động trực tiếp
lên chính tuyến yên.
Trong trường hợp này sự tiết
FSH và LH bị ngăn cản.
Không có những hormone này, noăn nang không
thể phát triển.
Nếu sự thụ tinh không xảy ra trong
một chu kỳ b́nh thường, thể vàng
bắt đầu thoái hóa từ ngày thứ 11
sau khi rụng trứng làm cho sự tiết
estrogen và progesterone bị giảm xuống.
Kết quả là lớp màng nhầy không
thể duy tŕ lâu hơn, một phần
được tái hấp thu, c̣n lại bị
bong ra cùng với hiện tượng chảy máu
do các mao mạch bị vở.
Đây là giai đoạn hành kinh (flow phase) thường
kéo dài từ 4-6 ngày (H́nh 11).
Sự
giảm mức estrogen và progesterone làm cho vùng dưới
đồi và thùy trước tuyến yên không
c̣n bị ức chế.
Do đó sự tiết FSH tăng lên và
một chu kỳ mới lại bắt đầu
(H́nh 12).
H́nh
12. Sự
kiểm soát bằng hormone các hoạt động
của buồng trứng
Sự
ngừa thai (contraconception) được định
nghĩa là bất kỳ tác động nào can
thiệp hoặc ngăn cản sự thụ tinh
hoặc sự làm tổ của trứng.
Sự phá thai (abortion) để chỉ
những tác động ngăn cản sự sinh
ra một bào thai sau khi sự thụ thai đă
xảy ra. Nói
chung tất cả các phương pháp ngừa
thai hoặc nạo thai được con người
sử dụng nhằm mục đích hạn
chế hoặc ngăn chận sự có thai.
Một số phương pháp được
mô tả trong bảng 1.
Khoảng
10% các cặp vợ chồng là vô sinh (infertile),
nghĩa là họ không thể sinh con v́ nhiều
lư do. Các kỹ
thuật sinh sản mới đă cung cấp
một số giải pháp cho các nguyên nhân
dẫn tới vô sinh.
Trong một số trường hợp,
sự mất cân bằng hormone có thể
được điều ḥa cho phép sự
thụ thai xảy ra.
Các phương pháp phẫu thuật cũng
có thể điều chỉnh các dạng
tắt ống dẫn trứng hoặc các
khiếm khuyết trong hệ sinh dục nam
hoặc nữ. Các
kỹ thuật y học cũng góp phần làm tăng
số lượng và chất lượng tinh trùng,
do đó làm tăng xác suất thụ tinh.
Phương pháp tiến bộ nhất trong
việc giúp đỡ những người vô
sinh là sự thụ tinh trong ống nghiệm (in
vitro fertilization). Sau
khi người phụ nữ được
xử lư hormone để kích thích sự phát
triển của nhiều trứng, các trứng
được tách khỏi noăn nang của
buồng trứng và cho vào một dung dịch
trong ống nghiệm.
Sau đó tinh trùng được thêm vào
trong dung dịch, trứng được thụ
tinh và bắt đầu phân chia.
Sau 2-4 ngày, trứng thụ tinh phân cắt
thành một đám tế bào gọi là phôi bào
(blastocyte). Các phôi
bào được cấy trở lại tử
cung của người phụ nữ, làm tổ
và phát triển trong đó.
Ngày 25/6/78 Louise Brown là đứa trẻ
đầu tiên được sinh ra trong ống
nghiệm. Từ
đó đến nay đă có hàng ngàn đứa
trẻ ra đời bằng phương pháp này.
Bảng
1. Tóm tắt các
phương pháp tránh thai
Phương
pháp
|
Cơ
chế tác động
|
Thuận
lợi
|
Bất
lợi
|
Thắt
ống dẫn tinh
|
Ngăn
cản sự phóng thích tinh trùng
|
Rất
hữu hiệu
Vĩnh
viễn
|
Khộng
thể sinh sản trở lại, có
thể biến chứng
|
Thắt
ống dẫn trứng
|
Ngăn
cản tế bào trứng vào tử cung
|
Rất
hữu hiệu
Vĩnh
viễn
|
Khộng
thể sinh sản trở lại, có
thể biến chứng
|
Thuốc
ngừa thai
|
Ngăn
cản trứng chín và rụng
|
Rất
hữu hiệu
Không
nguy hiểm
|
Tác
dụng phụ, uống liên tục mỗi
ngày
|
Đặt
ṿng
|
Ngăn
cản sự làm tổ của trứng
|
Rất
hữu hiệu, không cần nhớ
|
Có
thể chảy máu, đau thắt, viêm xương
chậu
|
Mũ
tử cung
|
Ngăn
cản tinh trùng vào tử cung
|
Có
thể đặt trong 48 giờ
|
Gây
ngứa, khó đặt
|
Bao
cao su
|
Ngăn
cản tinh trùng vào tử cung
|
Hiệu
quả cao, không ảnh hưởng sức
khỏe, tránh được một số
bệnh qua đường sinh dục
|
Can
thiệp vào hoạt động sinh
dục, giảm khoái cảm
|
Giao
hợp theo ngày
|
Tránh
giao hợp trong thời gian rụng
trứng
|
Không
hại sức khỏe, không tốn
tiền
|
Hiệu
quả thấp
|
|