Mở đầu về môn học |
|
Gs Huỳnh Thu Ḥa - Vơ Văn Bé |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||
Môn học Môi trường và Con người
đôi khi c̣n gọi là Khoa học môi trường nghiên
cứu các tác động qua lại của môi trường
và con người. Thuật ngữ môi trường
liên quan đến mọi thứ xung quanh chúng ta: không
khí, nước, đất cũng như thực
vật, động vật và vi sinh vật sống
ở các nơi vừa nói. Ngược lại, con người
cũng là một sinh vật với đầy đủ
ư nghĩa của nó, tác động lên môi trường
nhưng với qui mô chưa từng có trong lịch
sử cuả trái đất. Môn học này đề cập
tới những vấn đề sâu rộng gây ra
bởi sự gia tăng dân số quá mức, sự
cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Đây là những vấn đề then chốt cho sự
sống cuả con người. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM
VỤ
Để giải quyết các vấn
đề khổng lồ cuả sự gia tăng dân
số quá mức, sự cạn kiệt tài nguyên và ô
nhiễm môi trường, đ̣i hỏi phải có
nhiều kiến thức khoa học: sinh học, sinh thái
học, khoa học trái đất, khoa học xă
hội, khoa học kinh tế.... Trong đó môn sinh thái
học có vai tṛ hết sức quan trọng. Có thể xem môn học Môi trường
và Con người là phần ứïng dụng của
sinh thái học, nhằm giải quyết các vấn
đề nóng bỏng của xă hội. Đó là các
vấn đề dân số (population); tài nguyên
(resources); và ô nhiễm (pollution) đang gây nên cuộc
khủng hoảng môi trường hiện nay.
Sự gia tăng không mong đợi
của loài người tạo nên một nhân tố hàng
đầu cuả sự huỷ hoại sinh quyển. Dù
rằng sự đông dân đă xảy ra từ
nhiều thế kỷ ở vài vùng như châu Á, nhưng
sự tăng trưởng gia tốc cuả dân số
thế giới vốn đă quá đông đúc tạo
nên một sự kiện cơ yếu, đặc
sắc cuả con người, gọi là sự bùng
nổ dân số ở thế kỷ 20. Việc quan trọng hơn không
chỉ là số lượng vốn đă quá lớn, mà
c̣n là dân số tăng với tốc độ lũy
tiến (vitesse exponentielle). Không một chuyên gia nào có
thể dự kiến chính xác khi nào th́ dân số
ổn định. Do đó Dorst (1965) xem sự bùng
nổ dân số ở thế kỷ 20 là một
hiện tượng có qui mô sánh với thảm họa
điạ chất đă làm đảo lộn hành tinh. Năm 1997, dân số thế
giới là 5,8 tỉ người và gia tăng hàng năm
là 1,7%. Khoảng 40 năm nữa, dân số có thể tăng
gấp đôi nếu không có những biện pháp ngăn
chặn đà gia tăng này. Sự bùng nổ dân
số gây áp lực lên tài nguyên và môi trường.
Tài nguyên là những thứ mà chúng
ta lấy từ môi trường để phục
vụ nhu cầu của con người. Vài loại tài
nguyên được sử dụng trực tiếp như:
không khí sạch, nước sạch từ sông hồ,
đất tốt và cây cỏ. Đa số khác như:
dầu mỏ, sắt thép, than đá , nước
ngầm th́ phải qua chế biến xử lư trước
khi dùng. Tài nguyên có thể được
xếp thành các loại: tài nguyên vô tận, tài nguyên tái
tạo được và tái nguyên không thể tái
tạo được. Tài nguyên vô tận (perpetual
resource), như năng lượng mặt trời
được xem là không cạn kiệt ở mức
độ thời gian đời người. Tài nguyên
có thể tái tạo được (renewable resource) như:
gỗ, cá, thú rừng... có thể phục hồi
trở lại nếu được khai thác với qui
mô hợp lư. C̣n tài nguyên không thể tái tạo
(nonrenewable resource) như: than đa, dầu mo,í kim
loại... với số lượng có hạn khi
được sử dụng sẽ không phục
hồi trở lại. V́ dân số thế giới
tiếp tục gia tăng, nhiều nguồn tài nguyên
cần thiết cho sự sống c̣n của con người
và hàng triệu sinh vật khác sẽ ít đi. Các nước
đang phát triển th́ sử dụng quá đáng các
nguồn tài nguyên có thể tái tạo được,
trong khi các nước phát triển th́ tiêu xài quá
mức các nguồn tài nguyên không thể tái tạo
được. Các tài nguyên tái tạo bị khai
thác quá mức sẽ không thể phục hồi
được, c̣n các tài nguyên không thể tái tạo
sẽ bị đe dọa cạn kiệt trong thời
gian khác nhau tùy theo trữ lượng cuả chúng và
tốc độ khai thác của con người. Như
dầu mỏ chẳng hạn, là máu cuả xă hội công
nghiệp hiện đại, có thể hết sạch
trên trái đất. Ngoài ra c̣n có khoảng 18 loại
khoáng sản quan trọng về mặt kinh tế sẽ
cạn kiệt trong vài thập niên tới. Bên cạnh đó, sự khai thác
đất trồng quá đáng và không đúng cách cũng
làm cho đất bị xói ṃn và biến thành sa
mạc. Sự tàn phá rừng, nhất là rừng
nhiệt đới với tốc độ hơn 11
triệu ha hằng năm như hiện nay chẳng
những gây sự hủy diệt nơi ở cuả các
động vật mà c̣n gây nên sự thay đổi khí
hậu toàn cầu. Ước lượng mỗi ngày có
hàng trăm loài sinh vật bị tuyệt chủng.
Ô nhiễm môi trường
hiện nay là sự thay đổi không mong muốn
cuả các tính chất của nước, không khí,
đất hay thực phẩm gây tiêu cực cho sự
sống, sức khỏe và sinh hoạt cuả người
cũng như của các sinh vật khác. Môi trường đất, nước,
không khí bị ô nhiễm bởi các loại chất
thải do hoạt động cuả con người. Rác
thải, nước thải và các khí thải từ các
khu dân cư, nhà máy công sở, trường học,
bệnh viện hàng ngày làm cho môi trường ngày càng
xấu đi. Trong các loại chất thải, có
nhiều chất rất độc, khó hay không bị phân
hủy sinh học. Mưa acid, mỏng màn ozon, thay
đổi khí hậu toàn cầu là hậu quả đáng
ngại của sự phát triển của xă hội loài
người. Cùng với ô nhiễm nước, đất
và không khí chúng ḱm hăm và đe doạ sự phát
triển của con người. V́ vậy việc thay đổi cách hành động vừa phát triển xă hội vừa bảo vệ môi trường là cách làm phù hợp của tất cả chúng ta. Đó là chiếm lược phát triển bền vững (sustainable development strategy) là mục tiêu của môn học và cũng là cách sống tương lai của chúng ta.
Theo mô h́nh đơn giản th́
sự suy thóai và ô nhiễm môi trường ở cùng
một nơi tùy thuộc vào 3 yếu tố: (1) số
người dân, (2) số đơn vị năng lượng
mỗi người sử dụng và (3) khối lượng
của sự suy thoái và ô nhiễm môi trường do
mỗi đơn vị năng lượng gây ra (Miller,
1993). Sự đông dân bao gồm
sự quá nhiều người và sự quá nhiều tiêu
thụ. Sự quá nhiều người xảy ra ở
những nơi mà số người nhiều hơn
thức ăn, nước uống và các tài nguyên khác.
Việc này thường xảy ra ở các nước
đang phát triển, làm suy thoái các tài nguyên tái
tạo và là nguyên nhân của sự nghèo đói.
Sự quá nhiều tiêu thụ xảy ra ở các nước
công nghiệp, khi một số ít người sử
dụng một lượng lớn tài nguyên. Đây là nguyên
nhân chính làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không
thể phục hồi và làm ô nhiễm môi trường. Bảng
phân tích các mối tương quan giữa dân số, tài
nguyên và môi trường (Theo Chiras, 1991)
Mô h́nh Dân số - Tài nguyên - Môi
trường cho thấy con người sử dụng tài
nguyên và gây ô nhiễm. Cả ba thành phần này có tác
động tương hỗ như bảng phân tích
ở trên. Chúng ta thấy sự đông dân
khiến người ta sử dụng nhiều tài nguyên
hơn và làm suy thoái môi trường nhiều hơn.
Chừng nào chúng ta chưa thay đổi cách sống,
chưa ngừng hủy hoại môi sinh và các sinh vật
khác th́ sự sống sót và sự phát triển cuả
chúng ta c̣n bị nhiều nguy cơ. Môn học này cung cấp cho chúng ta các kiến thức cơ bản về mối quan hệ giữa con người với môi trường và với các sinh vật khác. Từ đó chúng ta có thể có thái độ và hành vi nhằm làm cho xă hội loài người tiếp tục phát triển mà không làm hại các sinh vật khác và sử dụng lâu bền các nguồn tài nguyên. Giáo tŕnh này được chia làm 3 phần với 15 chương. Phần I (từ chương 1 đến chương 5) đề cập đến các kiến thức cơ bản về sinh thái học trong đó nhấn mạnh mối quan hệ giữa môi trường và con người. Phần II (từ chương 6 đến chương 11) đề cập đến việc sử dụng các loại tài nguyên cần thiết của con người. Phần III (từ chương 12 đến chương 15) đề cập đến các loại ô nhiễm môi trường và các biện pháp bảo vệ tài nguyên và môi trường. H́nh 1. Mối tương quan giữa dân số, sử dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||