Loài
người (Homo sapiens), là một sinh vật tiêu
thụ, nhưng là sinh vật hết sức đặc
biệt. Ngoài các nhu cầu b́nh thường
của một động vật, con người
c̣n có nhiều nhu cầu khác của một thành
viên trong xă hội loài người. Việc ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành, chăm sóc
sức khỏe, giải trí... ngày càng phức
tạp hơn và đ̣i hỏi chất lượng
ngày càng cao hơn. Để thỏa măn các nhu
cầu này, con người không ngừng khai thác các
tài nguyên thiên nhiên. Hơn nữa con người
c̣n chế tạo ra các chất không có hay
hiếm có trong thiên nhiên. Các hành động này
thường gây nhiều bất lợi cho sinh
vật và đe dọa cả sự sống trên
trái đất.
Con
người là sinh vật ăn tạp nhất
trong các động vật. Ngoài những thức
ăn có sẵn trong thiên nhiên, con người
đă sản xuất, chế biến thành vô
số các loại thức ăn khác nhau. Trong đó
có những thứ mà chỉ con người
mới biết sử dụng và dám sử
dụng. Thí dụ như tân dược, trà, cà
phê, thuốc lá, rượu cho đến các
chất ma túy...
Trong
các chuỗi thức ăn, con người thường
đứng ở vị trí cuối của
chuỗi nên thường tích lũy một lượng
lớn các chất không bị phân hủy sinh
học. Điều này thường dẫn đến
thiệt hại cho sức khỏe của con người
như đột biến, ung thư và các bệnh
tật khác.
Một
trong những đặc tính của con người
là có một biên độ sinh thái lớn,
khả năng sống trong các điều kiện
mà các loài khác từ chối. Cho nên con người
cư trú khắp nơi, từ sa mạc khô
cằn cho đến Bắc cực băng giá.
Con
người luôn chịu ảnh hưởng
cuả các nhân tố sinh thái, nhưng ngược
lại con người cũng là sinh vật
ảnh hưởng nhiều nhất lên môi
trừơng, nhất là môi trường đất
liền.
II.
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ SINH THÁI
LÊN ĐỜI SỐNG CỦA CON NGƯỜI
Cũng
như các sinh vật khác, con người chịu
ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái
của môi trường. Ở đây, chúng ta
đặc biệt chú ư tới các nhân tố liên
quan tới nhu cầu số một của người
tức là vấn đề lương thực
thực phẩm.
Chúng
ta cần ăn đủ lượng và chất
để hoạt động b́nh thường
(bảo tŕ, tăng trưởng, sinh sản,...),
gọi là khẩu phần. Đủ lượng là
hàng ngày chúng ta cần ăn một lượng
calorie (cal) cần thiết. Theo tiêu chuẩn
của tổ chức lương nông (FAO) của
LHQ th́ khẩu phần ăn trung b́nh là 2.500 kcal
cho người lớn. Chỉ tiêu của Việt
Nam là 2.200 kcal/ngày. Con số này thay đổi tùy
độ tuổi, giới tính và tính chất công
việc. Ngoài ra, khẩu phần ăn c̣n phải
đủ về chất tức là ngoài bột
đường c̣n phải đủ lượng
chất đạm, chất béo, vitamin và chất
khoáng.
CHẤT
KHÓANG
|
NGUỒN
THỨC ĂN
|
NHIỆM
VỤ CHÍNH TRONG CƠ THỂ
|
TRIỆU
CHỨNG KHI THIẾU KHOÁNG
|
Calcium
(Ca)
|
Sản
phẩm sữa, rau, đậu
|
Tạo
xương và răng, đông máu, vận
động cơ và dây thầ́n kinh
|
Tăng
trưởng chậm có thể giảm khôí
lượng xương
|
Lân
( P)
|
Sản
phẩm sữa thịt, ngũ cốc
|
Tạo
xương và răng, cân bằng acid-baz,
tổng hợp nucleotid
|
Ốm
yếu, mất khóang từ xương,
mất Ca
|
Lưu
huỳnh (S)
|
Protein
từ nhiều nguồn khác nhau
|
Thành
phần cuả nhiều acid amin
|
Triệu
chứng thiếu đạm
|
Kali
(K)
|
Thịt,
sản phẩm từ sữa, nhiều trái,
rau và hạt
|
Cân
bằng acid-baz, cân bằng nước,
chức năng dây thần kinh
|
Yếu
cơ, tê liệt, nôn mửa, suy tim
|
Chlor
(Cl)
|
Muối
ăn
|
Cân
bằng acid-baz, tạo dịch tiêu hóa
|
Vọp
bẻ (chuột rút), ăn mất ngon
|
Natri
( Na)
|
Muối
ăn
|
Cân
bằng acid-baz, cân bằng nước,
chức năng dây thần kinh (ATP
bioenergetics)
|
Vọp
bẻ (chuột rút), ăn mất ngon
|
Magne
( Mg)
|
Hạt
nguyên, rau xanh
|
Đồng
tác nhân (cofactor); sinh năng lượng ATP
|
Rối
loạn hệ thần kinh
|
Sắt
( Fe)
|
Thịt,
trứng, đậu, hạt nguyên rau xanh
|
Thành
phần của hemoglobin và của chất
mang điện tử trong biến dưỡng
năng lượng; đồng tác nhân enzim
|
Bệnh
thiếu sắt, ốm yếu, hệ
miễn nhiễm giảm
|
Fluorin
( F)
|
Nước
uống, trà, hải sản
|
Bảo
vệ cấu trúc răng (và có thể
của xương)
|
Thường
hư răng
|
Kẽm
(Zn)
|
Thịt,
hải sản, hạt
|
Thành
phần cuả vài enzim tiêu hóa và protein
|
Tăng
trưởng kém, viêm da sừng, sinh sản
kém, miễn nhiễmyếu
|
Đồng
( Cu)
|
Hải
sản, quả nhân cứng, đậu,
thịt cuả các cơ quan
|
Đồng
tác nhân enzim trong biến dưỡng
sắt, tổ hợp melanin, chuyển điện
tử
|
Anemia,
thay đổi xương và tim mạch
|
Mangan
(Mn)
|
Quả
nhân cứng, hạt, rau, trái cây, trà
|
Đồng
tác nhân enzim
|
Xương
và sụn không b́nh thường
|
Iod
(I)
|
Hải
sản, sản phẩm sữa, muối iod
|
Thành
phần kích thích tố các tuyến giáp
trạng
|
Bướu
cổ
|
Cobalt
(Co)
|
Thịt
và sản phẩm sữa
|
Thành
phần của vitamin B12
|
Không,
ngoại trừ khi thiếu B12
|
Selenium
(Se)
|
Hải
sản, thịt, hạt nguyên
|
Đồng
tác nhân enzim; chống oxid hóa trong sự liên
quan chặt chẽ với vitamin E
|
Đau
cơ, có thể suy tổn cơ tim
|
Chrom
(Cr)
|
Men
bia, gan, hải sản, thịt và vài
loại rau
|
Tham
gia vào biến dưỡng năng lượng
và glucoz
|
Biến
dưỡng glucoz suy yếu
|
Molypden
(Mo)
|
Đậu,
hạt và vài loại rau
|
Đồng
tác nhân enzim
|
Rối
loạn trong bài tiết các hợp chất
chứa nitơ
|
Các
chất trên được lấy từ thức
ăn hàng ngày để thỏa măn nhu cầu năng
lượng, sinh tổng hợp các chất mà cơ
thể cần. Cơ thể người có
thể tổng hợp các phân tử cho cơ
thể, nhưng có những chất mà cơ
thể không thể tổng hợp được,
gọi là chất
thiết yếu (essential nutrients). Chúng bao gồm các
acid amin thiết yếu, acid béo thiết yếu,
vitamin và muối khoáng.
a.
Acid amin
Cơ
thể chúng ta cần khoảng 20 acid amin để
tạo protein. Khoảng phân nửa trong số
đó cơ thể có khả năng tổng
hợp được, c̣n lại là các acid amin
thiết yếu phải lấy từ thức
ăn. Đó là tryptophan, methionin, valin, threonin,
phenylalanin, leucin, isoleucin và lysin. Đáng chú ư nhất
là hai chất đầu (tryptophan và methionin) không
có trong đậu và một số rau; c̣n hai
chất sau (isoleusin và lysin) lại không có trong
bắp và một số ngũ cốc.
b.
Acid béo
Con
người có thể tổng hợp được
hầu hết các acid béo. Nhưng acid béo linoleic
(acid béo không băo ḥa) là một acid béo thiết
yếu để tổng hợp phospholipid của
màng tế bào. Các acid béo băo ḥa có nhiều trong
mỡ và bơ động vật; c̣n acid béo không
băo ḥa có nhiều trong dầu thực vật.
c.
Vitamin
Vitamin
là những chất thiết yếu, dù rằng nhu
cầu của chúng ta đ̣i hỏi một lượng
rất nhỏ. Thiếu hay quá thừa vitamin có
thể gây các vấn đề nghiêm trọng cho
sức khỏe của con người. Như
thiếu vitamin A có thể gây bệnh quáng gà, mù
mắt, khô da hay có vẩy; nhưng quá thừa gây
bệnh nhức đầu, nôn mửa, rụng tóc,
hại gan và xương.
d.
Chất khoáng
Chất
khoáng là thức ăn vô cơ, thường
được đ̣i hỏi với một lượng
nhỏ, từ dưới 1mg đến khoảng
2.500 mg tùy loại. Con người và các động
vật có xương sống khác cần một lượng
tương đối lớn Ca và P để
tạo và bảo tŕ xương. Ca cũng cần
cho hoạt động cuả dây thần kinh và cơ.
P là thành phần cấu tạo của acid nhân và
ATP. Sắt (Fe) là thành phần của cytochrom (có
chức năng trong hô hấp tế bào) và
của hemoglobin (là protein của tế bào hồng
cầu). Magnesium, sắt, kẽm, đồng mangan,
selenium và molypden là các đồng yếu tố
(cofactor) trong cấu tạo của vài enzim; như
magnesium hiện diện trong enzim phân cắt phân
tử ATP. Iod cần cho tuyên giáp để tạo
thyroxin cho tăng trưởng và điều ḥa
nhịp độ biến dưỡng (metabolic
rate). Na, K và Cl quan trọng trong chức năng
thần kinh và cân bằng thẩm thấu giữa
tế bào và dịch giữa kẽ (interstial fluid).
Con người thường ăn nhiề́u
muối NaCl hơn mức cơ thể thật
sự cần.
Tóm
lại, thức ăn cần cung cấp calorie
để thỏa măn nhu cầu năng lượng,
vật liệu thô cho tổng hợp và một lượng
thích hợp của các chất thiết yếu.
a.
Các chất độc trong thức ăn
Trong
thức ăn có thể có các chất độc
tự nhiên hay nhân tạo. Ở đây cần
nhắc lại rằng một chất độc
rất khó định nghĩa v́ tất cả
đều tùy thuộc vào liều lượng
của nó. Bảng dưới đây xếp
loại cách thức chất độc có thể
có trong thưcï ăn.
Bảng
2 cho chúng ta thấy chất độc có nguồn
gốc tự nhiên hay con người tạo ra.
Loại chất độc tự nhiên được
chúng ta đặc biệt chú ư tới.
Bảng
2. Các loại chất độc trong thức ăn
CHẤT
ĐỘC TỰ NHIÊN
|
Sẵn
có ( inherent)
|
Thường
có trong thức ăn và tác động khi người
ăn đủ liều như solanine trong
khoai tây
|
Độc
tố do điều kiện bất thường
của sinh vật dùng làm thức ăn
|
Như
thịt ṿm nhiễm chất độc
thần kinh hay mật của các loại ong
hút mật hoa Rhododendron hay Azalea
|
Người
tiêu dùng mẫn cảm bất thường
|
Dị
ứng với thực phẩm đặc
biệt dị ứng với vài loại
hải sản
|
Nhiễm
độc bởi vi khuẩn gây bệnh
|
Bệnh
cấp tính, thường là bệnh
đường ruột như độc tô
útiết bởi Staphyllococcus aureus hay
Clotridium botulinum
|
Độc
tố nấm
|
Thức
ăn bị mốc và hư như aflatoxin B1
từ Aspergillus flavus là chất gây ung thư
gan
|
Chất
gây đột biến và ung thư
|
Do
cách nướng, nhúng mỡ, hay chiên
thịt và cá
|
NHIỄM
ĐỘC HÓA HỌC
|
Chất
phụ gia không muốn có
|
Hóa
chất dùng trong nông nghiệp và chăn nuôi
|
Như
thuốc trừ nấm trên ngũ cốc,
thuốc trừ sâu trên rau trái, kháng sinh và
kích thích tố cho động vật
|
Ô
nhiễm môi trường
|
Như
thủy ngân hữu cơ, cadmium, ch́, nhôm,
PCB, ṛ rỉ phóng xạ có thể ảnh hưởng
một nấc nào đó của chuỗi
thức ăn
|
Chất
phụ gia thực phẩm
|
Chất
bảo quản, chất tạo bọt, mùi,
màu
|
Vài
chất đă được sử dụng
hàng thế kỷ nay; nhiều chất có
nguồn gốc tự nhiên và dùng với lượng
nhỏ; đa số đă được
thử nghiệm kỹ
|
(
theo Walker, 1993)
b.
Độc tố tự nhiên trong thức ăn
Có
những người rất cảnh giác với
sự ngộ độc hóa chất khi ăn
thức ăn được nuôi hay trồng
bằng công nghệ hóa học hiện đại
đến mức muốn quay về lối
sống đơn giản và chỉ ăn thức
ăn tự nhiên mà thôi. Nhưng rất tiếc là
trong thiên nhiên chất độc tự nhiên cũng
nhiề́u vô kể. Trong bảng 2 đă liệt kê
các thựûc phẩm có chứa các chất
được biết là tác dụng xấu
với người.
Bảng
3 chỉ liệt kê một số độc
tố tự nhiên, chắc chắn là chưa đầy
đủ. Chúng có tác động dược
học cấp tính hay măn tính. Chúng có trong
thực vật như cơ chế tự vệ
chống lại các động vật ăn chúng.
C̣n động vật cũng có các phản
ứng sinh hóa và các đáp ứng tế bào
nhằm đối phó với chất độc
hay ít ra vô hiệu hóa một phần ảnh hưởng
có hại. Người và các động vật
khác cũng đă có kinh nghiệm tránh ăn các
thực phẩm có độc tố. Nhưng trong
nhiều trường hợp, các độc
tố trong thức ăn có thể gây ngộ
độc ở mức độ nghiêm trọng
khác nhau, đôi khi dẫn tới tử vong.
Tóm
lại, trong thực phẩm có nhiều chất
độc tự nhiên có thể ảnh hưởng
xấu lên sức khỏe của chúng ta.
Bảng
3. Các độc tố tự nhiên trong thức
ăn và tác động lên người
NGUỒN
GỐC
|
HOẠT
CHẤT
|
TÁC
ĐỘNG
|
Chuối
và vài trái cây khác
|
5-Hydroytriptamin;
adrenalin; noradrenalin
|
Aính
hưởng lên hệ thần kinh trung
ương và ngọai biên
|
Vài
loại phô-mai
|
Tyramin
|
Tăng
huyết áp, tănh họạt động
của chất ức chế men monoamine
oxidase
|
Ṿm
|
Do
ăn Gonyaulus, động vật đơn bào
là thức ăn cuả ṿm
|
Ngứa,
tê, yếu cơ, tê liệt hô hấp
|
Hột
thiên tuế
|
Methylazoxymethanol
(cycasin)
|
Hại
gan, ung thư
|
Vài
loại cá thịt và phômai
|
Nitrosamines
|
Ung
thư
|
Dầu
mù tạt
|
Sanguinines
|
Phù
thủng
|
Trái
đậu
|
Haemagglutinins
|
Hại
hồng cầu và tế bào ruột
|
Vài
loại đậu
|
Vicin
b-
Aminopropionitrile
b-
N- Oxalyl- amino- L- alnin
|
Haemolytic
anaemia (Favism)
Đi
đôi với sự thành lập collagen
Tác
dụng độc với hệ thần
kinh, lathysism
|
Trái
ackee (Blighia sapida)
|
a-
Amino- b- methylene
|
Nôn
mửa, Hypoglycaenia
|
Hột
bắp cải và vài cây họ cải khác
|
Glucosinolates,
thiocyanate
|
Lớn
tuyến giáp trạng v́ glucosinolates cần
sự tạo thyroxin, thiocyanate giảm sự
tập trung iod trong tuyến giáp trạng
|
Khoai
tây xanh
|
Solanie,
các sapotoxines khác
|
Rối
loại đường ruột
|
Nhiều
loại cá
|
Thay
đổi, do vài cơ quan hay vào các mùa khác
nhau
|
Chủ
yếu độc cho hệ thần kinh
|
Nhiều
loại nấm
|
Độc
tố nấm
|
Chủ
yếu độc cho hệ thần kinh và
gan
|
(Theo
Walker, 1993)

Ngay
từ khi xuất hiện, con người đă tác
động vào môi trường thiên nhiên. Tầm
mức tác động ngày càng gia tăng theo
sự phát triển của xă hội loài người.
a.
Tác động môi trường bởi người
nguyên thủy
Lửa
chắc chắn là một thụ đắc công
nghệ của nhân loại. Cho đến khi
chế ngự được lửa, con người
đă sống một cách hài hoà với thiên nhiên,
ít ra trên b́nh diện sinh thái học. Tổ tiên
xa xưa của chúng ta ở hạ kỳ đồ
đá cũ (Paléolithique inférieur) chỉ tác động
lên môi trường một cách hạn chế. Như
thế họ là thành viên hoàn toàn của hệ
sinh thái và chỉ là một trong vô số sinh
vật tạo nên quần lạc sinh vật, hoà
nhập vào chu tŕnh vật chất và ḍng năng
lượng trong sinh quyển. Nhưng ngay khi mà các
người săn bắt thời kỳ đồ
đá mới có được lửa, th́ họ
bắt đầu tác động lên môi trường
thiên nhiên bằng hành động phá hủy không
tương ứng với số lượng ít
ỏi của họ. Hiện nay chúng ta chắc
chắn rằng dùng lửa để săn
bắt thú đă gây nên một sự xáo trộn
các quần xă thực vật, cách nay mấy trăm
ngàn năm trên nhiều vùng trên thế giới.
Nếu châu Phi là nơi bị tác động
nhiều nhất, th́ chúng ta cũng có bằng
chứng về những đám cháy khổng
lồ đă tàn phá thảm thực vật Trung Âu
vào thời đồ đá mới (Ramade, 1989).
Trong
vùng nhiệt đới và thể cả ôn đới,
hỏa hoạn đă tàn phá nhiều diện tích
rừng nguyên sinh và ngăn chận sự phục
hồi về sau. Hơn nữa, thảm thực
vật phục hồi c̣n bị con người tàn
phá một cách cố ư, ở nhiều vùng
của châu Phi, châu Á và châu Mỹ nhiệt đới.
Người ta phá rừng để tạo nên các
thảo nguyên ḥa bản để thả
được nhiều thú có guốc (Ongulata) hơn.
Do đó, các đám cháy cố ư này đă
tạo ra các savanes ở Tây Phi và Đông Nam Á. Cách
nay khoảng mười ngàn năm, các thổ dân
Bắc Mỹ đă mở rộng đồng
cỏ bằng cách đốt rừng tạo đất
cho ḅ Bisons. Với cách làm như vậy, nếu
sự đổi thảm thực vật không làm
mất sức sản xuất của sinh cảnh,
th́ sự tàn phá có hệ thống các quần xă
thực vật thường làm giảm khả năng
sinh học của môi trường, như ở
Cote dï'Ivoire, Brésil và Guyanne (Lamotte et al, 1967 và sau
đó).
Nhưng
các thợ săn thời kỳ đồ đá
mới không chỉ biến đổi hay hủy
hoại các quần xă thực vật trên
những diện tích rộng lớn. Luôn luôn
với sự trợ lực của lửa,
kết hợp với nhiều kỹ thuật săn
bắt khác nhau, họ cũng làm nghèo đi thành
phần loài cuả các động vật có xương
sống lớn trên nhiều vùng trên thế
giới.
Ngày
nay chúng ta có những bằng chứng cổ sinh
vật học về sự tận diệt
nhiều loài động vật khổng lồ,
chứng cứ muộn màng của hệ động
vật phong phú thời Tân Sinh (Neogène). Người
ta cũng nói đến các cuộc tàn sát
thời Pleistocène ở châu Phi nhiệt đới,
cách nay khoảng 50.000 năm, đă làm mất
đi một nửa số thú lớn c̣n sót
lại từ các thời kỳ của kỷ Đệ
tam (tertiaire). Cũng thế, các thợ săn thượbg
kỳ đồ đá cũ (Paleothique superieur), cách
nay khoảng 12.000 năm, đă tận diệt ít
ra là 60% các thú lớn ở Mahgreb, châu Phi.
Các
thổ dân cổ Bắc Mỹ đă tiêu diệt
các khổng tượng (mammuth) và ḅ Bisons cổ
cũng vào thời kỳ này... Con người cũng
có vai tṛ trong sự tuyệt chủng của các
loài chim Dinornithidae khổng lồ ở Madagascar và
Tân Tây Lan.

b.
Nông nghiệp, nguyên nhân chủ yếu của
sự mất cân bằng do hoạt động
cuả con người
Vào
đầu thời Đồ đá mới, tác động
của con người lên sinh quyển gia tăng
bằng nhiều mức độ với sự khám
phá ra nghề nông và từ đó gây ra sự gia
tăng dân số chưa từng có. Nông nghiệp
tạo nên cuộc cách mạng công nghệ
thứ hai của nhân loại và chi phối
tất cả các cấu trúc xă hội từ
thời bấy giờ măi cho đến thời
gian gần đây và hiện và c̣n ở nhiều
nước thuộc thế giới thứ ba.
Sự
phát triển của nông nghiệp cũng gây ra
một sự xáo trộn lớn của sinh
quyển bởi con người. Nó đẩy
mạnh các biến đổi hệ động
vật kể trên bằng cách gia tăng tốc
độ tiêu diệt các động vật
lớn mà các nhà chăn thả xem như là các loài
cạnh tranh với gia súc. Đặc biệt sự
mở rộng nông nghiệp được đặc
trưng bởi sự thay thế các hệ sinh thái.
Loạt thóai biến: Lâm -> Mục -> Nông
được thể hiện bởi sự thay
thế từ hệ sinh thái rừng cao đỉnh
bằng đồng cỏ chăn thả rồi
tới đất trồng trọt.
Nông
nghiệp v́ thế đặc trưng bởi
sự tiêu diệt thảm thực vật nguyên
thủy trên các diện tích rộng lớn, nhường
chỗ cho một số ít loài cây trồng mà con
người chọn lựa phù hợp với nhu
cầu thức ăn của ḿnh.
Sự
mở rộng nông nghiệp có ảnh hưởng
tai họa cho nhiều hệ sinh thái đất
liền. Sự phá rừng ồ ạt, sự
sử dụng đất cẩu thả đă làm
kiệt quệ các vùng đất rộng lớn
ở vùng ôn đới và nhiệt đới.
Sự
tàn phá rừng ở thời Trung Cổ cho
thấy thái độ của con người đối
với cây cỏ. Nó xảy ra khắp mọi nơi
và ở các nền văn minh cổ xưa như
Pháp, hay Trung Hoa. Cần nhớ rằng hiện nay
Trung Hoa chỉ có 8% diện tích đất che
phủ bởi rừng trong khi con số này là 70% vào
thời Đồ Đá mới.
Ngoài
sự tạo ra các hệ sinh thái nông nghiệp,
trong đó sự đa dạng về loài là
thấp nhất v́ người ta loại bỏ các
vật canh tranh với cây trồng, nông nghiệp
c̣n thuần hóa một ít loài động vật
trong đó có một số để lấy
sức kéo. Do đó con người làm gia tăng
khối lượng thực phẩm trên một
đơn vị diện tích và một lượng
năng lượng cơ học cần thiết.
Nông
nghiệp cũng cho phép sự định cư và
xuất hiện các khu tập trung với sự
tạo lập các thành phố đầu tiên.
Trong khi người thợ săn thời Đồ
Đá cũ cần khoảng 20 km2 đất để
sinh sống cho nên ở cách xa nhau thỉ người
nông dân ở thời kỳ Đồ Đá mới
chỉ cần vài ha là đủ. Mặt khác,
sự phát hiện ra cách bảo quản ngũ
cốc trong các silos cho phép tạo nên các dự
trữ và thuận lợi cho sự thay đổi
từ du mục sang định cư.
Nhưng
bất hạnh thay sự sử dụng cẩu
thả đất ven, sự tưới có hệ
thống các đất mà cấu trúc thổ nhưỡng
không chịu được và sau cùng sự chăn
thả quá mức gây ra các hậu quả tai
hại cho các môi trường khai thác.
Sự
hủy hoại các quần xă thực vật
tự nhiên là khởi đầu cho sự khô
hạn hay sự sa mạc hóa toàn bộ các vùng
đất dùng cho trồng trọt hay chăn
thả. Việc dùng lửa bởi các mục
đồng tiền sử nhằm mục đích
cải taọ thành nơi sinh sống của đàn
gia súc đă tàn phá nhiều khu rừng nguyên sinh
cách đây hàng chục ngàn năm ở nhiều
nơi của vùng Địa Trung Hải.
Sự
tổn hại không phục hồi của môi trường
tự nhiên đă hoàn tất trên nhiều vùng vào
đầu công nguyên. Đó là trường hợp
của vùng Lưỡi Liềm ph́ nhiêu. Mệnh
danh là cái nôi của nền văn minh, vùng đất
này có h́nh cánh cung, kéo dài từ phía nam Palestine
đến phía bắc Syrie và Mésopotamie, từ
đó kéo dài đến tận phần phía Đông
của Iran. Chính ở đó nông nghiệp đă
ra đời, cách nay 10.000 năm: người ta có
bằng chứng về sự trữ hạt ngũ
cốc và sự nuôi cừu từ thiên niên
kỷ thứ IX ở di tích Zawi, Chemi và Irak. Ngày
nay sa mạc trải rộng trên nhiều địa
điểm tiền sử cuả Trung Đông, nơi
mà trước đây 8000 năm các nền văn
minh nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Sự khai thác quá mức các sinh cảnh này đă
tàn phá dần dần các rừng cây, thảm
thực vật thứ sinh rồi đất đai...
Cho đến thời gian gần đây và mặc
dù sự tiến bộ của canh tác và công
nghệ, các xă hội khác nhau vẫn c̣n giữ
một nền tảng chung đă có từ
thời Đồ Đá mới. Cho dù cơ sở xă
hội kinh tế có ra sao, các xă hôị này
vẫn cho thấy một cấu trúc cơ bản
là nông nghiệp.
Mặc
dù sự phát triển nhanh của thành phố và
sự xuất hiện của các hoạt động
kỹ nghệ, đa số dân chúng vẫn
sống nhờ nông nghiệp. Như vậy tác
động của con người lên môi trường
về cơ bản là không đổi cho măi đến
giữa thế kỷ thứ 19, lúc bắt đầu
các khám phá khoa học của chủ nghĩa tư
bản đánh dấu sự phát triển cuả
nền văn minh công nghệ đương
thời.
Rốt
cuộc, nền văn minh nông nghiệp không làm
biến đổi chu tŕnh vật chất và ḍng
năng lượng trong sinh quyển; thậm chí
người ta c̣n có thể nói rằng hệ sinh
thái con người trong h́nh thái xă hội như
vậy hoà nhập vào toàn bộ các hiện tượng
sinh thái học tự nhiên.
Sự
đa dạng của hệ sinh thái này mặc dù
có đơn giản hóa, vẫn c̣n ở mức
cao: đồng cỏ tự nhiên, rẫy,
rừng, các diện tích đa canh tạo nên
nhiều nơi ở ít hoặc không bị
biến đổi.
Ngoài
ra, HST này gồm các sinh vật sản xuất sơ
cấp (cây trồng hay tự nhiên) được
con người ăn trực tiếp hay qua trung
gian các sinh vật sản xuất thứ cấp
(thú nuôi, thú rừng...) hay dùng làm nguyên liệu
(gỗ, sợi...). Con người là sinh vật tiêu
thụ chính cuả hệ sinh thái, trong đó cũng
có một sinh khối đáng kể các thú hoang dă.
Tất cả sản lượng tiêu thụ
bởi con người đều được
biến thành chất thải phân hủy sinh
học được sử dụng bởi các
sinh vật phân hủy. Các sinh vật này phân
hủy hoản toàn các chất thải trên và khoáng
hoá thành các hợp chất đơn giản
(phosphat, nitrat và các muối khoáng khác) được
sử dụng bởi các sinh vật tự dưỡng.
Do đó nước và đất có đầy
đủ khả năng tự làm sạch và chu
tŕnh vật chất không bị xáo trộn. Năng
lượng mà con người sử dụng c̣n
thấp và phân tán.
Tóm
lại, HST con người trong nền văn minh nông
nghiệp cho thấy một độ ổn định
cao. Hoạt động của con người trong
xă hội nông thôn ḥa nhập vào tổng thể
chu tŕnh vật chất và không làm biến đổi
ḍng năng lượng sinh quyển. Nó không
giống với nền văn minh công nghệ sau này.
c.
Xă hội công nghệ đương đại và
tác động cuả nó lên sinh quyển.
Chính
vào đầu thế kỷ thứ 19 đă manh
nha các biến chuyển cho phép sự bung ra xă
hội công nghệ mà chúng ta hiện đang
sống. Cấu trúc kinh tế cuả các nước
châu Âu thay đổi mau lẹ; việc phát minh các
máy kỹ nghệ, việc ứng dụngcác
kỹ thuật mới tạo thuận lợi cho vô
số nhà máy. Đồng thời nhiều cây
trồng được nhập nội và các phương
pháp trồng trọt và chăn nuôi được
phổ biến. Tất cả các chuyển
biến này tạo ra tiền đề cho một
sự thay đổi cơ bản trong mối tương
quan giữa con người và thiên nhiên.
Sự
đô thị hóa và công nghiêp hóa biến các
đô thị và các khu công nghiệp thành các trung
tâm càng ngày lệ thuộc vào các vùng sản
xuất nông nghiệp xung quanh. Hơn nữa, các
chất thải ngày càng nhiều và đa
dạng, gây nên sự xáo trộn lớn cho
hệ sinh thái.
Xem
xét hệ sinh thái con người trong xă hội
kỹ nghệ hiện thời, người ta
thấy ba nguồn xáo trộn chủ yếu gây
mất ổn định thiên nhiên. Đó là sự
giảm thiểu sự đa dạng của sinh
giới, sự gián đọan các chu tŕnh vật
chất và sự biến đổi hoàn toàn các
chu tŕnh vật chất. Chi tiết của các
sự xáo trộn này sẽ được đề
cập trong các chương sau của giáo tŕnh.
|