Dân số học và sự phát triển dân số |
|
Gs. Huỳnh Thu Ḥa - Vơ Văn Bé |
|
||||||
I . CÁC KHÁI NIỆM CƠ
BẢN CỦA DÂN SỐ HỌC:
CHỈ SỐ SINH, TỬ, DI CƯ, NHẬP CƯ Dân số học là khoa học
về dân số, nghiên cứu các chỉ tiêu dân
số và các điều kiện môi trường
ảnh hưởng lên chúng. Hiện nay người ta
quan tâm đặc biệt tới dân số học loài
người, v́ sự gia tăng quá nhanh dẫn
tới sựbùng nổ dân số như hiện nay. Một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhất là tỉ lệ gia tăng dân
số thường được biểu diễn
bằng phần trăm (%). Tỉ lệ này được
tính như sau: Tỉ lệ gia tăng (%) = (Sinh
suất thô - tử suất thô) x 100 Sinh suất thô là số lượng
ngừơi sinh ra tính trên một ngàn người
trong một năm. Tử suất thô là số lượng
người chết tính trên một ngàn người
trong một năm. Mối liên hệ giữa sinh
suất và tử suất xác định dân số tăng,
giảm hay không đổi. Thí dụ các nước
đang phát triển có tỉ lệ gia tăng dân
số hàng năm là 2,1%. Tỉ lệ này có nghĩa là
hàng năm có thêm 2,1 người tính cho 100 người.
Thấy th́ có vẻ ít nhưng tính trên 4 tỉ dân th́
với tỉ lệ trên mỗi năm có thêm 84
triệu người. Quần thể gia tăng số lượng
do sự sinh hay sự sinh đẻ. Sự sinh thường
được biểu diễn bằng tỉ lệ
sinh hay tỉ lệ sinh đẻ. Từ ngữ sinh bao
hàm cả sự sản xuất ra các cá thể
mới bơií sự đẻ con, nở trứng,
nẩy mầm hay phân đôi. Trong sự sinh sản, người
ta phân biệt hai khái niệm. Khả năng sinh
sản là một khái niệm sinh lư học cho thấy
một sinh vật có thể sinh sản được
hay không. C̣n sự mắn đẻ (đẻ
nhiều hay đẻ ít) là khái niệm sinh thái
học căn cứ trên số lượng cá thể
con được sinh ra trong một khoảng thời
gian. Chúng ta cũng phân biệt sự mắn đẻ
tiềm tàng và sự mắn đẻ thực tế.
Thí dụ như trong quần thể loài người
hiện nay sự mắn đẻ thực tế
của phụ nữ thường là 2-3 con, trong khi
đó sự mắn đẻ tiềm tàng có thể là
hơn 10 con. Tỉ lệ sinh có thể
được tính bằng số cá thể được
sản xuất bởi cá thể cái trong môt đơn
vị thời gian. Sự đo lường tỉ
lệ sinh tùy thuộc chặt chẽ vào chủng
loại sinh vật. Một số loài sinh mỗi năm
một lần, số khác nhiều lần, và cũng có
loài sinh đẻ liên tục. Số lượng cá
thể sinh ra cũng thay đổi tùy loài. Như hàu
có thể đẻ từ 55 cho đến 144 triệu
trứng. Cá thường đẻ hàng ngàn, ếch nhái
hàng trăm trứng. Chim đẻ từ 1 đến
20 trứng, thú đẻ ít hơn 10 con và thường
là 1 đến 2 con mà thôi (Krebs, 1994). Sự mắn
đẻ tỉ lệ nghịch với công chăm sóc
con. Loài đẻ ít con th́ dành thời gian chăm sóc
con ḿnh nhiều hơn. Đối với loài người,
sinh suất được tính bằng số người
sinh ra trong một năm tính cho 1000 dân. Sinh suất
của Việt Nam gần đây là 38%o. Nhà sinh vật học không chỉ
quan tâm đến việc tại sao sinh vật
chết mà c̣n muốn biết chúng chết vào một
độ tuổi nào. Sự chết được
biểu diễn bằng tử suất. Đó là số lượng
cá thể chết trong 1000 cá thể trong một năm.
Tỉ suất cuả Việt Nam gần đây là
17/1000. Sự thọ hay tuổi thọ
được qui định bởi tuổi chết
của các cá thể trưởng thành trong quần
thể. Hai loại tuổi thọ được ghi
nhận là tuổi thọ tiềm tàng và tuổi
thọ thực tế. Tuổi thọ tiềm tàng là
độ tuổi tối đa mà một cá thể
của loài có thể đạt tới. Giới
hạn này là do sinh lư học của sinh vật và sinh
vật chết v́ tuổi già. Một cách diễn
tả khác của tuổi thọ tiềm tàng là dùng
tuổi thọ trung b́nh của quần thể sống
trong các điều kiện tối ưu. Nhưng trong
thiên nhiên có rất ít sinh vật sống trong điều
kiện tối ưu. Đa số động vật và
thực vật chết v́ bệnh, bị ăn
thịt hay do hiểm họa tự nhiên khác. Do đó
các điều kiện tự nhiên của môi trường
chi phối tuổi thọ thực tế của sinh
vật. Tuổi thọ thực tế là tuổi
thọ trung b́nh của các cá thể trong quần
thể sống trong những điều kiện
thực tế của môi trường (Krebs, 1994). Sự phát tán bao gồm sự di cư
và sự nhập cư, cũng là thông số của
sự thay đổi số lượng cá thể
của quần thể (Krebs, 1994). Sự di cư
xảy ra khi cá thể rời khỏi quần thể,
tức là làm giảm số lượng của
quần thể. Trái lại sự nhập cư làm gia
tăng số lượng này. Các chỉ số trên là các thông số chủ yếu của quần thể sinh vật. Các thông số trên có thể thay đổi và ảnh hưởng lên lên sự thay đổi số lượng hay mật độ cuả quần thể, tức là ảnh hưởng lên tỉ lệ gia tăng của quần thể. Dấu + biểu diễn tác động
dương Dấu - biểu diễn tác động
âm. Sự gia tăng không mong đợi
của loài người tạo nên một nhân tố hàng
đầu của sự hủy hoại sinh quyển. Dù
rằng sự đông dân đă xảy ra từ
nhiều thế kỷ trước ở vài vùng như
ở châu Á, sự tăng trưởng gia tốc
của dân số thế giới đă quá đông
đúc tạo nên một sự kiện cơ yếu,
đặc sắc của loài người, gọi là
sự bùng nổ dân số ở thế kỷ thứ
XX. Năm 1987, dân số thế
giới là 5026 triệu người và tốc độ
gia tăng hàng năm là 1,7%. (World population data sheet 1987-
Population reference bureau, Washington). Sự đông dân của sinh
quyển xuất hiện khi mật độ 33 người/km2
bị vượt qua trên ṭan bộ lục địa
kể cả vùng cực và sa mạc. Hành động hủy
hoại của công nghệ cộng với áp lực
quá mức về đất trồng trọt và sự
sản xuất thực phẩm không tương
ứng với sự trường tồn của
hệ sinh thái tự nhiên và cả các hệ sinh thái
bị biến đổi hay sáng tạo bởi con người
lâu nay. Việc nghiêm trọng hơn, không
chỉ là số lượng người vốn quá
lớn mà c̣n là dân số tăng với tốc độ
lũy tiến. Không một chuyên gia nào có thể
dự kiến chính xác khi nào th́ dân số ổn
định. Do đó Dorst (1965) xem sự bùng nổ dân
số ở thế kỷ XX là một hiện tượng
có qui mô ṭan cầu sánh với thảm họa địa
chất đă làm đảo lộn bề mặt hành
tinh. Lịch sử dân số được
hiểu một cách đại để do thiếu các
tài liệu lịch sử trước năm 1650.
Nhiều nghiên cưú cổ sinh vật học cho phép
thực hiện các ước tính khá chính xác số
dân, ngay cả cho những thời kỳ đồ
đá xa xưa Nếu chúng ta chấp nhận
rằng những đại diện đầu tiên
của giống Homo xuất hiện cách nay 2 triệu năm,
th́ ta có thể ước tính từ 60 đến 100
tỉ người đă sống trên hành tinh. Trong
điều kiện đó, dân số hiện nay ít ra
chiếm 5% tổng số dân từ trước
tới nay. Các Australopithecus rồi các
Paleanthropiens xuất hiện ở châu Phi với số
dân không quá 120 triệu người cách nay 1 triệu
năm. Trong thời kỳ đồ đá dưới
và giữa, dân số thế giới tăng trưởng
chậm và xâm chiếm dần cựu thế giới.
Con số 1 triệu người đầu tiên đạt
cách nay 100.000 năm. Cuối thời kỳ đồ
đá cũ trên, đầu thời kỳ đồ
đá mới, số người trên trái đất là
5 triệu người. Sự ra đời của các
nền văn minh định cư và nông nghiệp kéo
theo sự gia tăng mạnh về dân số, làm cho dân
số trên địa cầu đạt 150 triệu người
vào đầu thời kỳ đế quốc La Mă. Từ đầu kỷ nguyên công
giáo cho đến khi sự khởi phát của
thời hiện đại, sự tăng trưởng
tiếp tục và đạt đến 545 triệu người
vào năm 1650. Trong thời gian này, tuy có các khủíng
hoảng (chiến tranh, đói và dịch bệnh) nhưng
dân số vẫn gia tăng. Từ thế kỷ thứ XVIII, dân
số gia tăng mạnh. Do có sự du nhập
nhiều hoa màu mới như khoai tây và các kỹ
thuật làm gia tăng năng suất nông nghiệp.
Tuy nhiên chiến tranh và dịch bệnh vẫn
tiếp tục hoành hành. Kỷ nguyên Pasteur chưa
thể chấm dứt được các dịch
bệnh chẳng hạn như sự bành trướng
của SIDA (AIDS). Người ta ước lượng
có khoảng 906 triệu người vào năm 1800; 1
tỉ vào năm 1840. Với sự phát triển
của kỷ nguyên Pasteur sự gia tăng dân số
hết sức nhanh. Ta có 2 tỉ người vào năm
1930, 3 tỉ vào năm 1962 và 4 tỉ vào năm 1975.
Nếu ta vẽ đường cong biểu diễn
sự gia tăng dân số theo thời gian, th́ ta có
được đường biểu diễn
dạng chữ J mà nhánh lên bắt đầu từ năm
1900. Khảo sát đường biểu diễn này th́
thấy thế nào là bùng nổ dân số. Homo sapiens, mà sự phân hóa cách
nay khoảng 600.000 năm cần phải đến
nửa triệu năm để từ con
số vài ngàn đạt đến 1 tỉ. Nhưng
chỉ cần 45 năm để tăng đôi số
lượng từ 2 tỉ lên 4 tỉ người
trong khoảng 1930 đến 1975. Cái chính, không chỉ
tổng số người gia tăng liên tục, mà
vận tốc cũng tăng nhanh theo thời gian.
Hiện nay, dân số thế
giới gia tăng hàng năm thêm khoảng 90 triệu
người, với tỉ lệ gia tăng là 1,7%.
Tỉ lệ gia tăng này khác biệt lớn tùy theo
tŕnh độ phát triển của các nước. Các
nước công nghiệp phát triển, tứïc là các
nước giàu th́ tỉ lệ này là 0,5%/năm; c̣n
đa số các nước nghèo là 2,1%/năm. Do đó
đa số người tăng thêm là ở các
quốc gia đang phát triển vốn đă quá đông
dân. Theo đà này th́ khỏang 40 năm nữa dân
số thế giới sẽ tăng gấp đôi
tức là gần 12 tỉ người. 3. Chỉ số sinh,
tử, và tỉ lệ gia tăng dân số của
Việt Nam Việt Nam thuộc các nước
đang phát triển, dân số gia tăng nhanh. Với
sinh suất 3,8% và tử suất 1,7% như hiện nay
th́ tỉ lệ gia tăng dân số của nước
ta là 2,1%/năm (1987). Với đà gia tăng này, 33 năm
nữa, khoảng năm 2030, dân số nước ta tăng
gấp đôi con số hiện nay (77 triệu), để
đạt tới con số 154 triệu người! Các vấn đề của dân
số hiện nay dẫn chúng ta đến việc xem
xét sự tiến hóa tương lai của số dân
và bối cảnh dân số cho năm 2000 và cho cả
thế kỷ thứ 21. a. Các ư kiến khác nhau Trong lĩnh vực này các chuyên gia
không nhất trí nhau và có hai thuyết đối
lập nhau. Một th́ bi quan cho rằng toàn thể nhân
loại tiếp tục gia tăng theo một lũy
tiến (bùng nổ). Thuyết kia th́ lạc quan cho
rằng chúng ta đang đi vào giai đoạn
chuyển tiếp. Thật vậy, như ở châu Âu
th́ sự chuyển tiếp bắt đầu cách nay môtü
thế kỷ, cho thấy sự bùng nổ dân số
không phải là vấn đề không thể tránh
được. Có thể thực hiện được
việc giảm đà gia tăng khi sự thất
học bị hạn chế và khi giáo dục sức
khỏe được nâng lên. - Thuyết thứ nhất dựa vào
sự phân tích một hệ thống gồm năm thông
số chính: dân số, sự công nghiệp hóa, ô
nhiễm, sản xuất lương thực và sự
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Hơn nữa mô h́nh
này c̣n dựa vào một định đề mà theo
đó các thông số trên vốn đă phụ
thuộc vào nhau, cũng gia tăng theo lũy tiến
thời gian. Nghiên cứu này cho rằng không có sự
chuyển tiếp dân số xảy ra ở các nước
thế giới thứ ba và khuynh hướng ổn
định dân số ở các nước kỹ
nghệ hóa không tiến triển thêm nữa. Trong
những điều kiện đó, các tính toán cho
thấy rằng nhân loại sẽ là 7,5 tỉ người
vào năm 2000, 14 tỉ vào năm 2030 và 28 tỉ vào năm
2070. - Các nhà sinh thái học lạc quan
th́ cho rằng dân số thế giới gia tăng theo
đường biểu diễn dạng chữ S.
Thật vậy, các dự đóan luôn luôn ngẫu nhiên
trong lĩnh vực này. Tuy vậy không phải vô lư
khi giả dụ rằnghiện nay chúng ta đang
ở gần điểm uốn của đường
tăng trưởng. Điều này phù hợp với
vận tốc tăng trưởng dN/dt cực đại
khi N=K/2, sau đó giảm dần khi N tiến đến
K. Các số liệu về công nghiệp hiện nay và
sự tiến bộ của nông nghiệp cho thấy
con số 10 tỉ người là giới hạn
tối đa mà sinh quyển có thể chấp nhận
được (khả năng môi trường). Dân
số thế giới có lẽ phải ổn định
ở con số này. Mà hiện nay chúng ta có khoảng hơn
5 tỉ tức là đang ở mức tốc độ
gia tăng tối đa, sau đó sẽ chậm
lại. Ta có thể phân biệt ba giai
đoạn trong sự gia tăng dân số theo thời
gian. Giai đoạn đầu gọi la malthusienne
(kiểu Mathus), gia tăng chậm v́ đói và dịch
bệnh có sự biến thiên lớn. Sinh suất và
tử suất rất cao nên tỉ lệ gia tăng
nhỏ. Giai đoại hai, gọi là gia tăng dân
số học. Biến thiên hàng năm nhỏ, sinh
suất giống giai đọan đầu, nhưng
tử suất giảm mạnh. Tử suất giảm
là nhờ tiến bộ của y tế công cộng và
sản xuất nông nghiệp. Dân số gia tăng
rất mạnh. Giai đoạn ba, gọi là ổn
định Tân Mathus, dân số gia tăng chậm, do có
sự giới hạn tự nguyện của sinh
suất nhờ các phương pháp ngừa thai. Số
con của một bà mẹ nhằm giữ cho dân
số ở một vị trí không đổi th́ tùy
thuộc vào nhiều yêu tố, đặc biệt là
sự độc thân và sự vô sinh và thay đổi
theo quốc gia. Người ta ước tính từ
2,05 đến 2,34 trẻ em cho cặp vợ chồng.
Hiện nhiều nước châu Âu đă đạt
đến, có khi c̣n ít hơn con số này. b. Sự chuyển tiếp đến
gia tăng dân số băng không Năm 1988 là năm có sự tăng
trưởng dân số đạt giá trị tuyệt
đối cao nhất, với hơn 100 triệu người
tăng (Haub và Kent, 1988). Tuy nhiên, sinh suất đă
bắt đầu giảm ở nhiều nước
thế giới thứ ba, mở đầu cho sự
giảm đà tăng dân số. Người ta xem xét các vấn
đề chủ yếu sau: vào lúc nào và ở
mức bao nhiêu th́ dân số thế giới ổn
định? Mục tiêu là nhân loại có số lượng
không đổi, tức R=0 với b=m và m tối
thiểu. Trong các giả thiết đó,
sự sinh sản là chỉ thay thế số cá
thể mất đi. Theo lư thuyết, một phụ
nữ chỉ sinh 2 con trong suốt cuộc đời
của ḿnh. Điều này cũng hàm ư một phụ
nữ sinh chỉ trung b́nh 1 con gái, nếu hơn th́
số dân sẽ gia tăng. Nhưng việc một phụ
nữ sinh một con gái hữu thụ cũng chỉ là
điều kiện ban đầu của sự gia tăng
dân số bằng không. Bởi v́ nó chưa đủ
để đà gia tăng dân số dừng lại
liền. Ta cần xem xét cấu túc tuổi của
quần thể. Một quần thể có độ
tuổi tiền sinh sản lớn th́ sẽ có
tiềm năng gia tăng mạnh, do số cha mẹ tương
lai sẽ nhiều. Như nước Mexico chẳng
hạn, có số cô gái ở độ tuổi
tiền sinh sản nhiều gấp ba lần số
phụ nữ sinh sản. Cho nên ngay cả khi các cô này
có số con ít hơn ba lần số con của
thế hệ trước, th́ sự gia tăng theo giá
trị tuyệt đối vẫn bằng mức như
hiện nay. Do đó, để dân số ổn định
cần có sự cân bằng tương đối
của các độ tuổi, trong đó độ
tuổi tiền sinh sản không quá cao. Ở mức độ nào th́ dân
số của các lục địa và toàn thể nhân
loại sẽ ổn định? Nếu ta đặt
trong ước tính trung b́nh của Liên Hiệp
Quốc th́ dân số thế giới sẽ đạt
tới đa vào năm 2100 với 10.2 tỉ người.
C̣n ở mức độ cao là 14,2 tỉ. Ơí dây cần chú ư rằng
dự đoán trên có rất nhiều bất cập và
tỏ ra quá lạc quan. Sự bất cập (hoặc
không chắc chắn) là do các nước thế
giới thứ ba chưa thực sự bước vào
thời kỳ chuyển tiếp. Các dự đoán c̣n cho thấy
sự có sự cách biệt càng lớn trong dân số
các nước khác biệt rơ rệt. Châu Phi và châu
Mỹ La Tinh gia tăng mạnh nhất. Mặt khác,
Trung Hoa là nước duy nhất thuộc thế
giới thứ ba hiện đang đi vào giai đoạn
Mathus, với tỉ lệ gia tăng hàng năm là 1.3%
(dưới mức trung b́nh của thế giới). Ngoài ra tỉ lệ dân số
của các vùng trên thế giới cũng thay đổi,
trong đó châu Phi có tỉ lệ gia tăng mạnh
theo thời gian. Sau cùng sự phân bố các độ
tuổi của dân số thế giới chuyển theo
hướng là giảm tỉ lệ tương đối
các cá thể trẻ dưới 15 tuổi và tăng
độ tuổi cá thể trưởng thành và già. c. Các cản trở của
việc ổn định nhanh dân số Có rất nhiều trở ngại
ở các nước thế giới thứ ba cho
sự ổn định dân số nhanh chóng. Trước
hết, là do số lượng lớn của độ
tuổi tiền sinh sản. Trung Hoa là nước có
tỉ lệ gia tăng dân số khá cao (1,3%) dù người
ta đă dùng những biện pháp mạnh, cho phép
mỗi cặp vợ chồng chỉ có một con. V́
vậy cần phải có thời gian ít nhất là 20 năm
để thấy khả năng ổn định dân
số. Trở ngại khác có liên quan
tới vấn đề kinh tế xă hội làm
chậm các chương tŕnh hạn chế sinh đẻ
"kiểu Tàu", đối lập với sự
ổn định dân số. Đó là các hủ tục,
thói quen từ ngàn xưa để lại, như
sự đa thê hay phản ứng tiêu cực với các
vấn đề như sinh đẻ hay ngừa thai... Các quan điểm đối
nghịch nhau trong vấn đề này hết sức
phức tạp. Nhưng nếu ổn định dân
số trong thời gian càng ngắn càng tốt là
vấn đề cốt tử của nhiều nước
đang phát triển, nếu họ muốn có sự phát
triển bền vững. Ngày nay, đa số các nước
trong thế giới thứ ba không thể chậm
trễ ở giữa đường chuyển tiếp
dân số v́ rằng mật độ đă quá cao
rồi. Hoặc là phải dùng mọi năng lực
cho sự kiểm soát sinh đẻ, hoặc họ
sẽ bị tràn ngập bởi lớp lớp sóng người. Sau hết, vấn đề cơ
bản mà các nhà sinh thái học muốn biết là
liệu sự ổn định dân số có sớm
thực hiện sao cho sự thỏa măn các nhu cầu
kinh tế của con người- không chỉ vật
sống mà c̣n sáng tạo và văn hóa- có thể có
được và tương thích lâu dài với
sự trường tồn của sinh quyển.
|