Ngoài các nhu cầu thiết
yếu số một là cái ăn, con người
c̣n có các nhu cầu khác. Đó là nhu cầu về
quần áo, nhà ở, đi lại, học
tập, văn hóa, thể thao du lịch... Chương
này nhấn mạnh các nhu cầu về quần áo,
nhà ở , đi lại và sơ lược
về các nhu cầu c̣n lại.
I. NHU CẦU NHÀ
Ở VÀ QUẦN ÁO
Sự trang sức cho cơ
thể và sự quần tụ xă hội có
thể là những sức mạnh thúc giục ngựi
nguyên thủy trang điểm nghệ thuật hơn
và xây dựng kỷ lưởng hơn. Nhưng
chắc chắn là sự giữ nhiệt của
quần áo và nhà ở cho phép con người,
vốn có nguồn gốc xích đạo, có
thể di chuyển về hai cực và cho phép duy
tŕ các hoạt động khi phải đối
phó với các kỳ băng hà đang tới.
Hai cách làm ấm bằng
quần áo và nhà ở tiếp tục bổ sung
nhau, cái này bù đắp cho sự thiếu sót
của cái kia. Ngay cả ngày nay, sự sử
dụng các quần áo tương đối
mỏng ở trong nhà, trong các vùng khí hậu khác
nhau, thật sự là do hiệu quả của
việc sưởi ấm trong nhà nơi các vùng
lạnh, cho phép con người có môi trường
ít khắc nghiệt hơn, với việc bổ
sung phần che chắn bên ngoài khi mà mùa lạnh
đến.
Giữ nhiệt có hiệu
quả là mục tiêu hàng đầu của
việc tạo mẫu quần áo và nhà ở. Nhưng
mục tiêu thứ hai lại phát triển nhanh, làm
lu mờ mục tiêu trước. Khi con người
di chuyển về hai cực, họ phải
đương đầu sự thay đổi ngày
đêm và mùa của điều kiện môi trường
mà theo đó thói quen của họ cần phải
sửa đổi. Việc săn bắn và hái lượm
có lẻ chỉ diễn ra vào mùa thuận
hợp, thực phẩm được dự
trữ cho mùa bất lợi, khi đó người
ta không làm việc nhiều mà thường tụ
tập lại để có thể xem xét và đánh
giá các dụng cụ thủ công. Quần áo và nhà
ở được xem xét tỉ mỉ, đặc
biệt là tính hiệu quả của chúng trong
điều kiện khí hậu và công việc
mới. Nghệ thuật được đưa
vào sự tiện dụng của quần áo và nhà
ở. Dáng vẻ và kiểu mẫu của một
công cụ nào đó sẽ được ưa
thích hơn, nên gía trị thẩm mỹ
được chú ư hơn. Quyền sở
hữu sẽ có vai tṛ trong việc phát triển
của sự tạo mẫu, làm cho khái niệm
về cái của tôi và cái của anh (meum and tuum)
ăn sâu vào hành vi sinh vật học của con người.
Khía cạnh ngoại cảnh,
tiện dụng, thẩm mỹ và sở hữu
sẽ làm cho các kiểu dáng được
củng cố hay tranh đấu với nhau.
Sẽ có vài kiểu dáng hữu dụng hơn và
chiếm ưu thế. Khía cạnh kinh tế
xuất hiện, cái ǵ có giá trị xă hội
đáng kể sẽ trở thành tập quán
của nhóm. Quần áo và nhà ở sẽ có các
mối quan hệ sinh thái học trong môi trường.
Với quần thể nhỏ
và không gian rộng, con người không cần ngăn
nắp và cầu kỳ. Khi mật số gia tăng,
không gian trở nên có hạn và khi cơ may di
dời đến nơi trù phú khác giảm đi,
buộc người ta phải sống trong một
hệ thống khép kín. Khi đó, người ta
phải tạo ra sự trật tự ngăn
nắp, tức phải đầu tư năng lượng
nhiều hơn, tức phải khai thác và sử
dụng tài nguyên nhiều hơn. Tài nguyên thiên
nhiên, để làm các vật liệu tiêu dùng, không
phải là không bị cạn kiệt. Các phụ
phẩm từ các xí nghiệp mau chóng lấp
đầy một cách vô tội vạ các
khoảng đất trống. Nhà ở và nhà máy
xây dựng chồng lấn nhau và tranh giành các
khoảng không gian chật hẹp. Rác thải sinh
hoạt và công nghiệp gây ra vấn đề ô
nhiễm, đ̣i hỏi phải được
xử lư.
Và như vậy, con người
phải chịu thử thách không những với
môi trường tự nhiên mà c̣n với
những điều kiện phi tự nhiên đuợc
tạo ra một cách vô t́nh hay vô trách nhiệm.
Thật vậy, trong nhiều trường hợp,
chính môi trường nhân tạo gây nhiều
đe dọa và tạo ra t́nh trạng tiến thoái
tam nan hiện đại (modern trilemma*): hoậc chúng
ta chỉ đơn giản tiếp tục để
con người chịu các tác động xấu
của các sai phạm về mặt môi trường;
hoậc chúng ta cho họ phuơng tiện bảo
vệ trước các tác nhân đối
nghịch; hoặc chúng ta sẽ t́m cách giảm
thiểu và loại trừ các thứ nhân tạo
vô bổ và không cần thiết ?
* Chú ư cách dùng từ:
dilemma là sự nan giải, tiến thoái lưỡng
nan; c̣n trilemma chưa có trong tự điển
(theo sự hiểu biết của người
soạn).

a. Vai tṛ cơ bản
của quần áo và nhà ở
Câu hỏi đặt ra cho chúng
ta là vai tṛ của quần áo và nhà ở trong
việc tạo ra và giải quyết các vấn
đề của người. Một cái nhà là
để ở và quần áo là để giữ
ấm. Cả hai liên quan một cách phức
tạp với toàn bộ đời sống và do
đó tới sinh thái học người.
Quần áo và nhà ở có
nhiều chức năng khác nhau đối với
con người.
- Quần áo và nhà ở
bảo vệ con người khỏi bị tác
hại cuả nhiệt độ quá cao hay quá
thấp.
- Quần áo và nhà ở c̣n
chống lại các tác hại vật lư khác, như
tiếng ồn, bức xạ.
- Quần áo và nhà ở
bảo vệ con người khỏi các tác
hại hóa học và sinh học. Các thú dữ,
rắn độc và các loài thiên địch khác
từ xa xưa là kẻ thù của người, và
gần đây các tác nhân gây bịnh và các
vật truyền bịnh (vectors) lại c̣n đáng
sợ hơn. Ngoài ra khói bụi và các khí độc
khác có thể gây hại sức khỏe nếu không
có các phương tiện pḥng tránh hữu
hiệu.
¨ Nhà ở
* Chức năng của nhà
ở
Nhu cầu đầu tiên
của người là sự che chở khỏi tác
hại môi trường, kế đến là để
chứa và bảo vệ tài sản của ḿnh
khỏi các đe dọa từ ngoài, kể cả
các hành động ăn thịt của những
người khác.
Các hoạt động trong nhà
(ngoài các hoạt động chuyên môn), như
nấu nướng, ăn uống, tắm giặt
và ngủ nghỉ là các nhu cầu ngày càng gia tăng,
đ̣i hỏi mở rộng căn nhà. Ngoài ra c̣n
các nhu cầu vui chơi giải trí khác ở trong
và quanh nhà.
* Điều cần có của
nhà ở
Nhà ở cần thỏa các yêu
cầu cơ bản sau đây:
· Bền chắc
· Tổ chức không gian liên
quan tới thiết kế kiến trúc, cần
đáp ứng các mặt:
- Tạo điều kiện
cho các liên hệ của người trong nhà,
thuận lơi cho các hoạt động cá nhân,
như sản xuất, việc thông thường
hay giải trí
- Tổng hợp khoảng không
trong và ngoài nhà, và phối hợp các hoạt
động bên trong và xung quanh
- Tạo cảm giác thoải mái,
tự do, hay ít ra không có cảm giác tù túng.
- Có nét thẩm mỹ.
b. Chức năng và yêu
cầu của quần áo
Quần áo có chức năng
che chở khỏi tác hại của môi trường,
đôi khi trong các môi trường đặc
biệt (quần áo không gian, thợ lăn, lính
chữa lửa, áo giáp che đạn...). Nhiều
đe dọa từ thiên nhiên (côn trùng, ve, rắn
rít...) hay nhân tạo (hoá chất, khí độc...)
đ̣i hỏi người ta phải có những
quần áo thích hợp.
Do đó yêu cầu hàng đầu
của quần áo là sự tiện dụng cho người
mặc. Thoải mái trong di chuyển, gia cố các
nơi tiếp xúc nhiều (cùi chỏ, đầu
gối), các túi, dây đai, dây nịt để máng
dụng cụ làm việc là những thứ người
ta chú ư khi chế tạo và sử dụng.
Hơn nữa quần áo
cần bền chắc (nhất là cho công việc
đặc biệt) , dễ giặt, dễ sửa
chữa....
Ngoài ra , quần áo ngoài
nhiệm vụ che thân c̣n làm đẹp và mang tính
cá nhân hay cộng đồng của các dân
tộc.Vấn đề thời trang đôi khi
gạt qua một bên điều thiết yếu
của cả sự tiện nghi và cẩn
trọng, và đôi khi đưa người
mặc tới nhiều phiền toái không cần
thiết: tay chân lạnh cóng, chân biến
dạng, thiếu thông thoáng...
Tóm lại, quần áo và nhà
ở là các nhu cầu thiết yếu của con
người. Khi dân số gia tăng, các khu đô
thị phát triển và tài nguyên thiên nhiên
được sử dụng nhiều, th́ sự
ràng buộc của quần áo và nhà ở với
sinh thái học của người cần
được xem xét tỉ mỉ và liên tục.
Nhu cầu lịch sử của việc che thân
(bảo vệ) được mở rộng, các
nhu cầu mới được thêm vào và sự
tác động lên môi trường ngày càng gia tăng
mănh liệt. Sự đánh giá các vấn đề
đặt ra và các biện pháp sửa đổi
cần được thực hiện trong sự
phối hợp của nhiều lănh vực khác
nhau.

Nhu cầu đi lại hay di
chuyển cũng là một trong các nhu cầu
thiết yếu của con người. Hệ
thống hoạt động của người
(human activity system) bao gồm 3 điểm nút
hoạt động (activity nodes), hay là 3 nơi
đặc trưng cho các hoạt động này.
Đó là sống, làm việc và vui chơi. Chính
sự di chuyển nối liền 3 hoạt động
hay 3 nơi thực hiện các hoạt động
trên.
Người ta c̣n có thể
xếp các hoạt động của người
theo các cách khác nhau. Nhưng tựu trung có thể
xem nhà ở là trung tâm, từ đó người
ta di chuyển đến các nơi khác để
làm việc, học tập, giao dịch và giải
trí.
Sự di chuyển (đi
lại) đưa chúng ta đi từ nơi ở
đến các địa điểm khác để
thực hiện các sinh hoạt khác nhau. Đó là
sự đi lại thường ngày, có tính
lập lại. Nên việc bố trí khoảng cách
và cung cấp phương tiện di chuyển sao
cho tiện lợi, tiết kiệm là điều
quan tâm của các nhà thiết kế đô
thị. Ngoài ra c̣n các sự di chuyển đường
dài, liên quốc gia hay liên lục địa,
cần các phương tiện nhanh hơn,
hiện đại hơn và dĩ nhiên tiêu
tốn nhiều nhiên liệu hơn.
|
Công việc
|
Học tập -
Giải trí
|
Việc nhà (nhà ở)
|
Loại hoạt động
|
Sản xuất
Dịch vụ
Phân phối
|
Nhóm- cá nhân;
diễn giả-khán
giả;
chủ động-thụ
động;
học tập, giải
trí, tôn giáo, lễ hội...
|
Nấu nướng;
may/sửa quần áo; nuôi dạy con; ngủ
nghỉ, tắm giặt, phục hồi tinh
thần...
|
Loại địa điểm
|
Bên trong hay ngoài:
sân, xí nghiệp,
tiệm, văn pḥng...
|
Bên trong hay ngoài:
nhà thờ, chùa, trường
học, bảo tàng, thư viện, nhà, trung
tâm sinh hoạt, công viên,sân chơi, sân bóng,
thiên nhiên...
|
Bên trong:
nhà ở thường
xuyên hay tạm thời cho nhiều hay ít người,
chung cư, khách sạn, nhà di động,
lều...
|
Di chuyển

(Theo Lee, 1974)

Dấu <= => biểu
diễn sự di chuyển
Tóm lại, đi lại (di
chuyển) là một nhu cầu cơ bản
của con người. Nó đ̣i hỏi phuơng
tiện và năng lượng. Chính năng lượng
sử dụng cho các phuơng tiện di chuyển
ở các quốc gia phát triển (xe hơi, máy
bay...) là nguyên nhân chánh cho sự cạn kiệt tài
nguyên không tái tạo và ô nhiễm không khí.

III. NHU CẦU VĂN
HÓA VÀ XĂ HỘI
Văn hóa là nét đặc trưng
của loài người, không thấy ở
bất kỳ một sinh vật nào khác. Các
nền văn hóa của các dân tộc khác nhau trên
thế giới được duy tŕ, phổ
biến và phát huy thông qua giáo dục và các phuơng
tiện, như tiếng nói, chữ viết và các
kư hiệu khác.
Một trong các phương
tiện của văn hóa là chữ viết. Trong
lịch sử của loài người, chữ
viết được viết trên đất,
đá, gỗ, lá cây, da thú, xương, kim
loại... và hiện nay phổ biến nhất là
giấy. Giấy được làm từ gỗ,
rơm rạ, bă miá... nói chung là từ thực
vật. Ngày nay, nhân loại sử dụng một
luợng giấy khổng lồ, và điều này
góp phần làm suy thoái thảm thực vật. Hơn
nữa công nghiệp chế tạo giấy c̣n gây
ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường
nước.
Hiện nay, máy tính cá nhân là
phương tiện hiện đại và hữu
dụng lớn lao cho con người. Người
ta tưởng nhờ có nó, chúng ta tiết
kiệm giấy hơn. Nhưng trái lại, lượng
giấy dùng không giảm v́ in ấn nhanh và
dễ hơn, nên người ta thải giấy
nhiều hơn là khi đánh máy hay viết tay. Ngoài
ra, các thế hệ máy tính thay thế nhau rất
nhanh, khối lượng máy thải ra (thường
làm bằng các vật liệu khó bị phân
hủy) cũng đặt thành vấn đề
cho các quốc gia phát triển.
Tín ngưỡng cũng là
một mặt của nền văn hóa. Các tôn giáo
khác nhau có những công tŕnh kiến trúc để
ghi lại công ơn người sáng lập và
để tín đồ thực hành tín ngưỡng.
Các nhà thờ Thiên chúa giáo ở Châu Âu và chùa
chiền Phật giáo ở Châu Á trước
đây thường được xây cất
bằng gỗ tốt, đă sử dụng
một lượng gỗ đáng kể của các
khu rừng lân cận.
2. Nhu cầu du
lịch, giải trí, thể thao
Đây cũng là các nhu cầu
quan trọng của con người. Du lịch ngày
nay trở thành nguồn thu nhập lớn cho
nhiều quốc gia. Tuy gọi là ngành công
nghiệp không khói, nhưng du lịch cũng gây
nhiều thiệt hại cho môi trường và
sinh vật hoang dă, và cũng làm ô nhiễm môi trường
ở nhưng nơi thiếu sự quản lư
chặt chẻ. Ở miền Nam , ai quan tâm đến
môi trường sẽ thấy đau ḷng trước
sự tàn phá nhanh chóng của thực vật và
động vật ở vùng biển Hà tiên, Vũng
tàu, Nha trang... và các đảo Phú quốc, ḥn
Khoai...
Các công viên, sân băi thể
thao, các tụ điểm văn hóa... là không
thể thiếu cho các khu dân cư của xă
hội công nghiệp. Số lượng và
chất lượng của các địa điểm
trên ngày càng gia tăng theo sự gia tăng dân
số và sự phát triển của xă hội.

Để thoả măn các nhu
cầu ngày càng tăng, con người không
ngừng thăm ḍ, khai thác và sử dụng các
nguồn tài nguyên. Việc này có tác động tích
cực là làm xă hội loài người ngày càng
phát triển. Từ nền văn minh hái lượm
và săn bắt, con người đă trải qua
nền văn minh nông nghiệp và hiện nay là văn
minh công nghiệp.
Chính vào đầu thế
kỷ 19 manh nha các biến chuyển cho phép sự
bung ra của xă hội công nghệ mà chúng ta
hiện đang sống. Cấu trúc kinh tế
của các nước châu Âu thay đổi mau
lẹ; việc phát minh các máy kỹ nghệ,
việc ứng dụng các kỹ thuật mới
taọ thuận lợi cho vô số nhà máy. Đồng
thời nhiều cây trồng được
nhập nội và các phương pháp trồng
trọt và chăn nuôi được phổ
biến. Tất cả các chuyển biến này
tạo ra tiền đề cho một sự thay
đổi cơ bản trong mối tương
quan giữa con người và thiên nhiên.
Xem xét hệ sinh thái con người
trong xă hội kỹ nghệ hiện thời, người
ta thấy 3 nguồn xáo trộn chủ yếu gây
mất ổn định thiên nhiên.
¨ Giảm thiểu
sự đa dạng của sinh giới của các
môi trường khai thác bởi con người.
Việc tạo ra các thành phố, sự đơn
điệu hoá (uniformisation) nông thôn bởi sự
độc canh kỹ nghệ trên các vùng đất
rộng lớn, sự tàn phá các thảm thực
vật rừng, sự tận diệt các nơi
ở được cho là không khai thác được
bởi con người (đầm lầy). Các
động vật hoang dă hầu như hoàn toàn
bị tiêu diệt trong các vùng "phát
triển" của trái đất (Ramade, 1989).
¨ Chu tŕnh vật
chất bị gián đoạn v́ chất thải
do con người không được phân
hủy, khoáng hóa bởi các sinh vật phân
hủy. Hoạt động phân hủy của các
sinh vật này bị ngăncản bởi các
chất ô nhiễm rất độc hại. Hơn
nữa kỹ nghệ chế ra vô số chất
không thể phân hủy sinh học được,
chúng tích tụ trong khí quyển, thủy quyển
và đất, gây xáo trộn cho sự hoạt
động của hầu hết các HST. Sự tích
tụ không ngừng của chất thải không tái
sinh trong nhiều sinh cảnh gây ra 1 sự đảo
lộn các chu tŕnh vật chất. Thêm vào đó
con người c̣n đưa vào 1 lượng
lớn sản phẩm nhân tạo. Sự sử
dụng ồ ạt và ngày càng tăng các nhiên
liệu hóa thạch đă làm thay đổi sâu
xa các chu tŕnh carbon và lưu huỳnh, và thay đổi
mức độ chu tŕnh đạm. Hơn
nữa con người c̣n lấy từ thạch
quyển nhiều loại khoáng sản (dùng
chế tạo phân bón chẳng hạn), các kim
loại ít có trong sinh quyển (như thủy ngân)
và nhiều khoáng sản khác để rồi phát
tán ra môi trường với số lượng
đáng kể. Sự tích tụ rác là 1 vấn
nạn lớn của nền văn minh hiện
nay.
¨ Ḍng năng lượng
bị biến đổi hoàn toàn. Văn minh tây
phương là nơi ngốn năng
lượng. Như Hoa Kỳ, chỉ 4,9% dân
số thế giới (1985), tiêu thụ đến
1 phần tư của sản lượng năng
lượng toàn cầu, tức là 1,8 tỉ
tấn tương đương dầu lửa
(TEP = Tonne d'Equivalent-Pétrole) trong tổng số 7,4
tỉ TEP toàn cầu. Trong nước này, ước
lượng sự tiêu thụ năng lượng
trung b́nh trong năm 1985 là 210.000 Kcal/người/ngày,
từ sự đốt cháy hydrocarbon hóa thạch
và than gỗ.
Con người lấy năng
lượng từ 2 nguồn. Thứ nhất là
từ thực phẩm, tức là dạng năng lượng
loăng, từ họat động quang hợp
của thực vật. C̣n lại là từ
một nguồn năng lượng đậm
đặc, do sự tích tụ (trong nhiều trăm
triệu năm) năng lượng mặt
trời biến đổi bởi thực vật
hóa thạch và tích trữ trong quặng dầu
mỏ và than đá , gọi là nhiên liệu hóa
thạch.
Chính nhờ sự sử
dụng nguồn năng lượng đậm
đặc này mà con người có thể làm tăng
sản lượng nông nghiệp ở vài
thập kỷ gần đây. Sức kéo cơ
học của máy móc cho phép canh tác trên nhiều
diện tích rộng lớn mà trước đây
dùng nuôi động vật lấy sức kéo. Do
đó, theo H.T. Odum (1971) "th́ xă hội công
nghiệp có ảo tưởng rằng sự gia tăng
sản lượng nông nghiệp là do sự
thụ đắc các kiến thức mới trong
việc sử dụng năng lượng mặt
trời. Đó là ảo tưởng v́ con người
kỹ nghệ không c̣n ăn khoai tây do quang
hợp nữa. Nay th́ họ ăn khoai tây một
phần làm ra từ dầu lửa."
Thật vậy, nguồn năng
lượng không từ quang hợp (nhiên liệu
hóa thạch) dùng trong trồng trọt thông qua các
công cụ lao động, phân hóa học, nông dược.
Sự gia tăng không ngừng của việc tiêu
thụ năng lượng trong nền văn minh
kỹ nghệ gây nhiều quan ngại cho nhân
loại. Ngoài sự ô nhiễm, là sự cạn
kiệt các nguồn tài nguyên không tái sinh và
tổng quát là sự siêu tiêu thụ các tài nguên
của sinh quyển. Sự gia tăng dân số quá
nhanh càng làm cho vấn đề càng nghiêm
trọng. Không một loài sinh vật nào có
thể khai thác môi trường thiên nhiên mà không
biết đến các định luật về
sự tái tạo các chất và với mức
độ không tương quan với sự trường
tồn của sinh giới. Quần thể nào tiêu
thụ nhiều hơn sức sản xuất
của hệ sinh thái, tức tiêu thụ không
chỉ lợi nhuận mà cả vốn, ắt
phải bị nguy cơ diệt vong (Ramade, 1989)
|