Ô nhiễm đất là do người
ta sử dụng các loại hóa chất trong nông
nghiệp và do người ta thải vào môi trường
đất các chất thải đa dạng khác.
Trong các chất thải này, có những chất khó
hay không thể phân hủy sinh học và đặc
biệt là những chất phóng xạ. Đất cũng
nhận những kim loại nặng từ khí
quyển dưới dạng bụi (Pb, Hg, Cd, Mo...)
và các chất phóng xạ. Rác từ đô
thị, việc sử dụng phân tươi bón
ruộng rẫy cũng góp phần làm ô nhiễm
đất.
Đặc biệt đất là
trung gian của khí quyển và thủy quyển, là
vị trí chiến lược trong trao đổi
với các môi trường khác.
Ô nhiễm đất phần
lớn là do sản xuất nông nghiệp hiện
đại và các hoạt động khác của
người. Các nhóm quốc gia khác nhau có các
loại rác thải khác nhau (rác nhà giàu khác
với rác nhà nghèo). Nhưng tất cả đều
góp phần làm ô nhiễm đất trước
tiên, nơi sinh sống của con người và
của các sinh vật sống ở cạn khác.
Sau đó lượng rác thải ngày càng tăng
này c̣n gây ô nhiễm môi trường nước
và không khí.
Ô nhiễm đất xảy
ra chủ yếu ở nông thôn. Trước
hết là do sự bành trướng của kỹ
thuật canh tác hiện đại. Nông nghiệp
hiện nay phải sản xuất một lượng
lớn thức ăn trong khi đất trồng
trọt tính theo đầu người ngày càng
giảm v́ dân số gia tăng và cũng v́
sự phát triển thành phố, kỹ nghệ và
những sử dụng phi nông nghiệp. Người
ta cần phải thâm canh mạnh hơn, dẫn
tới việc làm xáo trộn ḍng năng lượng
và chu tŕnh vật chất trong hệ sinh thái nông
nghiệp.
Phân bón hóa học chắc
chắn đă gia tăng năng suất, nhưng
việc sử dụng lặp lại, với
liều rất cao gây ra sự ô nhiễm đất
do các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa
Nitrat và Phosphat rải một cách dư thừa
sẽ chảy theo nước mặt và làm ô
nhiễm các mực thủy cấp. Cũng
thế, nông dược vô cơ hay hữu cơ cũng
có thể làm ô nhiễm đất và sinh
khối.
Trong nhiều hóa chất
sử dụng trong nông nghiệp, người ta có
thể phân biệt các chất khoáng (vô cơ) và
các chất hữu cơ tổng hợp. Chúng là các
chất gây ô nhiễm thượng nguồn
của đất trồng. Nhưng sự gián
đoạn của chu tŕnh vật chất trong các
hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại c̣n
gây một ô nhiễm ở hạ nguồn nơi
một số đất đai. Thật vậy, các
núi rác khổng lồ có nguồn gốc nông
nghiệp, sản phẩm do sự khai thác hay
sự tiêu thụ sản lượng động
vật và thực vật th́ được
thấy ở tất cả các nước công
nghiệp hóa. Các chất này không quay trở
lại ruộng đồng, khác với lối
canh tác cổ truyền. Chúng không bị tái sinh nhưng
chất đống ở băi rác với sự lên
men hiếm khí tạo ra các hợp chất S và N
độc, làm cho ô nhiễm đất gia tăng.
Thâm canh không ngừng của nông
nghiệp, sử dụng ngày càng nhiều các
chất nhân tạo (phân hóa học, nông dược...)
làm cho đất ô nhiễm tuy chậm nhưng
chắc, không hoàn lại (irreversible), đất
sẽ kém ph́ nhiêu đi.

II. VẤN ĐỀ
PHÂN BÓN
Phân hóa học được
răi trong đất nhằm gia tăng năng
suất cây trồng. Nguyên tắc là khi người
ta lấy đi của đất các chất
cần thiết cho cây th́ người ta sẽ
trả lại đất qua h́nh thức bón phân.
Trong các phân hóa học sử
dụng nhiều nhất, ta có thể kể phân
đạm, phân lân và phân kali. Trong một số
đất phèn người ta c̣n bón vôi, thạch
cao.
Do đó một số lượng
lớn phân bón (chủ yếu là N, P, K) được
răi lên đất trồng. Sự tiêu thụ phân
bón của thế giới gia tăng 16 lần
từ năm 1964 - 1986 .
V́ lư do lợi nhuận, các
chất trên không được tinh khiết. Do
đó chúng chứa nhiều tạp chất kim
loại và á kim độc và ít di động
trong đất (bảng 1). Chúng có thể tích
tụ ở các tầng mặt của đất
nơi có rễ cây.
Bảng 1. Các
tạp chất trong phân superphosphate (Theo Barrows, 1996)
Arsenic
|
2,2 - 12 ppm
|
Cadmium
|
50 - 170
|
Chlomium
|
66 - 243
|
Cobalt
|
0 - 9
|
Đồng
|
4 - 79
|
Ch́
|
7 - 92
|
Nicken
|
7 - 32
|
Selenium
|
0 - 4,5
|
Vanadium
|
20 - 180
|
Kẽm
|
50 - 1490
|
Đi t́m năng suất tối
đa trong khai thác công nghiệp ở những
diện tích rộng lớn là nhờ vào sự
gia tăng tối đa lượng phân hóa
học. Đó là một nhân tố ô nhiễm
mới cho đồng quê. Định luật về
năng xuất giảm dần (Loi de rendements décroissants),
dường như là không được biết
bởi các nhà khai thác nông nghiệp, nhưng chúng
được không biết một cách tự giác
bởi những buôn bán phân bón là kẻ thường
khuyên bảo nông dân.
III. Ô NHIỄM ĐẤT
DO NÔNG DƯỢC
Sự sử dụng có hệ
thống một lượng nông dược ngày càng
tăng ở nông thôn là một dẫn chứng
cho một thảm họa sinh thái từ việc
sử dụng thiếu suy nghĩ của một
kỹ thuật mới. Nông dược chiếm
một vị trí nổi bật trong các ô
nhiễm môi trường. Khác với các chất
ô nhiễm khác, nông dược được
rải một cách tự nguyện vào môi trường
tự nhiên nhằm tiêu diệt các kư sinh của
động vật nuôi và con người hay vào nông
thôn để triệt hạ các loài phá hại mùa
màng.
Các diện tích có sử
dụng thuốc (phun xịt) rất lớn. 5% lănh
thổ Hoa Kỳ có phun xịt. Ở Pháp, 18
triệu ha có sử dụng nông dược
một lần một năm, chiếm 39% lănh
thổ.

Các nông dược hiện
đại đa số là chất hữu cơ
tổng hợp. Thuật ngữ pesticides là do
từ tiếng Anh pest là loài gây hại, nên
pesticides c̣n gọi là chất diệt dịch hay
diệt họa.
Ta phân biệt:
- Thuốc trừ sâu (insectides)
- Thuốc trừ nấm
(fongicides)
- Thuốc trừ cỏ
(herbicides)
- Thuốc trừ chuột
(gặm nhấm = rodenticides)
- Thuốc trừ tuyến trùng
(nématocides)
Số lượng nông dược
gia tăng mạnh trong vài thập kỷ nay. Ở
Pháp, có hơn 300 hợp chất, Mỹ hơn 900
và được thương măi hóa dưới
60.000 tên gọi khác nhau.
a. Thuốc trừ sâu
(insecticides)
Thuốc trừ sâu được
chia ra làm 3 nhóm chính: Chất vô cơ, chất có
gốc thực vật và chất hữu cơ
tổng hợp. Thuốc trừ sâu hữu cơ
tổng hợp được sử dụng
nhiều nhất hiện nay. Chúng được
chia làm 4 nhóm lớn:
- Clor hữu cơ
- Lân hữu cơ
- Carbamates
- Pyrethroides
· Thuốc trừ
sâu clor hữu cơ
Đây là một nhóm tương
đối lớn của thuốc trừ sâu
với sự đa dạng về cấu trúc, tính
chất và công dụng. Ba loại chánh được
kể ở đây. Đó là DDT và các hợp
chất tương cận, thuốc trừ sâu
clor ṿng (aldrin và dieldrin) và hexachlorohexane (HCHs) như
lindane.
Thuốc trừ sâu clor hữu
cơ là chất rắn bền, ít tan trong nước
và có ái lực mạnh với lipid (liphophilicity). Vài
chất rất bền bỉ trong thể ban đầu
hay như là chất biến dưỡng bền.
Tất cả đều là chất độc
thần kinh.
DDT thương mại chứa
70 - 80% đồng phân sát trùng của ppDDT.
Thuốc trừ sâu tương cận bao gồm
rhotane (DDD) và methoxychlor. Tính chất sát trùng
của DDT được khám phá bởi Paul Muller
của công ty Ciba-Geigy năm 1939. DDT đă
được dùng với qui mô nhỏ (trừ côn
trùng mang mầm bịnh, vectors) trong thế
chiến 2, nhưng sau đó được dùng
rất rộng rải để trừ dịch
hại nông nghiệp, sinh vật mang mầm
bệnh (như muỗi gây sốt rét), ngoại kư
sinh của gia súc, và côn trùng trong nhà và cơ
sở kỹ nghệ. Do ít tan trong nước (<
1 mg/l), DDT được pha chế dưới
dạng nhũ tương, tức là dung dịch
của thuốc trong dung môi hữu cơ, dùng
để phun xịt. DDT có LD50 là 113 - 450 mg/kg
ở chuột và được cho là độc
vừa phải.

H́nh 1. Các nông dược
chính (I): thuốc trừ sâu; (H) thuốc diệt cơ;
(F) thuốc trừ nấm
Aldrin, dieldrin và heptachlor là các
thuốc trừ sâu có ṿng. Chúng giống DDT ở
chổ là chất rắn bền, ưa lipid, ít tan
trong nước, nhưng khác ở cách tác động.
Chúng rất độc với hữu nhũ (LD50 là
40 - 60 mg/kg). Chúng được dùng từ
những năm 1965 để chống lại các côn
trùng, như là chất bảo vệ hạt
giống và thuốc trừ sâu của đất.
HCH được tiếp
thị như là hỗn hợp thô của đồng
phân BHC , nhưng rộng rải hơn ở
dạng tinh chế có chứa chủ yếu đồng
phân gamma, như (HCH, (BHC hay lindane. (HCH có cùng các
đặc tính với các thuốc trừ sâu clor
hữu cơ khác, nhưng nó phân cực hơn và
tan trong nước nhiều hơn (7mg/l). Nhũ tương
của HCH được dùng để trừ các
dịch hại nông nghiệp và các kư sinh trùng
của gia súc. Chúng cũng được dùng
bảo vệ hạt giống. HCH chỉ độc
vừa phải đối với chuột (LD50 là
60 - 250mg/kg) (Walker và CSV, 1996).
· Thuốc trừ
sâu lân hữu cơ
Trong thế chiến lần
thứ hai, hợp chất lân hữu cơ
được dùng làm chất độc thần
kinh (neurotoxin), v́ chúng có khả năng ngăn
trở enzim acetylcholinesteraz (AchE). Chúng được
sản xuất v́ hai công dụng chánh, là
thuốc trừ sâu và vũ khí hóa học. Chúng là
những ester hữu cơ của acid phosphoric.
Ngày nay một số lượng
lớn hợp chất lân hữu cơ được
tiếp thị như là thuốc trừ sâu. Đa
số thuốc trừ sâu lân hữu cơ là
chất lỏng ưa lipid, vài loại bay hơi,
một ít là chất rắn. Chúng ít bền
vững hơn thuốc trừ sâu clor hữu cơ
và bị phân hủy dễ hơn bởi các tác
nhân hóa học hay sinh hóa học. Do đó, chúng phân
hủy nhanh trong môi trường, nhưng độc
tính cấp thời là đáng kể. Chúng phân
cực và tan trong nước nhiều hơn
thuốc trừ sâu clor hữu cơ. Các hoạt hóa
của vài thứ thuốc trừ sâu lân hữu cơ
ḥa tan trong nước đủ để đạt
đến nồng độ cao trong mô dẫn
nhựa (phloem) của cây, gây độc cho côn trùng
ăn phải (chất độc lưu dẫn ?).
Dạng thức chế tạo
của các hợp chất lân hữu cơ th́ quan
trọng trong ô nhiễm môi trường do chúng gây
ra. Nhiều thứ được chế biến
dưới dạng nhũ tương để
phun xịt. Nhiều loại khác là chất bao
bọc hạt giống hay dạng viên nhỏ.
Dạng viên cần cho các thuốc trừ sâu lân
hữu cơ độc tính cao, v́ dạng này an
toàn hơn dạng nhũ tương khi thao tác.
Thuốc bị cầm giữ trong viên, và chỉ
thoát từ từ ra môi trường.
Trong nhiều quốc gia,
thuốc trừ sâu lân hữu cơ hiện
vẫn c̣n được sử dụng cho hoa màu
dưới nhiều dạng thức khác nhau. Chúng
được dùng để kiểm soát
ngoại kư sinh của gia súc và cả nội kư
sinh, cào cào, dịch hại các kho chứa,
muỗi, kư sinh của cá...
· Thuốc trừ
sâu carbamate
Đây là các dẫn xuất
của acid carbamic và phát triển gần đây hơn
2 nhóm thuốc trừ sâu nói trên. Giống như
thuốc trừ sâu lân hữu cơ, chúng có tác
động ngăn trở enzym acetylcholinesterase
(AchE). Carbamate thường là thể rắn, vài
thứ ở thể lỏng. Sự ḥa tan vào nước
thay đổi đáng kể. Giống như
thuốc trừ sâu lân hữu cơ, chúng dễ
bị phân hủy bởi các tác nhân hóa học
hay sinh hóa học và thường không có vấn
đề lưu tồn lâu dài. Độc tính
cấp thời của chúng là điều đáng
nói. Vài loại (aldicarb và carbofuran) tác động
như thuốc lưu dẫn. Một ít (methiocarb)
dùng diệt ốc sên. Cần phân biệt carbamate
trừ sâu và carbamate trừ cỏ (propham,
chlopropham) ít độc với động vật.
Thuốc trừ sâu carbamate
được chế biến như cách của
thuốc trừ sâu lân hữu cơ, như các
thứ cực độc (aldcarb và carbofuran)
chỉ chế tạo ở dạng viên. Chúng
được dùng để kiểm soát côn trùng
trong nông nghiệp và hoa màu, trừ tuyến trùng
(nematocides) và thân mềm (molluscides).
· Thuốc trừ
sâu pyrethroid
Thuốc trừ sâu pyrethroid thiên
nhiên được t́m thấy trong hoa đầu
các cây cúc Chrysanthemum, từ đó gợi ư cho
người ta làm các thuốc trừ sâu pyrethroid
tổng hợp. Pyrethroid tổng hợp th́
bền hơn pyrethroid thiên nhiên. Pyrethroid là
chất rắn, ít tan trong nước, và là
chất độc thần kinh như DDT. Chúng là các
ester được tạo bởi một acid
hữu cơ (thường là acid chrysanthemic) và
một baz hữu cơ. Mặc dù pyrethroid bền
hơn pyrethrin, nhưng chúng dễ bị phân
hủy sinh học và không gây vấn đề
thời gian bán hủy sinh học. Tuy nhiên, chúng có
thể kết chặt với các hạt mịn
của đất và chất trầm tích, và
ở đó chúng sẽ lưu tồn lâu dài. Chúng
chủ yếu gây độc tính cấp thời,
có chọn lọc trong số các côn trùng, thú và
chim. Vấn đề môi trường của chúng
là độc tính đối với cá và các ĐVKXS
không là đối tượng pḥng trừ.
Pyrethroids được
chế tác chủ yếu thành nhũ tương
để phun xịt. Chúng được dùng
để kiểm soát một phổ rộng các côn
trùng gây họa trong nông nghiệp và hoa màu, và
được dùng phổ biến để
trừ côn trùng mầm bịnh (muỗi tsetse
ở Châu Phi).
b. Thuốc trừ cỏ
tổng hợp
Các thuốc trừ cỏ phát
triển mạnh vài chục năm nay. Các dẫn
xuất của acid phenoxyacetic là những hợp
chất đầu tiên được thương
mại hóa. Chúng tác dụng giống như auxine
thực vật và gây sự rối loạn tăng
trưởng của song tử diệp. Ngoài ra c̣n
có nhóm Triazine, Simazine (ngăn chặn quang hợp
bằng cách chặn đứng chu tŕnh Calvin, cây
không thể cố định CO2). Pichloram là
chất độc và rất ổn định
trong môi trường.
Các dẫn xuất của acid
phenoxyacetic là nhóm thuốc trừ cỏ quan
trọng nhất. Các thí dụ quen thuộc là
2,4-D, 2,4-DB, 2,4,5-T, MCPA và CMPP. Chúng tác động
bằng cách rối loạn quá tŕnh tăng trưởng
theo cách của chất điều ḥa tăng trưởng
tự nhiên Indole acetic acid (IAA). Chúng là các dẫn
xuất của các acid carboxylic phenoxyankal. Khi
chế tạo dưới dạng muối
kiềm, chúng rất ḥa tan vào nước, nhưng
khi chế tạo dưới dạng ester
đơn th́ chúng lại ưa lipid và ít ḥa tan vào
nước.
Đa số thuốc trừ
cỏ phenoxy dễ bị phân hủy sinh học và
không lưu tồn trong cơ thể sinh vật hay
trong đất. Chúng tác dụng có chọn
lọc, như chọn lọc giữa đơn
tử diệp và song tử diệp, chúng
được sử dụng chủ yếu để
trừ hạt đơn tử diệp trong đất
trồng song tử diệp (ngũ cốc và đồng
cỏ). Vấn đề môi trường có hai
loại. Thứ nhất là vấn đề độc
tính thực vật (phytotoxycity) do phun xịt hay
phun sương. Thứ hai là vài loại có
chứa hợp chất cực độc là dioxin
(TCDD = tetrachlorodibenzodioxin), tác nhân màu da cam của
2,4-D và 2,4,5-T dùng như thuốc làm rụng lá cây
ở Việt Nam. Đây là chất cực độc
cho hữu nhũ (LD50 là 10 - 200 (g/kg ở
chuột).
c. Thuốc chống đông
máu trừ gậm nhấm
Hợp chất Warfarin đă
được dùng từ nhiều năm qua như
thuốc trừ gậm nhấm. Nó là phân tử
ưa lipid, ít tan trong nước và tác động
như chất đối kháng của vitamin K.
Gần đây, khi các gậm nhấm hoang dă kháng
được Warfarin, th́ thế hệ thứ hai
của thuốc này đă được tiếp
thị, cũng có công thức tương cận
qua Wafarin. Chúng bao gồm diphenacoum, bromadiolone,
brodiphacoum và flocoumafen. Chúng giống với Wafarin
ở tính chất tổng quát nhưng độc
hơn cho thú và chim nhưng lại lưu tồn lâu
trong gan của ĐVCXS. Do đó chúng có thể
được chuyển từ gậm nhấm sang
các động vật ăn thịt và các loài
ăn xác chết của các gậm nhấm này. Như
chim cú ở Anh quốc chẳng hạn, có
chứa một lượng thuốc trừ
gậm nhấm nói trên. Thuốc trừ gậm
nhấm thường được trộn vào bă
mồi, đặt trong nhà hay ngoài cửa, chúng
sẽ được các gậm nhấm hoang dă
ăn.

Dù nông dược có nhiều
lợi ích nhưng một số bất lợi
xuất hiện dần và trở nên trầm
trọng. V́ nông dược tác động lên
cả hệ sinh thái chứ không chỉ loài gây
hại. Thực vật, bất kỳ một nông
dược nào cũng gây một biến đổi
sâu xa đến hệ sinh thái có sử dụng nó,
v́ có tính chất sinh thái học sau đây:
- Có phổ độc tính
rộng cho động vật và thực vật.
- Độc tính cho động
vật máu nóng và máu lạnh.
- Người sử dụng nông
dược chỉ để diệt khoảng 0,5%
số loài, trong khi nông dược sử dụng
có thể tác động lên toàn thể sinh
vật.
- Người ta sử dụng
nông dược để luôn luôn chống
lại các quần thể.
- Tác dụng của chúng độc
lập với mật độ nhưng người
ta dùng khi mật độ lên đến mức gây
hại (nên dùng thuốc lại lệ thuộc
mật độ).
- Lượng dùng thường
cao hơn lượng cần thiết v́ để
cho chắc ăn.
- Diện tích phun xịt khá
lớn. Ở Châu Âu là hàng chục triệu ha.
- Nhiều nông dược
tồn lưu lâu dài trong môi trường.
Sự ô nhiễm do nông dược
hiện là hiện tượng toàn cầu,
nhất là thuốc lân hữu cơ.
Tất cả sinh vật đều
thải rác, nhưng không có sinh vật nào
thải rác có thành phần đa dạng như
con người. Rác thải do từ các hoạt
động khác nhau. Phần này đề cập
đến rác thải rắn của đô
thị, bao gồm rác từ văn pḥng, bệnh
viện, trường học, kho chứa, nhà dân.
Ở Hoa Kỳ, mỗi năm
có hơn 145 triệu tấn rác, tức khoảng
580 kg/người. Trung b́nh mỗi người,
đàn ông, đàn bà, trẻ con, tạo ra 1,6 kg rác
mỗi ngày (Chiras, 1991). Thành phố 1 triệu dân
mỗi năm thải một lượng rác đủ
để lấp đầy một sân đá banh.
Số lượng rác đô thị gia tăng hàng
năm từ 2-4%. Khối lượng rác thải
này gây ra vấn đề lớn cho các đô
thị, nơi đất dùng đổ rác ngày càng
hiếm.
Mỗi người dân thành
phố trung b́nh ở Việt Nam, như ở thành
phố Cần thơ chẳng hạn, thải 0,6
kg rác mỗi ngày. Số rác này được thu
gom một phần, đem đổ ở băi rác
Châu thành (Cái răng), gây ô nhiễm một vùng
ngoại ô.
Các băi rác làm ô nhiễm đất
, nước và không khí, tiêu tốn năng lượng,
chiếm một diện tích đất lớn.
Sự đốt rác tạo ra khí độc theo
gió đi rất xa, tro có thể c̣n chứa
chất độc lại dùng để lấp các
nơi trũng hay trồng cây.
Ngoài các vật liệu thông
thường, rác c̣n chứa các chất không
bị phân hủy sinh học và các chất phóng
xạ. Ngoài mục đích sử dụng cho quân
sự, các chất phóng xạ c̣n được
sử dụng khá phổ biến cho dân dụng và
y học. Nhưng việc tích lũy các chất
thải phóng xạ ngày càng nhiều đă và
đang gây nên một vấn nạn không chỉ
riêng cho các quốc gia đang sử dụng chúng.
Ở Hoa kỳ, hàng năm có hơn 250 triệu
tấn chất thải độc hại, tức
trung b́nh mỗi người dân một tấn. Các
nước Châu âu cũng không kém. Chỉ một
phần của số rác trên được
xử lư, c̣n phần lớn được
tập trung ở băi rác hay thải ra sông hồ,
biển và đại dương. Một vấn
đề môi trường khác là việc các nước
công nghiệp xuất khẩu rác thải độc
hại sang các nước nghèo. Đây là cách làm ít
tốn kém cho các quốc gia sản xuất khác,
lại c̣n có thể giúp đỡ các nước
có được nguồn ngoại tệ để
trả nợ và chi tiêu khác. Các loại rác này
hoặc được bán với giá rẻ làm
vật liệu tái chế, hoặc được
phép đổ ở một xứ nghèo nào đó
ở châu Phi hay châu Á để đổi
lại một số dollar cho chánh quyền sở
tại.

V. HẬU QUẢ
CỦA Ô NHIỄM
Ngoài việc ô nhiễm nước
do dư lượng Nitrat và Phosphat, các phân bón c̣n
làm ô nhiễm thức ăn. Thật vậy,
những liều cao của phân dùng trong đất
trồng làm gia tăng lượng Nitrat trong mô
thực vật mọc ở đây. Nên xà lách
trồng trên đất b́nh thường, chứa
0,1% đạm Nitrit so với trọng lượng
khô. Con số này lên đến 0,6% đất bón
600 kg Nitrat/ha. Mồng tơi (épinard) có thể
chứa một lượng đạm Nitrit
rất cao. Người ta cho thấy là Mồng tơi
ở Mỹ chứa 1,37 g/kg và ở Đức là 3,5
g/kg Nitrat trong mô thực vật này (Schupan, 1965). Lượng
đạm cao vậy là có tác hại cho sức
khỏe v́ chúng gây chứng methemoglobinemie, thể
hiện qua việc ion NO2 kết hợp với
Hemoglobin, làm cho hô hấp (tiếp nhận O2) khó
khăn. Khi chuẩn bị thức ăn cho
trẻ, khi trữ trong tủ lạnh hay do hoạt
động của vi khuẩn đường
ruột, Nitrat biến thành Nitrit rất độc.
Nhưng nguy hại hơn, Nitrit được thành
lập trong ống tiêu hóa có thể biến thành
Nitrosamine, là một chất gây ung thư mạnh.
Nhưng lạm dụng phân bón
không chỉ đe dọa sức khỏe con người,
mà c̣n làm mất ổn định hệ sinh thái
nông nghiệp. Kiểu canh tác dùng nhiều phân vô
cơ, kết hợp với việc ngưng quay ṿng
của chất hữu cơ trong đất
trồng, tạo nên một đe dọa nghiêm
trọng trong việc giữ ph́ nhiêu của đất.
Là do sự tích lũy liên tục các chất
tạp (kim loại, á kim) có trong phân hóa học và
sự biến đổi cấu trúc của đất.
Thành phần chất hữu cơ của đất
bị giảm nhanh và khả năng giữ nước
và thoát nước của đất bị thay
đổi.
Chất mùn không c̣n quay về
đất. Sự nghèo mùn làm phá hủy cấu
trúc của đất, giảm phức hợp
hấp thụ sét mùn (complexe absorbant argilo humique) nên
giảm độ ph́ của đất. Phân động
vật và thực vật không quay về với
đất mà chất đống sẽ ô
nhiễm mực thủy cấp sau khi lên men amoniac.
Hoặc chúng bị đem thiêu đốt bỏ,
không về đất được. Sự đốt
rác có nghĩa là thay đổi ô nhiễm điạ
phương của đất bằng sự ô
nhiễm không khí ở diện rộng hơn
nhiều.
a. Ảnh hưởng lên các
quần thể
Dùng thuốc diệt cỏ
sẽ làm thay đổi thảm thực vật
của hệ sinh thái nông nghiệp. V́ ảnh hưởng
của chúng ở đồng ruộng và ở các
vùng phụ cận, v́ cây 2 lá mầm rất
nhạy cảm với thuốc trừ cỏ trong
gieo trồng ngũ cốc. Ở Việt Nam, trong
chiến tranh chống Mỹ, một lượng
lớn thuốc trừ cỏ đă được
sử dụng gây nhiều thảm họa cho môi
trường. Dù chỉ một lần phun nhưng
các thuốc khai quang này đă làm chết các cây
đại mộc nhiệt đới, đặc
biệt ở rừng Sát: Mấm, Đước,
Vẹt ... Hay Dầu, Thao lao và các cây mộc
họ Caesalpiniaceae ở các rừng vùng núi
(Westing, 1984). Các dẫn xuất của acid
phenoxyacetic cũng độc đối với các
động vật thủy sinh. Ngoài ra chúng cũng
có thể gây đột biến ở người.
Như ở Việt Nam, sự biến dạng thai
nhi đă được thấy cao hơn mức
b́nh thường nơi các bà mẹ bị
nhiễm nặng bởi việc phun xịt
thuốc khai quang trong thời gian chiến tranh
chống Mỹ.
Dùng thuốc trừ sâu gây
chết các quần xă động vật ở
trong hay quanh vùng xử lư. Phun xịt thuốc
trừ sâu trên rừng gây chết nhiều chim và
thú. Cuối những năm 50, ở Hoa kỳ
chiến dịch diệt Kiến lửa (Solenosis
soevissina), trên 110.000 km2 bằng máy bay, sử
dụng các hạt Heptachlore và dieldrine với
liều 2,5 kg/ha ở năm đầu; 1,4 kg/ha vào
2 năm tiếp theo. Chiến dịch này có
lợi cho các nhà kinh doanh nông nghiệp, nhưng gây
nhiều thảm họa cho động vật
ở đây. Sáo, Sơn ca và các chim bộ Sẻ
khác bị ảnh hưởng mạnh. Ḅ sát, côn
trùng sống trong đất bị giảm số
lượng mạnh.
Thuốc trừ nấm mặc
dù không quá độc đối với cây xanh và
động vật, nhưng hậu quả sinh thái
học của chúng vẫn có. Như chúng tỏ
ra độc đối với trùn đất là
sinh vật đóng vai tṛ quan trọng trong sinh thái
học đất, nhất là việc giữ độ
phi nhiêu cho đất. Hạt giống trộn
với thuốc diệt nấm gây hại cho chim.
Một số chất có thể được tích
lũy trong mô của động vật.
b. Ảnh hưởng lên các
quần xă
Đa số các hậu quả
của sinh thái học của việc dùng nông dược
là ảnh hưởng gián tiếp thể hiện
sớm hay muộn. Aính hưởng của sự
nhiễm độc măn tính là do hấp thụ liên
tục các nông dược cùng với thức
ăn. Nó gây chết cho các độ tuổi và làm
giảm tiềm năng sinh học, nên làm giảm
sự gia tăng của các quần thể bị
nhiễm, dẫn đến sự diệt
chủng của loài.
Aính hưởng của nông dược
do sự chuyển vận qua sinh khối, với
sự tích tụ nông dược trong mỗi
nấc dinh dưỡng, làm cho nồng độ nông
dược trong các vật ăn thịt luôn
rất cao. Trường hợp nặng gặp
ở các nông dược ít hay không bị phân
hủy sinh học. Cho nên thực vật có
thể tích tụ nông dược trong mô. Đến
phiên chúng làm thức ăn cho những bậc dinh
dưỡng cao hơn, sẽ làm nông dược
chuyển đến cuối chuỗi thức ăn:

Điều này làm nhiễm độc
măn tính các động vật, dễ thấy là
rối loạn chức năng sinh sản (chậm
trưởng thành sinh dục, số trứng ít,
trứng có vỏ mỏng). Các chlor hữu cơ
như DDT, dieldrine, heptachlor và PCB, cũng như các
thuốc diệt cỏ đều ảnh hưởng
đến sinh sản của chim.
Các ảnh hưởng trên c̣n
có thể dẫn đến các hậu quả sau
đây:
- Giảm lượng thức
ăn. Một trong những xáo trộn do nông dược
gây cho quần xă là làm giảm lượng
thức ăn động vật và thực
vật cần thiết cho các loài ở các
bậc dinh dưỡng khác nhau trong hệ sinh thái
nông nghiệp (Pimentel và Edwards, 1982). Sự biến
mất dần các thực vật hoang dại do
sử dụng thuốc trừ cỏ trong các vùng
đất canh tác làm thay đổi sâu xa
nguồn thức ăn và nơi ở của
nhiều loài chim định cư sống trong vùng
hay xung quanh đó. Tương tợ, việc
sử dụng các thuốc trừ sâu phân hủy
nhanh (lân hữu cơ, carbamate và pyrethroid) tuy không
gây độc lâu dài như nhóm chlor hữu cơ,
nhưng cũng gây hại cho các loài chim ăn côn
trùng v́ chúng và con chúng sẽ không có thức
ăn.
- Làm thay đổi cân
bằng trong tự nhiên. Nông dược có
thể gây ra sự phát triển quá đáng
của một loài thực vật hay động
vật nào đó. Khi sử dụng thuốc
diệt cỏ ở các nơi trồng ngũ
cốc th́ hạt song tử diệp bị
loại trừ, khi đó các cỏ họ ḥa
bản khó ưa sẽ phát triển mạnh v́
vắng các loài cạnh tranh. Sử dụng nông dược
có thể loại trừ các kẻ thù tự nhiên
của những loài gây hại. Như ở Hoa
kỳ chẳng hạn, việc sử dụng quá
đáng azodrin, thuốc trừ sâu lân hữu cơ,
để trừ côn trùng gây hại cây bông
vải cho thấy một t́nh huống tiếu lâm.
Thay v́ làm giảm quần thể sâu Heliothis zea,
thuốc azodrin lại diệt các thiên địch
và kư sinh của sâu này, làm cho vùng trồng bông
có dùng thuốc bị thiệt hại nhiều hơn
vùng không dùng thuốc (Ramade, 1987).
- Ảnh hưởng lên
diễn thế. Diễn thế của các quần
thể động vật lệ thuộc chặt
chẻ vào diễn thế của các quần
thể thực vật, nên thuốc diệt cỏ
ảnh hưởng mạnh hơn thuốc trừ
sâu trong diễn thế của quần xă.
Thuốc diệt cỏ ít chọn lọc tác động
giống như lửa. Nó làm hệ sinh thái
trở lại giai đoạn đầu của
giai đoạn chiếm cứ bởi các thực
vật tiên phong. Trong vài trường hợp,
sự sử dụng có hệ thống của
thuốc trừ cỏ có thể tạo ra giai
đoạn cao đỉnh nghẹn (dysclimax). Các
khu rừng Việt Nam, nơi đă bị tàn phá
hoàn toàn bởi thuốc khai quang, th́ đất
trống được tre và đồng cỏ
bao phủ, rừng không thể phục hồi
trở lại được. Rừng tre và đồng
cỏ phát triển thành quần xă cao đỉnh
nghẹn (tắc nghẹn, dysclimax).
VI. ĐẤU TRANH SINH
HỌC
Dùng nông dược kéo theo
nhiều bất lợi. Ngoài việc mất cân
bằng sinh thái học c̣n là vấn đề
sức khoẻ công cộng. Sự độc
của nông dược khiến người ta
phải lập các mức độ chịu đựng:
ngưỡng tối đa chấp nhận
được trong thức ăn của người.
Ngoài ra, nông dược không
chỉ diệt loài có hại mà cả loài có
lợi. Sau cùng vấn đề kháng thuốc khá
lớn. Số loài kháng tăng theo thời gian.
Cho nên người ta t́m cách
giảm số loài gây hại bằng cách sử
dụng biện pháp sinh học, nhắm vào
việc dùng sinh vật diệt các loài gây
hại. Người ta t́m cách làm tăng tử
suất và giảm sinh suất của chúng.
Nhằm làm tăng tử
suất bằng cách dựa vào kẻ thù tự
nhiên của loài gây hại, như thiên địch
hay kư sinh của nó.
Lịch sử mà nói th́
từ năm 1888, nhà côn trùng học Riley đă
giải quyết vấn đề sâu rầy Icerya
purchari bằng cách nhập vào California, một
trong những kẻ thù tự nhiên của nó là
Bọ rùa Novius cardinalis.
Nhiều sự nhập nội
như thế đă cho nhiều kết quả tích
cực. Nhưng cũng có khi những loài nhập
nội không thích nghi: trường hợp nhập
những kẻ thù của doryphore (phá hoại Khoai
tây) .
Phương pháp sử
dụng các loài ăn côn trùng (entomophages) cho
nhiều kết quả khả quan. Người ta
cũng chú ư các loài ăn trứng (oophages).
Kế đến, người ta chú ư các vi sinh
vật gây bịnh cho loài gây hại (nấm ăn
côn trùng và vi khuẩn diệt trùng).
Ngoài ra, người ta c̣
sử dụng cả siêu khuẩn, như trường
hợp virus Sanarelli, gây bịnh Myxomatose cho thỏ,
đă tiêu diệt 99% số thỏ ở Pháp năm
1952. Chuyện cũng xảy ra như vậy ở
Úc.
2. Phương pháp
ảnh hưởng đến sinh suất
Nhằm làm giảm sinh
suất của những loài không muốn có.
Lần đầu tiên, năm 1954, Knippling đă
thả những cá thể cái của Cochliomyia
hominivorax làm bất thụ bởi Co60 ở đảo
Curacao, đă tiêu diệt hoàn toàn loài 2 cánh này, là
tác nhân của bịnh myiases.
Kỹ thuật này dựa trên
nguyên tắc theo đó th́ một cá thể
bị bất thụ sẽ bành trướng
sự bất thụ trong quần thể bởi v́
nó gây cảm ứng (induction) cho bạn t́nh
của nó. Trong trường hợp của
Cochliomyia, thành công dễ dàng là do các con cái
chỉ giao phối một lần trong đời.
Người ta c̣n sử
dụng các chất gây bất thụ như tia
bức xạ ion trong hóa học.
Hiện người ta sử
dụng Phéromone và chất dẫn dụ. Năm
1960, Jacobson đă ly trích chất Giplure, phéromon sinh
dục của Lymantria dispar, có thể thu hút
những con đực của loài này ở
nồng độ cực nhỏ (10 - 9 ug/lít không
khí).
Chế tạo các bẩy có
feromone (chất dẫn dụ) và chất bất
thụ gốc hóa học là trong những cách hay
để dẫn dụ những loài gây hại.

a. Vài ví dụ
Mục đích của IPM là làm
tăng sản lượng nông nghiệp đồng
thời giúp nông dân giảm chi phí mua nông dược
và giảm tác hại do nông dược. IPM sử
dụng nhiều h́nh thức quản lư đồng
ruộng như là một hệ sinh thái.
Sự luân canh là cách canh tác làm
cho đất chỉ có các cây trồng khác nhau
trong mỗi mùa. Điều này làm cho các dịch
hại không có cơ may sinh sản liên tục.
Chiến thuật này cần thiết để hoa
màu tránh được các loài phá hại.
Ở vài nơi chiến
thuật tránh né này không thực hiện
được, nên canh tác một vụ một năm
là có lợi hơn. Đặc biệt, ruộng lúa
nước ở Đông nam á phải gieo cấy
nhiều vụ một năm, và không hoa màu nào khác
có thể cho một lượng thực phẩm sánh
bằng. Cuộc cách mạng xanh đă dùng các
giống thần kỳ, gia tăng sử dụng
phân bón và nông dược. Trong những năm
1960 đầu 70, cách làm này tỏ ra thành công nhưng
tốn kém. Khi đó chánh phủ trợ giá
việc dùng phân bón và nông dược để
thúc đẩy kỹ thuật mới. Hậu
quả của việc trợ giá là nông dược
giảm giá và được dùng lung tung. Một
tác động bất ngờ của việc dùng
quá nhiều nông dược là chúng tiêu diệt các
thiên địch hữu ích. Ngay sau đó, các
trận dịch, như dịch rầy nâu xảy
ra. Rầy nâu trở nên kháng thuốc, nhưng thiên
địch của chúng th́ không. Rầy nâu
bất trị phá hại ruộng lúa Indonesia, gây
thiệt hại hơn một triệu tấn lúa
vào năm 1977. Cách sửa chữa ngắn hạn
là trồng các giống lúa kháng rầy, nhưng
trong ít năm, rầy nâu lại thay đổi tính
kháng một lần nữa và trở nên chiếm
lợi thế trong ruộng lúa. Năm 1986,
Tổng thống Indonesia đă cấm 57 trong
tổng số 66 loại nông dược sử
dụng cho lúa và không trợ giá các loại nông
dược khác. Sự tiêu thụ nông dược
ít đi và rầy nâu cũng giảm đi. Các
thiên địch của rầy nâu như ong (Wasps)
và nhện, gia tăng đủ để hạn
chế rầy. Sau năm 1986, lượng nông dược
giảm 60%, chánh phủ tiết kiệm được
120 triệu USD cho việc trợ giá nông dược
và sản lượng lúa gia tăng 15%. Trường
hợp của Indonesia cung cấp bằng chứng
điển h́nh là IPM có thể là giải pháp
về giá cả - hiệu quả (cost-effective
solution) cho vấn đề các loài dịch
hại (Bush, 1997).
Một thí dụ về IPM áp
dụng cho các đồn điền Dừa
dầu ở Malaysia. Hàng ngàn mẫu rừng
nhiệt đới đă chuyển thành đồn
điền Dừa trong vùng b́nh nguyên Malaysia.
Dầu dừa dùng trong gia đ́nh và kỹ
nghệ, và là nguồn thu nhập quan trọng.
Thiệt hại sau thu hoạch do chuột làm
giảm thu nhập của người trồng
dừa, trong khi thuốc diệt Chuột th́
mắc và không hữu hiệu. Người ta du
nhập chim Cú mèo là thiên địch của
chuột. Không bao lâu, quần thể Chuột
giảm thiểu và người ta tiết kiệm
được tiền mua thuốc trừ
Chuột.
b. Tóm lược phương
pháp quản lư dịch hại tổng hợp
Phương pháp này sử
dụng tổng các biện pháp kiểm soát
dịch hại: môi trường, di truyền, hóa
học và canh tác. Nhưng biện pháp này cần
phải có sự tập huấn cho người áp
dụng và sự quan trắc các loài dịch
hại (Chiras, 1991).
· Tập huấn
(giáo dục) và theo dơi (quan trắc)
Khi có sâu rầy xuất
hiện trên đồng ruộng, người nông
dân nghĩ ngay tới việc dùng nông dược
để sớm tiêu diệt chúng. Nhưng họ
cũng nghĩ cách làm sao có thể bảo vệ
hoa màu mà không cần dùng đến các chất
độc này. Từ xa xưa người ta đă
biết nuôi Kiến vàng trong các vườn cam quít
chẳng hạn. Các kinh nghiệm dân gian là
rất cần nhưng chưa đủ. Các cơ
sở nghiên cứu, các trường đại
học có thể giúp nông dân hiểu biết
nhiều hơn. Cần phải nhận thấy
rằng hiện nay nông dân nhận hằng
khối lời khuyên của các nhà sản
xuất và những người bán nông dược.
Cho nên có nhiều khúc mắc trong vấn đề
này.
Nông dân cần được
tập huấn nhiều điều để áp
dụng IPM. Hiểu biết về sinh học côn
trùng, kỹ năng nhận biết côn trùng và
cải thiện việc theo dơi quần thể côn
trùng có thể giúp nông dân quản lư đồng
ruộng tốt hơn.
Tập huấn và theo dơi là
những điều tiên quyết cho IPM. Nếu không,
sự lệ thuộc nặng nề vào nông dược
sẽ vẫn cứ tiếp tục.
· Biện pháp môi
trường
Biện pháp này nhằm làm cho
các điều kiện môi trường (vô sinh và
hữu sinh) trở nên bất lợi cho các loài
dịch hại. V́ biện pháp này dựa
nhiều vào kiến thức hơn vào công
nghệ, nên đặc biệt phù hợp cho các nước
nghèo. Nhưng biện pháp này vẫn hữu
hiệu trong các xă hội nông nghiệp hiện
đại.
Tăng cường đa
dạng hoa màu bằng cách đa canh và luân canh,
nhằm làm giảm nguồn thức ăn cho
một loài dịch hại nào đó và giúp ngăn
chận sự tăng trưởng nhanh của nó.
Thay đổi thời gian gieo
trồng. Vài loài thực vật tránh dịch
hại một cách tự nhiên bằng cách mọc
sớm hay trễ trong mùa tăng trưởng. Thí
dụ ở các nước ôn đới, Cải
hoang mọc sớm trước khi có sự
xuất hiện của Bướm cải. Nông dân
có thể gieo trồng một hoa màu nào đó
sớm hoặc trễ hơn b́nh thường, lúc
mà côn trùng chưa hay đă bộc phát rồi.
Thay đổi chất dinh dưỡng
của cây và đất. Mức độ của
vài chất dinh dưỡng trong đất và cây
trồng cũng có thể ảnh hưởng
số lượng quần thể dịch hại.
Nitơ là nguồn dinh dưỡng quan trọng mà
côn trùng và kư sinh nhận từ thực vật. Lượng
Nitơ quá nhiều hay quá ít có thể làm thay
đổi số lượng cá thể của
nhiều loài dịch hại. Thí dụ Rệp cây
(Aphid) sinh sản nhiều hơn trên các hạt
chứa nhiều Nitơ. Các côn trùng khác, như
Thrips và Mites lại sinh sản ít hơn trên
Mồng tơi (Spinach) và Cà tô-mát khi các rau
quả này chứa nhiều Nitơ. Cho nên biết
được nhu cầu dinh dưỡng của
dịch hại, mức độ chất dinh dưỡng
của đất và của thực vật có
thể giúp kiểm soát dịch hại.
Kiểm soát hoa màu và cỏ
dại lân cận. Hoa màu và cỏ dại có
thể là nguồn thức ăn và nơi ở
của dịch hại, nhất là côn trùng. Cho nên
cần kiểm soát hoa màu và cỏ dại lân
cận là cần thiết. Đôi khi hoa màu kém giá
trị lân cận được dùng làm bẫy
(trap crop) để lôi kéo côn trùng. Khi cây linh lăng
(alfalga) trồng cạnh cây bông vải, sẽ thu
hút rầy bông, làm giảm thiệt hại cho bông
vải.
Du nhập thiên địch, kư
sinh và vật gây bịnh. Trong thiên nhiên hàng ngàn
loài côn trùng là dịch hại tiềm tàng, nhưng
không trở thành dịch hại thật sự,
bởi v́ sự kiểm soát tự nhiên do thiên
địch, kư sinh và bịnh tật. Nông dân có
thể sử dụng sự hiểu biết này
của đấu tranh sinh học hay kiểm soát
chuỗi thức ăn để quản lư cỏ
dại, côn trùng, gậm nhấm và các dịch
hại khác. Có rất nhiều thí dụ về
việc kiểm soát dịch hại bằng thiên
địch hay kư sinh. Thí dụ cổ điển
như côn trùng diệt xương rồng ở UÙc.
Nông dân Việt Nam đă dùng kiến vàng kiểm
tra sâu rầy cho vườn tược. Trung
quốc dùng vịt con thả vào ruộng lúa
ăn bớt côn trùng phá lúa. Siêu khuẩn và vi
khuẩn cũng đă được nghiên
cứu và ứng dụng ở nhiều nơi.
· Biện pháp di
truyền
Có hai chiến lược
chủ yếu, là làm cho con đực trở nên
bất thụ và tạo các cây trồng và
vật nuôi kháng bịnh về phương
diện di truyền.
· Biện pháp hóa
học
Bao gồm việc sử
dụng nông dược khi thật cần
thiết, pheromon, hormon và các chất trừ sâu
tự nhiên.
Việc sử dụng nông dược
phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Sử dụng hạn chế
- Sử dụng đúng
thời điểm để hạn chế
số lần phun xịt
- Nông dược ít gây
hại cho thiên địch và các sinh vật lan can
(non target organisms)
- Không phun xịt gần
nguồn nước uống
- Đă thử nghiệm cẩn
thận độc tính
- Tránh dùng nông dược
bền vững và có thể tích tụ sinh học
- Tránh tối đa việc nông
dân phải tiếp xúc nông dược (tránh hít
phải khi thao tác)
- Sử dụng để làm
giảm số cá thể dịch hại tới dưới
ngưỡng gây hại, sau đó kết hợp
với các biện pháp khác để giữ cho
quần thể này ở mức thấp.
· Biện pháp canh
tác
Dùng nhiều biện pháp như
trồng nhiều cây che không cho cỏ dại
mọc; tiếng động và bù nh́n đe
dọa chim ... Gần đây người ta dùng vi
ba (microwaving) trừ một số côn trùng như dán,
mối, con hai đuôi ăn giấy và hồ dán b́a
sách (Chiras, 1991).
Pḥng trừ dịch hại
tổng hợp tỏ ra có nhiều lợi ích
về nhiều mặt, nhưng để bảo
đảm cho sự thành công, cần sự
nổ lực và đầu tư thích hợp. Điều
quan trọng là chính nông dân, chớ không phải
ai khác, là người đóng vai tṛ quyết
định ở đây
|