Ô nhiễm không khí (ONKK) ngày càng
gia tăng theo sự phát triển công nghiệp
của các nước phát triển. Sự gia tăng
sản xuất công nghiệp và sự lưu thông
xe có động cơ làm cho sự thải vào không
khí một số lượng ngày càng lớn
của khói, khí độc và các chất ô
nhiễm khác.
ONKK là do rất nhiều
yếu tố tiêu biểu của văn minh
hiện đại: gia tăng sản xuất năng
lượng, luyện kim, giao thông, đốt rác...
Nguồn gốc của ô
nhiễm không khí vô cùng đa dạng. Đầu tiên
là sự sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Tiếp theo là phụ phẩm dạng khí của công
nghệ hóa học, bụi do luyện kim, kỹ
nghệ xi măng... ngoài ra chất phóng xạ
thể khí do các trung tâm hạt nhân, các hạt phóng
xạ do thử vũ khí hạt nhân. Sau cùng,
sự lên men chất hữu cơ tạo ra H2S và
các hợp chất của S khác.
Ở đô thị, ONKK c̣n do
lưu thông của xe có động cơ. Ở vùng
xa đô thị, do sự sử dụng hóa
chất trong nông nghiệp, các cơ sở hóa
dầu.
ONKK rất khó phân tích v́
chất ON thay đổi nhiều do điều
kiện thời tiết và địa h́nh. Hơn
nữa, nhiều chất c̣n phản ứng
với nhau tạo ra chất mới rất độc.
Thí dụ, SO2 kết hợp với hơi nước
tạo ra acid sulfuric.
I. CÁC LOẠI
CHẤT GÂY Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
Người ta có thể
xếp ô nhiễm không khí vào hai nhóm lớn:
thể khí và thể rắn. Các khí chiếm 90%, c̣n
lại là chất rắn. Ngoài ra người ta c̣n
xem tiếng ồn cũng là một loại ONKK.
(Bảng 1).
a. Thán khí (CO2, dioxyd carbon)
CO2 là chất cấu tạo b́nh
thường của khí quyển. Nồng độ
350ppm (1988), nhưng không ổn định mà tăng
liên tục từ cuối thế kỷ trước.
Chủ yếu là do người ta dùng nhiên
liệu hóa thạch để tạo năng lượng.
Năm 1986 tổng số năng lượng
tạo ra trên thế giới đă vượt 11
tỉ tấn đương lượng carbon, mà
9/10 là từ nhiên liệu hóa thạch.
Biết rằng 12g C khi bị
đốt cháy tạo ra 44g CO2 , ta thấy lượng
CO2 tạo ra từ sự oxyd hoá số nhiên
liệu trên lớn cỡ nào. Ước lượng
có 19 tỉ tấn CO2 thải vào khí quyển trong
năm 1985 do văn minh kỹ nghệ (Ramade, 1989).
Việc sử dụng nhiên
liệu hoá thạch ngày càng tăng hơn một
thế kỷ nay đă làm xáo trộn chu tŕnh
carbon. Con người đă làm cản trở
sự cân bằng động giữa lượng
CO2 thải ra (hô hấp, lên men, núi lửa) và lượng
hấp thu (quang hợp và trầm tích). Các nhân
tố ổn định sự cân bằng không c̣n
hữu hiệu, lượng CO2 từ 268ppm vào
giữa thế kỷ đă lên đến 350ppm
hiện nay.
Sự xáo trộn chu tŕnh
carbon do hoạt động của chúng ta là 1
hiện tượng sinh thái học đáng quan tâm
hàng đầu v́ các hậu quả của nó có
thể dự kiến được.
Bảng 1. Chủng
loại và nguồn gốc các nhóm chất ONKK chính
THỂ
|
CHỦNG
LOẠI
|
NGUỒN
THẢI
|
THỂ
KHÍ
|
CO2
|
Núi lửa
Hô hấp của sinh
vật
Nhiên liệu hóa
thạch
|
CO
|
Núi lửa
Máy nổ
|
Hydrocarbure
|
Thực vật, vi
khuẩn
Máy nổ
|
Hợp chất hữu cơ
|
Kỹ nghệ hóa
học
Đốt rác - Sự cháy
|
SO2 và các dẫn xuất
của S
|
Núi lửa - Nhiên
liệu hóa thạch
Sương mù biển -
Vi khuẩn
|
Dẫn xuất của N
|
Vi khuẩn
Sự đốt cháy
|
Chất phóng xạ
|
Trung tâm nguyên tử
Nổ hạt nhân
|
THỂ
RẮN
|
Kim loại nặng - Khoáng
|
Núi lửa - Thiên
thạch
Xâm thực do gió
Nhiều kỹ nghệ
Máy nổ
|
Hợp chất hữu cơ
tự nhiên hoặc tổng hợp
|
Cháy rừng
Đốt rác
Nông nghiệp (Nông dược)
|
Phóng xạ
|
Nổ hạt nhân
|
b. Monoxyd carbon, CO
Trong điều kiện tự
nhiên, CO có hàm lượng rất nhỏ,
khoảng 0,1 - 0,1 ppm. Nguồn gốc tự nhiên
của nó c̣n chưa biết hết. Núi lửa,
sự dậy men ở môi trường hiếm khí,
sấm chớp, cháy rừng là nguồn chủ
yếu của CO.
Các sinh vật biển cũng
có vai tṛ đáng kể. Các tảo nâu như Fucus
và Neocystis, sứa Physalia physalis và các sứa
ống khác cũng có chứa CO với lượng
đáng kể. Ngoài ra thực vật cũng
tạo ra CO khi các tinh dầu thực vật
bị oxyd hoá.
Mặc dù vậy, sự đốt
nhiên liệu do con người vẫn là nguồn
ô nhiễm chủ yếu. Động cơ xe hơi
là nguồn thải chính của CO. Chỉ riêng Hoa
Kỳ, trong những năm 1970, có đến hơn
67 triệu tấn khí CO thải vào không khí do xe hơi
hàng năm. Ngoài ra, sự đốt than đá,
củi và sự cháy rừng cũng là nguồn
thải CO do con người.
CO có nhiều tác động
khác nhau lên sinh vật. Liều quá cao sẽ gây
độc cho thực vật v́ ngăn chặn quá
tŕnh hô hấp. Động vật máu nóng rất
mẫn cảm với CO, v́ CO kết hợp
với hemoglobin, tạo thành carboxyhemoglobin, làm các
tế bào thiếu oxygen, gây ngạt thở. Hít không
khí ô nhiễm 6,4 x 1000 ppm CO trong ṿng 2 phút gây
nhức đầu và choáng váng, trong ṿng 15 phút có
thể bất tỉnh và tử vong. Liều 100ppm
CO được xem là giới hạn tối
đa cho phép (Ramade, 1987).
c. Hydrocarbon, Cx Hy
Thực vật là nguồn
tạo ra Cx Hy thuộc nhóm terpène tự nhiên. C̣n
nguồn nhân tạo là do máy nổ hay diesel cũng
như ḷ sưởi dùng dầu cặn (fuel).
Sự cháy không trọn vẹn các hợp chất
CxHy không no sẽ tạo ra peroxy-acyl-nitrates (PAN)
trong không khí đô thị bị ô nhiễm
nặng và nắng nhiều gây nên sương mù
quang hóa (Smogs photochimiques). Cũng trong quá tŕnh cháy
không hoàn toàn sẽ tổng hợp nên chất Cx
Hy đa ṿng gây ung thư, như benzo-3,4-pyrene,
benzanthracène...
d. Aldéhydes
Chất acroléine là hợp
chất rất độc và gây kích thích (irritant)
có trong không khí quanh nhà máy và cả trong hơi
thải của sự cháy không hoàn toàn. Các nhà máy
lọc dầu, ḷ đốt rác và máy nổ là
nguồn thải acroléine chủ yếu. Nó c̣n là
một trong những chất độc của khói
thuốc lá.
e. Dioxid lưu huỳnh, SO2
Núi lửa là nguồn tự
nhiên chính yếu của SO2. Nhưng đa phần
của nó thải vào không khí là do hoạt động
của con người, chủ yếu cũng do
sự đốt cháy nhiên liệu hóa thạch.
Than đá và dầu FO (fuel oil) chứa một lượng
đáng kể SO2. Than đá có thể chứa 5% và
dầu nặng 3% lưu huỳnh. Luyện kim và
điều chế acid sulfuric cũng có vai tṛ
thải ra lưu huỳnh.
SO2 thải vào không khí có
thể biến đổi thành SO3 và acid sulfuric.
Chất này là một nguyên nhân của mưa acid
ở nhiều vùng trên thế giới. SO2 cũng
rất độc đối với thực
vật và động vật.
f. Dẫn xuất của
Nidrogen
Các oxyd nitơ (NO và NO2) là khí
cấu tạo của khí quyển. Nhưng chúng là
sản phẩm với số lượng quan
trọng của sự cháy ở nhiệt độ
cao và nhất là các máy nổ xăng và dầu.
Chúng là những chất có vai tṛ đáng kể
trong ONKK. NO2 là một khí bền vững, màu vàng
sậm, làm giảm tầm nh́n và tạo nên màu nâu
đặc trưng bao phủ vùng đô thị. Nó
có độ hấp thụ mạnh đối
với tia cực tím tạo nên ô nhiễm quang hóa
học. NO2 cũng tạo ra mưa acid.
g. Ozon (O3)
Đó là một chất cấu
tạo khí quyển. Nồng độ O3 tăng
dần theo cao độ và đạt trị
số tối đa trong tầng b́nh lưu, trong
khoảng 18 -35 km. Trong không khí đô thị có
nhiều sương mù quang hoá, nồng độ
O3 có thể lên trên 1 ppm. Khi đó nó trở nên
độc cho sinh vật. Nếu ONKK đô thị
gây nên O3 ở gần mặt đất, th́ 1 quá
tŕnh ô nhiễm khác lại làm giảm O3 trong
tầng b́nh lưu. Việc giảm này là do các
oxyd nitơ từ sự cháy, sự sử dụng
ngày càng tăng phân đạm và nhất là
việc thải khí Fréons (Molina và Rowland, 1974, 1975).

Sự thải các hạt
rắn vào khí quyển tạo nên yếu tố
quan trọng cho ONKK do hoạt động của
con người . Cần nhớ rằng có
nhiều nguồn tự nhiên có bụi (xâm
thực gió, núi lửa). Sự can thiệp của
con người c̣n thêm vào đó một lượng
bụi bổ sung.
Sự cháy không trọn
vẹn là nguồn thải chính. Các máy nổ
thải ra các chất khoáng không cháy hay bụi khói
ra từ ống xả khói.
Có 2 nhóm bụi xếp theo kích
thước của chúng:
- Hạt lớn, kích thước
lớn hơn 
- Hạt nhỏ, dưới ,
c̣n được gọi một cách sai lầm là
aerosols.
a. Nguồn gốc và cấu
tạo của bụi
- Phần lớn bụi trong khí
quyển là từ các trận băo cát trong vùng sa
mạc. Đó thường là các hạt cỡ 0,3(m,
đa số gốc silic. Núi lửa thải vào không
khí các hạt kích cỡ khác nhau và khí SO2. Băo
biển tạo ra sương mù biển (embruns).
Sự cháy rừng và h́nh thức du canh tạo ra
bụi có nguồn gốc tự nhiên và nhân
tạo. Sương mù màu xanh dương do vệ
tinh quan sát được bên trên châu Phi, ĐNÁ và
Brésil là do các nguyên nhân vừa kể.
- Sự đốt cháy
thải vào khí quyển nhiều chất khoáng, kim
loại và bồ hống. Khói nhà máy và nhà dân
sử dụng than và dầu nặng cũng
chứa nhiều bụi như vừa nói. Khói
xả xe hơi c̣n chứa nhiều ch́.

H́nh 1. Núi lưả
phun

H́nh 2. Cháy rừng
Kỹ nghệ khai mỏ,
chế tạo hay sử dụng vật liệu xây
dựng: cát, xi măng, công tŕnh xây dựng, công
chánh... thải nhiều bụi vào không khí.
Kỹ nghệ luyện kim, kho chứa quặng
mỏ, than đá, gang... tạo một lượng
bụi lớn. Bụi ở vùng kỹ nghệ
gồm thạch anh, vôi, thạch cao, asbeste. Asbeste là
một loại amiante, sử dụng rất
nhiều làm dụng cụ cách nhiệt. Đó là
silicat magne ngậm nước dùng làm bố
thắng, tấm lợp... Nó gây tổn thương
phổi không phục hồi dù với liều
rất thấp. Ngoài ra c̣n có oxyd sắt, oxyd kim
loại khác và á kim.
b. Ảnh hưởng
của bụi
Các hạt rơi trên lá cây làm
giảm hoạt động quang hợp và ngăn
cản sự nảy mầm của hạt
phấn v́ tác động cơ học. Bụi xi
măng gây bệnh chlorosis cho lá cây.
Sức khoẻ người
bị tác động mạnh do không khí ô
nhiễm bụi. Các hạt lớn được
lọc bỏ bởi xoang mũi, hầu và khí
quản, nhưng những hạt có đường
kính nhỏhơn
có thể đến phế quản và các hạt
nhỏ hơn
vào đến phế bào. Chúng gây nhiều
hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe người.

Bảng 1. Bảng
mức độ tiếng ồn và phản
ứng của người
MỨC DECIBEL
|
NGUỒN TIÊU BIỂU
|
PHẢN ỨNG CỦA NGƯỜI
|
150
140
|
Tiếng nổ động
cơ phản lực
|
Điếc hoàn toàn
|
130
|
Giới hạn tối
đa của tiếng nói
|
|
120
|
Tiếng nổ động
cơ phản lực cách 200 ft
|
|
110
|
Discothegue
Kèn xe hơi cách 3ft
Máy đập kim
loại
|
|
100
|
Tiếng nổ phản
lực cơ cách 2000 ft
Súng nổ cách 0,5 ft
|
Rất có hại
|
90
|
Trạm xe ngầm New York
Xe tải nặng cách 50
ft
|
Hại thính giác (8
giờ)
|
80
|
Búa hơi cách 50 ft
|
Có hại
|
70
|
Tiếng thắng xe
lửa cách 50 ft
Lưu thông trên xa lộ
cách 50ft
|
Có nghe điện
thoại
|
60
|
Máy điều hoà không
khí cách 20 ft
|
Gây chú ư (Intrusive)
|
50
40
|
Lưu thông của xe hơi
nhẹ cách 50 ft
Pḥng khách
Pḥng ngủ
|
Yên tĩnh
|
30
|
Thư viện
Tiếng th́ thầm
|
Rất yên tĩnh
|
20
|
Pḥng thu thanh
|
|
10
0
|
|
Tai cảm nhận
được
Ngưỡng nghe
được
|
Nguồn : Hội
đồng Chất lượng môi trường
hoa Kỳ (1970) trong Dasmann (1984)
Đa số linh trưởng là
những động vật gây ồn và con người
cũng không phải ngoại lệ. Cho nên chỗ
đông người, như đô thị là
những nơi rất ồn ào. Ô nhiễm
tiếng ồn là chuyện không mới mẽ ǵ,
nhưng ở những vùng phát triển mạnh
về công nghệ th́ ô nhiễm tiếng ồn
đạt một qui mô mới. Tiếng ồn
được tính bằng decibel.
Bảng thang bậc decibel là
sự đo mức độ năng lượng
tiếng ồn. Thang này tính theo logarithm, có ư nghĩa
là mức 130 decibel th́ 10 lần lớn hơn 120
decibel, và 100 lần lớn hơn 110 decibel. Trong môi
trường yên tĩnh, tiếng ồn ở
mức 50 decibel hay ít hơn . Ở 80 decibel
tiếng ồn trở nên khó chịu ( gây
phiền nhiễu, annoying). Vậy mà ở thành
phố, con người thường phải
chịu đến mức 110 decibel hay hơn, như
gần các máy dập kim loại, sân bay, discotheque
(Dasmann, 1984). Các mức độ tiếng ồn
khác nhau có thể gây các phản ứng khác nhau
cho người (Bảng 1).

a. Sơ lược về phóng
xạ
Từ khi có sự phát
triển của năng lượng hạt nhân và
vũ khí nguyên tử, th́ có nhiều ư kiến khác
nhau về sự an toàn của các mức độ
thấp của phóng xạ lên môi trường.
Tất cả chúng ta đều tiếp xúc
với phóng xạ cơ bản (background radiation)
từ tia vũ trụ và sự phân hủy tự
nhiên của các đồng vị phóng xạ. Vài
người xem đó là có lợi v́ nó thúc đẩy
cơ chế nhân đôi ADN. Những người
khác lại cho là không có một mức độ
phóng xạ nào là an toàn cả. Sự đóng góp
của nhiều nguồn khác nhau vượt quá
mức phóng xạ cơ bản của một nơi
th́ tùy thuộc vào địa chất địa
phương. Một trong những nguồn phóng
xạ quan trọng nhất là khí radon, nó có
thể đạt mức gây tác dụng ở
trong các nhà ở kém thoáng khí, đặc biệt
nếu nhà xây trên nền đá hoả nham (như
hoa cương chẳng hạn, HTH) (Mose và CSV,
1992).
Có 3 yếu tố xác định
đồng vị phóng xạ là độc hay không.
Thứ nhất tính chất và cường độ
của sự phân hủy phóng xạ có liên quan
đến khối lượng và năng lượng
của các hạt tạo ra. Thứ nh́,
thời gian bán hủy (half life) của chất
đồng vị. Thứ ba là sinh hóa học
của nguyên tố phóng xạ. Về mặt sinh
hóa học, các đồng vị phóng xạ
của các nguyên tố có cùng tác động
với các đồng vị ổn định
của chúng (tức là các nguyên tố tương
ứng) và tích lũy trong các cơ quan đặc
biệt trong cơ thể sinh vật.
b. Tính chất và cường
độ của các sản phẩm phân hủy phóng
xạ
Khi một nguyên tử của
một chất phóng xạ phân hủy, nó sẽ
tạo ra một trong 4 loại hạt sau:
hay trung ḥa (neutron). Nó có thể phân hủy
một hay nhiều lần cho đến khi nguyên
tử ổn định.
Sự ảnh hưởng
của chất phóng xạ đối với người
được biểu diễn bằng nhiều cách.
Đơn vị được sử dụng khá
phổ biến là rad. Rad là lượng phóng
xạ được hấp thu, hoặc đơn
giản hơn là lượng năng lượng
được đưa vào trong mô (hay một môi
trường khác) khi năng lượng đó phóng
xạ (irradiated). Một rad bằng 100 ergs (đơn
vị của năng lượng) đi vào
một gram mô.
Cường độ phóng
xạ được đo bằng đơn
vị quốc tế là becquerel (Bq), và là số
nguyên tử phân ră trong 1 giây. Trước kia, tính
phóng xạ (radioactivity) được đo
bằng curie (Ci) và bằng số lần phân ră
của 1g radium trong 1 giây. Suy ra:
Bq và 1
Hạt alpha gồm 2 protons và 2
neutrons và là nhân helium mang điện tích dương.
Các hạt alpha quá lớn so với các hạt phóng
xạ khác. Dù chúng chỉ đi ít cm trong không khí
và vài mm trong mô cơ thể, khối lượng
lớn của chúng gây hại rất lớn khi
chạm tới tế bào, đặc biệt khi
được hít vào phổi của động
vật có xương sống.
Hạt beta là một điện
tử có điện tích âm. Các hạt beta có
khả năng xuyên thấu mạnh hơn các
hạt alpha, có thể dến vài mét trong không khí.
Nguồn phóng xạ beta có thể ngăn chặn
bởi một màng nhựa mỏng. Khối lượng
nhỏ của chúng gây hại hơn hạt alpha
cho mô sinh vật.
Tia gamma là lượng tử
của phóng xạ điện từ (quanta of
electromagnetic radiation). Chúng xuyên thấu rất sâu
và có thể đi qua nhiều cm ch́ (Walker và CSV,
1996, tr.21), hay cả vài mét ch́! (Ramade, 1987, tr.205). Tác
hại của chúng cũng giống như các
hạt beta.
Hạt trung ḥa không mang điện
tích và chỉ được phóng thích khi vài nguyên
tố bị bắn phá bằng tia alpha và gamma. Chúng
phản ứng với các nguyên tố khác chỉ
bằng va chạm trực tiếp (direct collision).
Sự sản xuất ra các hạt trung ḥa là cơ
sở cho sự phân đôi hạt nhân trong ḷ
phản ứng. Hạt trung ḥa có thể xuyên qua
bề dầy nhiều cm ch́.
Trong lĩnh vực sinh học,
nếu chúng ta đo tính phóng xạ của
một chất chỉ bằng becquerel th́
được ít thông tin về tác động gây
cho các mô cơ thể bởi v́ becquerel không
kể đến tính chất phân ră hạt nhân,
nhất là tần số của nó. Cho nên người
ta sử dụng thêm hai đơn vị gray và
sievert.
Gray (Gy) là lượng phóng
xạ làm cho 1 kg mô hấp thụ 1 joule năng lượng.
Tuy nhiên, nhiều loại phóng xạ khác nhau gây
ra nhiều loại tác hại khác nhau cho mô
bởi cùng một năng lượng. Điều này
đôi khi khó hiểu, nên cần sự diễn
tả đơn giản hơn. Nếu một vơ
sĩ hạng nặng nện vào cằm anh
bằng 100 cú đấm và chia số X joule năng
lượng cho mỗi cú đấm, th́ anh
cảm thấy bị đau và xương hàm không
bị thiệt hại ǵ. Nhưng nếu anh ta dùng
hết số X joule năng lượng cho chỉ
một cú đấm thôi, th́ chắc là anh bị
bể xương hàm và bất tỉnh trong
nhiều giờ. Nhà quyền anh đă dành cùng
một năng lượng cho cái cằm của
anh, nhưnh tỉ lệ chia (chia cho 1 hay 100)
của năng lượng gây nên các ảnh hưởng
khác nhau. Do đó, cần có đơn vị khác,
đó là sievert.
Sievert (Sv) tính đến các cách
khác nhau mà theo đó cùng một năng lượng
có thể được dành cho mô. Sự
tiếp xúc "an toàn" hàng năm của công
chúng thường được cho là 5 mSv.
Một lượng 20 mSv (lượng mà hàng trăm
công nhân nhận tại Chernobyl) là bằng với
20 Gy của phóng xạ beta hay gamma, hoặc chỉ
bằng 1 Gy của hạt alpha. Nên hạt alpha có
tác động gấp 20 lần của beta hay
gamma, với cùng một số lượng gray như
nhau (Walkre và csv, 1996).
c. Thời gian bán hủy
(half life)
Thời gian bán hủy hay
thời gian phân nửa đời sống của
các đồng vị phóng xạ. Đó là thời
gian cần thiết để phân hủy phân
nửa của số nguyên tử của đồng
vị phóng xạ. Đường biểu diễn phân
hủy giảm theo hàm exponentiel. Thí dụ 32 P là
đồng vị phóng xạ của lân dùng
nhiều trong các thí nghiệm sinh học phân
tử và sinh lư thực vật. Thời gian bán
hủy của nó là 14 ngày. Nếu chúng ta bắt
đầu từ ngày 0 với 1 g 32 P, th́ vào ngày
14 chúng ta sẽ có 0,5 g 32 P và 0,5 g 32 S (lưu
huỳnh ổn định). Vào ngày 28 chúng ta
sẽ có 0,25 g 32 P và 0,75 g 32 S và tiếp tục như
thế.
Qua 10 lần bán hủy, tính phóng
xạ của một đồng vị không c̣n khác
với mức phóng xạ cơ bản và
được xem là "an toàn". Do đó 32 P
có thể không cần các điều kiện ngăn
ngừa sau 140 ngày phân ră.
d. Sinh hóa học
Vài đồng vị phóng
xạ đặc biệt nguy hiểm bởi v́ chúng
có cùng cách tác động sinh hoá như các nguyên
tố ổn định đối với cơ
thể sinh vật. Thí dụ như hơn 80%
của tổng iod của người được
chứa trong tuyến giáp trạng nơi nó
tạo ra kích thích tố tăng trưởng
thyroxin. Nếu iod phóng xạ được
hấp thu, nó sẽ tập trung trong tuyến giáp
trạng và có thể gây ra ung thư tuyến này.
Rơ ràng là ung thư tuyến giáp trạng đă
được thấy tăng khủng khiếp
ở dân chúng sống gần nhà máy Chemobyl (Kazakov
và csv, 1992). Đồng vị phóng xạ strontium phóng
xạ theo sau sự phát tán chất này sau các
vụ thử bom nguyên tử trong không khí vào
những năm 1950 và 1960. Caesarium- 137 theo con
đường của potassium và là vấn đề
đặc biệt của các vùng chịu ảnh
hưởng của các vụ tai nạn Chernobyl, Tây
bắc Anh quốc và vùng Scandinavia (Bắc Âu). Các
nơi mà chất dinh dưỡng được
thực vật sử dụng nhiều lần th́
phải cần đến nhiều thập niên
để cho mức nhiễm bẩn ở Chernobyl
hạ xuống mức phóng xạ cơ bản.

II. HẬU QUẢ
CỦA Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
ONKK làm hại sức khoẻ
của người, đời sống sinh vật
và gây ảnh hưởng xấu cho môi trường,
đặc biệt là khí hậu toàn cầu.
a. Gây hại sức khoẻ
ONKK có nhiều ảnh hưởng
tai hại cho sức khoẻ con người.
Chủng loại và sự trầm trọng của
các ảnh hưởng này tùy thuộc vào
loại hoá chất, nồng độ và thời
gian nhiễm. Các nhóm đặc biệt nhạy
cảm là những người bị rối
loạn tim phổi, trẻ em, nhất là các em
hiếu động và những người bị
suyễn và bị nghẹt mũi phải thở
bằng miệng.
Khó mà nói một cách chính xác
chất độc nào gây ra một bệnh nào. V́
các chất ON tác động trong một thời
gian dài, có sự cộng hưởng của
nhiều chất và thời gian ủ bệnh lâu
như bệnh khí thủng (emphysema), viêm phế quăn
măn tính, ung thư phổi và bệnh tim.
b. Sự tự vệ
của cơ thể người chống ONKK
Rất may là hệ hô hấp
người có nhiều cơ chế tự vệ
chống lại ONKK. Khi ta hít vào, lông mũi
chặn các bụi lớn và khi chất ON kích thích
mũi th́ ta nhảy mũi (hắt hơi) đẩy
không khí ra. Hơn nữa vách mũi, khí quản,
phế quản và vi phế quản được
phủ chất nhày. Chất nhày thu giữ các
bụi nhỏ và hoà tan vài chất ONKK. Phần
lớn ống hô hấp được trải
bởi màng tiêm mao (cilia), chúng uốn lượn
đẩy chất nhầy và chất ô nhiễm
về phía miệng nơi chúng sẽ được
tống ra. Nếu phổi bị kích thích,
chất nhầy chảy nhiều hơn và tạo
ra ho, đẩy KK dơ và các chất nhầy
bị ô nhiễm ra.
c. Sự quá tải và
xuống cấp của cơ chế tự vệ
Khi bị nhiễm chất ô
nhiễm mạnh hoặc thời gian ô nhiễm kéo
dài tuy với nồng độ
thấp, chất nhầy bị băo hoà, chất ô
nhiễm sẽ vào sâu trong hệ hô hấp và gây
hại nhiều hơn.
Bụi mịn rất hại v́
có thể vào sâu mang theo các chất độc
gắn vào các bề mặt của phế
quản hay phế bào. Nhiễm khói thuốc lâu dài
và các chất ô nhiễm khác như ozon, SO2, NO2 làm
hủy hoại tiêm mao. Do đó vi khuẩn và các
hạt mịn xuyên thấu phế bào làm viêm
nhiễm và ung thư phổi.
Ngoài ra hút thuốc lâu năm
và nhiễm ONKK lâu dài làm chất nhày nhiều, ngăn
chặn luồng khí và tạo ra ho. Khi cơ
của phế quản bị chai v́ ho lâu, chất
nhày tích tụ và thở ngày càng khó, sẽ
dẫn đến viêm phế quản măn tính.
Bệnh khí thủng (emphysema)
xảy ra khi một số lớn phế bào
bị hư hại làm cho bệnh nhân không
thể thở ra hết khí trong phổi, phế bào
bị đóng lại, khí độc sẽ lan sang
các phế bào kế cận, chúng mất khả năng
đàn hồi và có thể bị rách, làm
giảm diện tích cần thiết để O2 vào
máu. Bệnh nhân có thể chết v́ suy tim hay
nghẹt thở. Bệnh khí thủng giết
chết nhiều người nhiều hơn ung thư
và nan y.
Ung thư phổi là do sự tăng
trưởng bất b́nh thường của
tế bào màng nhày của phổi và phế
quản. Hút thuốc là nguyên nhân hàng đầu,
nhưng nó cũng do hít phải các chất ONKK:
chất phóng xạ, bụi amiant, arsenic, crôm,
nickel...
Các công nhân làm việc trong các
nhà máy là đối tượng của ONKK măn tính.
Họ thường bị ho, thở ngắn, viêm
phổi, viêm phế quản, khí thủng và ung thư
phổi.
Đáng chú ư là sợi asbete
(một loại amiant) dù với lượng
nhỏ nhưng vẫn gây ung thư phổi 15
đến 40 năm sau. Tấm lợp fibrociment có
sợi amiant là một nguy hiểm tiềm tàng cho
chúng ta.
H́nh 3. Hệ hô
hấp người

ONKK gây ảnh hưởng tai
hại cho tất cả sinh vật.
a. Thực vật, ẩn hoa cũng
như hiển hoa, đều rất nhạy
cảm đối với ô nhiễm không khí.
Mức độ nhạy cảm ở một vài
nhóm thực vật, như địa y và tùng bách,
cao đến nổi người ta đă nghĩ
đến việc dùng chúng như là các chỉ
thị sinh học cho các ô nhiễm này.
SO2 là một trong những
chất ONKK rất độc cho thực vật.
Kế đến là NO2, ozon, fluor, ch́...Chúng gây
hại trực tiếp cho thực vật khi chúng
đi vào khí khổng (stomates). Chúng sẽ làm hư
hại hệ thống giảm thoát nước và
giảm khả năng kháng bệnh. ONKK cũng có
thể ngăn cản sự quang hợp và tăng
trưởng của thực vật; giảm
sự hấp thu thức ăn, làm lá vàng và
rụng sớm.
Mưa acid c̣n tác động
gián tiếp lên thực vật và làm cây thiếu
thức ăn như Ca và giết chết các vi
sinh vật đất. Nó làm ion Al được
giải phóng vào nước làm hại rễ cây
( lông hút) và làm giảm hấp thu thức ăn và
nước. Những thiệt hại do ONKK gây ra
cho rừng và nông nghiệp v́ vậy rất quang
trọng, nhất là ở những nước
kỹ nghệ hoá.
b. Đối với động
vật, nhất là vật nuôi, th́ fluor gây
nhiều tai họa hơn cả. Chúng bị
nhiễm độc do hít trực tiếp và qua
chuỗi thức ăn. Ch́ cũng có nhiều tác
hại cho động vật.
Mưa acid gây nhiều
thiệt hại cho động vật thủy sinh.
Ơí Thụy Điển, 4000 hồ không c̣n cá. Hoa
Kỳ, Canada, Anh... cũng có hiện tượng
như vậy.

Có sự tác động
hỗ tương giữa ONKK và các nhân tố khí
hậu. Hướng gió, độ chiếu sáng, lượng
mưa chi phối cường độ ONKK. Ngược
lại, khi mà ONKK ở mức độ cao sẽ
biến đổi nhân tố khí hậu, như ḍng
quang năng rọi tới trái đất sẽ
bị giảm theo ngày có sương mù ở
đô thị.
Aính hưởng ONKK lên vi khí
hậu là hiển nhiên. Nhưng đối với
khí hậu toàn cầu th́ vấn đề
hết sức phức tạp. Thật vậy,
sự gia tăng lượng thán khí trong KK hay
sự gia tăng lượng bụi làm việc
đánh giá nhiệt độ mặt đất
trở nên khó khăn.
a. Ảnh hưởng
trên đại khí hậu (macroclimat)
Khí hậu trung b́nh ở
mặt đất tùy thuộc trước hết
vào số năng lượng nhận được
trên mỗi đơn vị diện tích. Cường
độ năng lượng mặt trời khi
xuyên qua khoảng không vũ trụ để
đến mặt đất chịu chi phối
bởi nhiều thông số. Đó là hệ số
hấp thu và phản xạ của các hạt
chất rắn, là do gốc của các tia ánh sáng
tới.
* Hiệu ứng nhà kính. Đa
số các khí đều trong suốt đối
với bức xạ nên hệ số hấp thu
bằng không. Ngược lại, CO2, các oxyd nitơ
và ozon hấp thu một phần quang phổ
bức xạ mặt trời, đặc biệt vùng
hồng ngoại (infra-rouge), là các bức xạ
sống ngắn chứa nhiều nhiệt năng.
Do đó chúng có đặc tính tái hấp thu các
tia hồng ngoại phát ra bởi mặt đất
và biển (do nóng lên dưới tia mặt
trời) trước khi thoát vào không gian. Cho nên các
khí này tạo nên "hiệu ứng nhà kính"
(green house effect) làm gia tăng nhiệt độ
ở hạ tầng khí quyển. Hơi nước
trong khí quyển cũng có vai tṛ tương
tự.

H́nh 4. Sự gia tăng
hàm lượng CO2 theo thời gian
Hiệu ứng nhà kính làm cho
nhiệt độ trái đất gia tăng, gây
hiện tượng nóng lên toàn cầu (global
warming). Băng ở 2 cực trái đất tan, nước
biển dăn nở làm ch́m ngập các vùng
thấp và các hải đảo. Ngoài ra, hạn hán,
lũ lụt sẽ thường xuyên hơn; mưa
băo dữ dội hơn.
Mặt khác độ vẫn
đục của KK có vai tṛ ngược lại,
làm giảm nhiệt độ ở mặt đất,
trong khi làm tăng nhiệt độ tầng b́nh
lưu.
Hoạt động của con
người làm thay đổi các hệ số
hấp thu, phản xạ và phát tán cường
độ ánh sáng, nên làm thay đổ khí
hậu toàn cầu. Nghiên cứu ảnh hưởng
của các chất ô nhiễm, đặc biệt
là của CO2 và bụi (aérosols), là đối tượng
rất nhiều cơ quan và các nhà khoa học
nhằm t́m hiểu ảnh hưởng của chúng
lên khí hậu hiện tại và tương lai.
b. Ảnh hưởng
lên khí hậu địa phương (Mésoclimat)
Ở mức độ vùng,
sự biến đổi khí hậu liên hệ
với ONKK đă được biết từ lâu.
Các vùng đô thị ô nhiễm nặng có khí
hậu bị thay đổi, khác đáng kể
với vùng lân cận.
Ảnh hưởng chính
thấy ở sự chiếu sáng ở mặt
đất. Ánh sáng bị giảm bởi độ
đục ở hạ tầng khí quyển. Hơn
nữa vào mùa đông sương mù kỹ
nghệ (smogs) là một trong những vấn
nạn của các thành phố kỹ nghệ.
H́nh 5. Sương mù
quang hóa ở thành phố Los Angeles, Hoa Kỳ

Các chất SO2, NOx do con người
thải ra là nguồn chủ yếu gây lắng
đọng acid. Chúng có thể kết với khói
hay bụi tạo thành bụi acid lưu lại
trong khí quyển. Chúng có thể nhận nguyên
tử oxygen trong khí quyển và sau đó hoà tan vào
nước mưa tạo acid sulfuric H2SO4 và acid
nitric HNO3 , rơi xuống dưới dạng mưa,
tuyết, mưa đá.
Mưa acid đặc biệt
nghiêm trọng ở các vùng chịu ảnh hưởng
của việc dùng nhiên liệu hóa thạch: như
than đá, dầu mỏ. Ơí Châu Âu, Bắc
Mỹ là các nơi nghiêm trọng nhất. Vào ngày
10.04.1974 ở Pilochry (Scotland), pH nước mưa
là 2,4. Kỷ lục thế giới ghi nhận
ở Wheeling, West Virginia, USA,1979, với pH nước
mưa là 1,7 tức là ở khoảng nước
trái chanh và nước acid đổ b́nh acquy xe hơi
(theo Vie le Sage,1982).
Sự giảm pH của nước
làm giảm sự đa dạng và sản lượng
sơ cấp của phiêu sinh thực vật,
nền tảng của chuỗi thức ăn,
ảnh hưởng gián tiếp đến sản
lượng thứ cấp.
Sự acid hoá cũng gây
ảnh hưởng độc trực tiếp cho
cá nước ngọt, đặc biệt cá
Hồi ở các hồ Canada và Thụy Điển.
Màn ozon chiếm khỏng 2/3 trên
của tầng stratosphere, tức cách mặt đất
từ 20 - 40 km. Tầng này là tấm màn che
bảo vệ sinh vật khỏi bị gây hại
bởi tia cực tím (UV, utraviolet) được
biết có thể gây ung thư và đột
biến.
Khi tia cực tím chạm các phân
tử ozon, nó sẽ cắt các phân tử này,
để tạo ra O và O2. Các chất này mau chóng
kết hợp trở lại, tái tạo ozon và
sinh nhiệt... như vậy là tầng ozon là
tầng có thể tái tạo, biến tia cực tím
có hại trở thành nhiệt (vô hại).

Sự sống trên trái đất
tùy thuộc vào tác động bảo vệ này
cuả tầng ozon. Nếu không, sự sống không
thể tồn tại.

H́nh 6. Thay đổi
nồng độ của O3 và ClO theo vĩ độ
Nhưng vài hoạt động
của con người lại phá tầng ozon. Ba
hoạt động chủ yếu đă được
liệt kê: sử dụng CFCs (c̣n gọi là khí
freon), động cơ phản lực siêu thanh và
nổ vũ khí hạt nhân.
a. Khí freon
C̣n được biết
với tên chloro-fluoro-carbon (CFC), dùng trong máy
lạnh, tủ lạnh, máy điều ḥa không khí
và các b́nh xịt (keo xịt tóc, chống mùi =
deodorant). Chúng tác dụng với ozon ở tầng
b́nh lưu, làm mỏng lớp bảo vệ này.
Phản ứng được
tóm tắt như sau:
- Khí freon bị phân giải
bởi tia cực tím trong tầng b́nh lưu,
tạo ra gốc clor tự do.
Gốc clor tự do có thể
phản ứng với ozon ở màn ozon, làm
giảm nồng độ ozon và loại trừ màn
ngăn chặn tia cực tím.

- Một phân tử của khí
freon có thể phân hủy thành hàng ngàn phân
tử ozon, bởi v́ gốc Clor tư do có khả
năng tái tạo.

Oxid clor cũng có thể
phản ứng với ozon:

b. Các máy bay phản lực
siêu thanh
Bay ở tầng stetratosphere cũng
phá màn ozon v́ động cơ phản lực
thải ra oxid nitric. Khí này phản ứng với
ozon để tạo ra dioxid nitrogen và oxygen.

c. Sự nổ vũ khí
hạt nhân: cũng tạo ra oxid nitric, phá hủy
màn ozon cũng giống như phản
ứng trên.
Ngoài ra phân đạm sử
dụng trong nông nghiệp cũng có thể
chuyển thành oxid nitric thoát lên tầng
stetratosphere để phản ứng với phân
tử ozon và tàn phá màn này.
Màn ozon bị mỏng sẽ làm
tia cực tím gia tăng ở mặt đất.
Ở liều hợp lư, tia UV làm sậm da và kích
thích sự tạo vitamin D ở da. Tuy nhiên, phơi
dưới tia UV mạnh dễ gây phỏng
nặng và dẫn tới ung thư da. Các nhà nghiên
cứu y khoa tin rằng màn ozon giảm đi 1% có
thể làm tăng 2% ung thư da. Ước lượng
từ đây đến năm 2000, ozon mỏng
đi 10 - 15% th́ ung thư da sẽ tăng 20 - 30 %.
Màng ozon mỏng c̣n gây bịnh mù mắt do đục
thủy tinh thể.
Thực vật cũng chịu
ảnh hưởng của tia UV. Chúng thường
bị chết ở liều cao; c̣n ở liều
thấp , th́ lá cây bị hư hại, quang
hợp bị ngăn trở, tăng trưởng
chậm và đột biến.
Tóm lại, màn ozon đă và đang bị phá
hủy bởi hoạt động của con người.
Điều này đe doạ sự sống của
tất cả sinh vật trên hành tinh chúng ta.
|