Vấn
đề ô nhiễm nước là một trong
những thực trạng đáng ngại nhất
của sự hủy hoại môi trường
tự nhiên do nền văn minh đương
thời. Khủng hoảng về nước đang
hoành hành cả hành tinh, không riêng ai cả.
Cơ
chế và ảnh hưởng của ô nhiễm nước
th́ được biết rơ. Chủng loại các
loại ô nhiễm, cách tác động sinh học
của chúng đă được nghiên cứu
nhiều. Tuy nhiên, vấn đề là những
chất rắn có thể hoà tan hay lơ lững
trong nước sẽ được mang đi xa
nguồn thải. Do sự đồng nhất
của môi trường nước, các chất gây
ô nhiễm gây tác động lên toàn bộ sinh
vật ở dưới ḍng, đôi khi cả
đến vùng ven bờ và vùng khơi của
biển. Vấn đề đặc biệt
nữa là nước là dung môi của nhiều
chất, nước chảy qua những địa
h́nh thấp và vùng nghèo O2 hoà tan. Nhiệt độ
càng cao th́ O2 ḥa tan càng ít.
Nhiệt
độ
|
Nồng
độ O2 băo ḥa trong nước ngọt
|
Trongnước
biển (2%NaCl)
(thể
tích)cm3/l
|
Thể
tích( cm3/l)
|
Trọng
lượng(mg/l)
|
0oC
|
10,24
|
14,16
|
7,97
|
5oC
|
8,98
|
12,37
|
7,07
|
10oC
|
7,96
|
10,92
|
6,35
|
15oC
|
7,15
|
9,76
|
5,79
|
20oC
|
6,50
|
8,84
|
5,31
|
25oC
|
5,95
|
8,11
|
4,86
|
30oC
|
5,48
|
7,53
|
4,46
|
Điều
này chứng tỏ rằng O2 là nhân tố hạn
chế trong môi trường nước.
Từ
đó ta thấy:
-
Động vật thuỷ sinh phải có sự trao
đổi khí qua mang rất mạnh, dễ bị
ảnh hưởng của ô nhiễm hoá học.
-
Chúng có thể thiếu O2 khi nhiệt độ
gia tăng, nhất là vào mùa hè, lưu lượng
nước sông ít, nhiệt độ cao.
-
Dao động nhiệt của nước sông ít,
đa số sinh vật là hẹp nhiệt.
Các
đặc điểm trên cho thấy là môi trường
nước rất dễ bị ô nhiễm, các ô
nhiễm từ đất, không khí đều có
thể làm ô nhiễm nước, ảnh hưởng
lớn đến đời sống của người
và các sinh vật khác.
I.
T̀NH TRẠNG Ô NHIỄM NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
Trong
thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa
và đại dương gia tăng với
nhịp độ đáng lo ngại. Tiến độ
ô nhiễm nước phản ánh trung thực
tiến bộ phát triển kỹ nghệ. Ta có
thể kể ra đây vài thí dụ tiêu biểu.
Anh
Quốc chẳng hạn: Đầu thế kỷ 19,
sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống
cống lộ thiên vào giữa thế kỷ này.
Các sông khác cũng có t́nh trạng tương
tự trước khi người ta đưa ra các
biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
Nước
Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán và
nhiều sông lớn, nhưng vấn đề cũng
không khác bao nhiêu. Dân Paris c̣n uống nước
sông Seine đến cuối thế kỷ 18.
Từ đó vấn đề đổi khác: các
sông lớn và nước ngầm nhiều nơi
không c̣n dùng làm nước sinh hoạt được
nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô nhiễm măn
tính. Sông Rhin chảy qua vùng kỹ nghệ hóa
mạnh, khu vực có hơn 40 triệu người,
là nạn nhân của nhiều tai nạn (như
nạn cháy nhà máy thuốc Sandoz ở Bâle năm
1986 chẳng hạn) thêm vào các nguồn ô
nhiễm thường xuyên.
Ở
Hoa Kỳ t́nh trạng thảm thương ở
bờ phía đông cũng như nhiều vùng khác.
Vùng Đại hồ bị ô nhiễm nặng, trong
đó hồ Erie, Ontario đặc biệt nghiêm
trọng.

Nước
ta có nền công nghiệp chưa phát triển
mạnh, các khu công nghiệp và các đô thị
chưa đông lắm nhưng t́nh trạng ô
nhiễm nước đă xảy ra ở
nhiều nơi với các mức độ nghiêm
trọng khác nhau (Cao Liêm và Trần Đức Viên,
1990).
Nông
nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước
nhất dùng tưới lúa và hoa màu, chủ
yếu là ở đồng bằng sông Cửu
Long và sông Hồng. Việc sử dụng nông dược
và phân bón hóa học càng góp thêm phần ô
nhiễm môi trường nông thôn.
Công
nghiệp là ngành làm ô nhiễm nước quan
trọng, mỗi ngành có một loại nước
thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên
thải nước biến Sông Cầu thành màu
đen, mặt nước sủi bọt trên
chiều dài hàng chục cây số. Khu công
nghiệp Việt Tŕ xả mỗi ngày hàng ngàn mét
khối nước thải của nhà máy hóa
chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt...
xuống Sông Hồng làm nước bị
nhiễm bẩn đáng kể. Khu công nghiệûp
Biên Ḥa và TP HCM tạo ra nguồn nước
thải công nghiệp và sinh hoạt rất
lớn, làm nhiễm bẩn tất cả các sông
rạch ở đây và cả vùng phụ cận.
Nước
dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng
nhanh do dân số và các đô thị. Nước
cống từ nước thải sinh hoạt
cộng với nước thải cuả các cơ
sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư
là đặc trưng ô nhiễm của các đô
thị ở nước ta.
Điều
đáng nói là các loại nước thải
đều được trực tiếp thải
ra môi trường, chưa qua xử lư ǵ cả,
v́ nước ta chưa có hệ thống xử lư
nước thải nào đúng nghĩa như tên
gọi.
Nước
ngầm cũng bị ô nhiễm, do nước
sinh hoạt hay công nghiệp và nông nghiệp.
Việc khai thác tràn lan nước ngầm làm cho
hiện tượng nhiễm mặn và nhiễm phèn
xảy ra ở những vùng ven biển sông
Hồng, sông Thái B́nh, sông Cửu Long, ven biển
miền Trung... (Cao Liêm và Trần Đức Viên,
1990).
II.
CÁC LOẠI Ô NHIỄM NƯỚC
Có
nhiều cách phân loại ô nhiễm nước.
Hoặc dựa vào nguồn gốc gây ô nhiễm,
như ô nhiễm do công nghiệp, nông nghiệp
hay sinh hoạt. Hoặc dựa vào môi trường
nước, như ô nhiễm nước ngọt,
ô nhiễm biển và đại dương.
Hoặc dựa vào tính chất của ô nhiễm,
như ô nhiễm sinh học, hóa học hay vật
lư.
Ô
nhiễm nước sinh học do các nguồn
thải đô thị hay kỹ nghệ có các
chất thải sinh hoạt, phân, nước
rữa của các nhà máy đường,
giấy...
Sự
ô nhiễm về mặt sinh học chủ yếu
là do sự thải các chất hữu cơ có
thể lên men được: sự thải sinh
hoạt hoặc kỹ nghệ có chứa chất
cặn bă sinh hoạt, phân tiêu, nước
rửa của các nhà máy đường,
giấy, ḷ sát sinh...
Sự
ô nhiễm sinh học thể hiện bằng
sự nhiễm bẩn do vi khuẩn rất
nặng, đặt thành vấn đề lớn
cho vệ sinh công cộng chủ yếu các nước
đang phát triển. Các bệnh cầu trùng, viêm
gan do siêu vi khuẩn tăng lên liên tục ở
nhiều quốc gia chưa kể đến các
trận dịch tả. Các sự nhiễm bệnh
được tăng cường do ô nhiễm
sinh học nguồn nước. Thí dụ thương
hàn, viêm ruột siêu khuẩn. Các nước
thải từ ḷ sát sinh chứa một lượng
lớn mầm bệnh. Thí dụ ḷ sát sinh La
Villette, Paris thải ra 350 triệu mầm hiếu
khí và 20 triệu mầm yếm khí trong 1cm 3 nước
thải, trong đó có nhiều loài gây bệnh(
Plancho in Furon,1962).
Các
nhà máy giấy thải ra nước có chứa
nhiều glucid dễ dậy men. Một nhà máy trung
b́nh làm nhiễm bẩn nước tương
đươngvới một thành phố 500.000 dân.
Các
nhà máy chế biến thực phẩm, sản
xuất đồ hộp, thuộc da, ḷ mổ,
đều có nước thải chứa protein.
Khi được thải ra ḍng chảy, protein
nhanh chóng bị phân hủy cho ra acid amin, acid béo,
acid thơm, H2S, nhiều chất chứa S và P, có
tính độc và mùi khó chịu. Mùi hôi của
phân và nước cống chủ yếu là do
indol và dẫn xuất chứa methyl của nó là
skatol.
Ô
nhiễm hữu cơ được đánh giá
bằng BOD5: nhu cầu O2 sinh học trong 5 ngày. Đó
là hàm lượng O2 cần thiết để vi
sinh vật phân hủy hết các chất hữu cơ
trong 1 lít nước ô nhiễm. Thí dụ ở
Paris BOD5 là 70g/ngựi/ngày.
Tiêu
chuẩn nước uống của Pháp là lượng
hữu cơ có BOD5 dưới 5mg/l, nồng độ
O2 hoà tan là hơn 4mg/l, chứa dưới 50
mầm coliforme/cm3 và không có chất nào độc
cả. Tiêu chuẩn của các quốc gia khác cũng
tương tự.

Do
thải vào nước các chất nitrat, phosphat dùng
trong nông nghiệp và các chất thải do
luyện kim và các công nghệ khác như Zn, Cr, Ni,
Cd, Mn, Cu, Hg là những chất độc cho
thủy sinh vật.
Sự
ô nhiễm do các chất khoáng là do sự thải
vào nước các chất như nitrat, phosphat và các
chất khác dùng trong nông nghiệp và các chất
thải từ các ngành công nghiệp.
Nhiễm
độc ch́ (Saturnisne) : Đó là ch́ được
sử dụng làm chất phụ gia trong xăng và
các chất kim loại khác như đồng,
kẽm, chrom, nickel, cadnium rất độc đối
với sinh vật thủy sinh.
Thủy
ngân dưới dạng hợp chất rất
độc đối với sinh vật và người.
Tai nạn ở vịnh Minamata ở Nhật
Bản là một thí dụ đáng buồn, đă
gây tử vong cho hàng trăm người và gây
nhiễm độc nặng hàng ngàn người
khác. Nguyên nhân ở đây là người dân
ăn cá và các động vật biển khác
đă bị nhiễm thuỷ ngân do nhà máy ở
đó thải ra.
Sự
ô nhiễm nước do nitrat và phosphat từ phân
bón hóa học cũng đáng lo ngại. Khi phân bón
được sử dụng một cách hợp lư
th́ làm tăng năng suất cây trồng và
chất lượng của sản phẩm cũng
được cải thiện rơ rệt. Nhưng
các cây trồng chỉ sử dụng được
khoảng 30 - 40% lượng phân bón, lượng
dư thừa sẽ vào các ḍng nước
mặt hoặc nước ngầm, sẽ gây
hiện tượng ph́ nhiêu hoá sông hồ, gây
yếm khí ở các lớp nước ở dưới.
Ô
nhiễm này chủ yếu do hydrocarbon, nông dược,
chất tẩy rửa...
a.
Hydrocarbons (CxHy)
Hydrocarbons
là các hợp chất của các nguyên tố
của cacbon và hydrogen. Vài CxHy có trọng lượng
phân tử nhỏ (methan, ethan và ethylen) ở
dạng khí trong nhiệt độ và áp suất b́nh
thường. Tuy nhiên , đại đa số CxHy
là lỏng và rắn. Chúng ít tan trong nước
nhưng tan nhiều trong dầu và các dung môi
hữu cơ (Walker et al., 1996). Chúng là một trong
những nguồn ô nhiễm của nền văn
minh hiện đại. Vấn đề hết
sức nghiêm trọng ở những vùng nước
lợ và thềm lục địa có nhiều cá.
Đôi khi cá bắt được không thể ăn
được v́ có mùi dầu lửa.
Sự
ô nhiễm bởi các hydrocarbon là do các hiện tượng
khai thác mỏ dầu, vận chuyển ở
biển và các chất thải bị nhiễm xăng
dầu. Ưïớc tính khoảng 1 tỷ tấn
dầu được chở bằng đường
biển mỗi năm. Một phần của
khối lượng này, khoảng 0,1 - 0,3%
được ném ra biển một cách tương
đối hợp pháp: đó là sự rửa các
tàu dầu bằng nước biển. Các tai
nạn đắm tàu chở dầu là tương
đối thường xuyên. Đă có 129 tai nạn
tàu dầu từ 1973 - 1975, làm ô nhiễm biển
bởi 340.000 tấn dầu (Ramade, 1989).
Ước
tính có khoảng 3.6 triệu tấn dầu thô
thải ra biển hàng năm (Baker,1983). Một
tấn dầu loang rộng 12 km2 trên mặt
biển, do đó biển luôn luôn có một
lớp mỏng dầu trên mặt (Furon,1962).
Các
vực nước ở đất liền cũng
bị nhiễm bẩn bởi hydrocarbon. Sự
thải của các nhà máy lọc dầu, hay
sự thải dầu nhớt xe tàu, hoặc là do
vô ư làm rơi văi xăng dầu. Tốc độ
thấm của xăng dầu lớn gấp 7
lần của nước, sẽ làm các lớp nước
ngầm bị nhiễm. Khoảng 1,6 triệu
tấn hydrocarbon do các con sông của các quốc
gia kỹ nghệ hóa thải ra vùng bờ
biển.

H́nh
1. Con đường vận chuyển dầu
mỏ

b.
Chất tẩy rữa: bột giặt tổng
hợp và xà bông
Bột
giặt tổng hợp phổ biến từ năm
1950. Chúng là các chất hữu cơ có cực
(polar) và không có cực (non-polar). Có 3 loại
bột giặt: anionic, cationic và non-ionic. Bột
giặt anionic được sử dụng
nhiều nhất, nó có chứa TBS (tetrazopylène
benzen sulfonate), không bị phân hủy sinh học.
Xà
bông là tên gọi chung của muối kim loại
với acid béo. Ngoài các xà bông Natri và Kali tan
được trong nước, thường dùng
trong sinh hoạt, c̣n các xà bông không tan th́
chứa calci, sắt, nhôm...sử dụng trong
kỹ thuật (các chất bôi trơn, sơn,
verni).
c.
Nông dược (Pesticides)
Các
nông dược hiện đại đa số là
các chất hữu cơ tổng hợp. Thuật
ngữ pesticides là do từ tiếng Anh pest là loài
gây hại, nên pesticides c̣n gọi là chất
diệt dịch hay chất diệt hoạ.
Người
ta phân biệt:
-
Thuốc sát trùng (insecticides).
-
Thuốc diệt nấm (fongicides).
-
Thuốc diệt cỏ (herbicides).
-
Thuốc diệt chuột (diệt gậm nhấm
= rodenticides).
-
Thuốc diệt tuyến trùng (nematocides).
Chúng
tạo thành một nguồn ô nhiễm quan
trọng cho các vực nước. Nguyên nhân gây
ô nhiễm là do các nhà máy thải các chất
cặn bă ra sông hoặc sử dụng các nông dược
trong nông nghiệp, làm ô nhiễm nước
mặt, nước ngầm và các vùng cửa sông,
bồ biển.
Nước
dùng của dân thành phố Arles (miền nam nước
Pháp) có mùi khó chịu không sử dụng
được, vào năm 1948. Nguyên nhân là do
một nhà máy sản xuất thuốc diệt
cỏ 2,4-D cách đó hàng trăm km thải
chất cặn bă kỹ nghệ ra sông làm ô
nhiễm nguồn nước.
Ô
nhiễm của vùng bờ biển Thái B́nh Dương
của Hoa Kỳ, ở vịnh Californie, bởi hăng
Montrose Chemicals do sự sản xuất nông dược.
Hăng này sản xuất từ đầu năm
1970, 2/3 số lượng DDT toàn cầu làm ô
nhiễm một diện tích 10.000 km2 (Mc Gregor, 1976),
làm cho một số cá không thể ăn
được tuy đă nhiều năm trôi qua.
Sử
dụng nông dược mang lại nhiều
hiệu quả trong nông nghiệp, nhưng hậu
quả cho môi trường và sinh vật cũng
rất đáng kể.
Các
chất rắn không tan khi được thải
vào nước làm tăng lượng chất lơ
lững, tức làm tăng độ đục
của nước. Các chất này có thể là
gốc vô cơ hay hữu cơ, có thể
được vi khuẩn ăn. Sự phát
triển của vi khuẩn và các vi sinh vật khác
lại càng làm tăng độ đục
của nước và làm giảm độ xuyên
thấu của ánh sáng.
Nhiều
chất thải công nghiệp có chứa các
chất có màu, hầu hết là màu hữu cơ,
làm giảm giá trị sử dụng của nước
về mặt y tế cũng như thẩm
mỹ.
Ngoài
ra các chất thải công nghiệp c̣n chứa
nhiều hợp chất hoá học như muối
sắt, mangan, clor tự do, hydro sulfur, phènol... làm
cho nước có vị không b́nh thường. Các
chất amoniac, sulfur, cyanur, dầu làm nước có
mùi lạ. Thanh tảo làm nước có mùi bùn,
một số sinh vật đơn bào làm nước
có mùi tanh của cá.

III.
HẬU QUẢ CỦA Ô NHIỄM NƯỚC
a.
Ở các vực nước chảy

H́nh
2. Ô nhiễm hữu cơ ở vực nước
chảy.

H́nh
3. Sự phú dưỡng hóa ở vực nước
đứng
Sự
thải các chất hữu cơ sẽ gây một
sự xáo trộn toàn bộ hệ sinh thái
với sự xuất hiện 4 vùng dọc theo ḍng
nước.
- Vùng
pha trộn giữa nước sông và nước
thải.
- Vùng
phân hủy tích cực, ở đó nấm và vi
khuẩn sinh sôi và phân huỷ chất hữu cơ.
Nếu tất cả O2 được sử
dụng hết, vùng này sẽ trở nên hôi
thối.
-
Kế đến sẽ là vùng phục hồi, nước
sẽ được làm giảm lượng
chất ô nhiễm.
- Vùng
nước sạch trở lại sau khi phục
hồi.
Người
ta có thể xem sự ô nhiễm một con sông
với một hệ thống dậy men liên
tục với khả năng tự thanh lọc.
Sự thanh lọc này được hiểu theo
nghĩa loại trừ các chất hữu cơ
ở dạng sinh hoạt hay hoà tan.
b.
Các vực nước đứng (hồ, ao, đầm
lầy...)
Thường
bị lấp đầy nhanh chóng do sự phát
triển mau lẹ của thực vật và các
sinh vật khác. Sự việc gọi là phú dưỡng
hoá (eutrophisation), do sự gia tăng độ ph́
nhiêu của nước bởi các nhân tố dinh
dưỡng nhất là nitrat, phosphat làm sinh sôi
nảy nở các phiêu sinh thực vật và các
sinh vật thuỷ sinh. Quá tŕnh làm sự trầm
tích tăng nhanh: hồ hẹp lại dần và
cạn đi.

a.
Độc tố của ô nhiễm hoá học chính
Sự
sử dụng nông dược để trừ
dịch hại, nhất là phun thuốc bằng máy
bay làm ô nhiễm những vùng rộng lớn. Các
chất này thường tồn tại lâu dài
trongmôi trường, gây hại cho nhiều sinh
vật có ích, đến sức khỏe con người.
Một số dịch hại có hiện tượng
quen thuốc, phải dùng nhiều hơn và đa
dạng hơn các thuốc trừ sâu.
Ngoài
ra các hợp chất hữu cơ khác cũng có
nhiều tính độc hại. Nhiều chất
thải độc hại có chứa các hợp
chất hữu cơ như phenol, thải vào nước
làm chết vi khuẩn, cá và các động
vật khác, làm giảm O2 tăng hoạt động
vi khuẩn yếm khí, tạo ra sản phẩm
độc và có mùi khó chịu như CH4, NH3,
H2S...
Thuốc
tẩy rữa tổng hợp rất độc
cho người và vi khuẩn nước.
b.
Nông dược
Muối
đồng, các chromates rất độc cho
tảo với nồng độ nhỏ ở
mức ppm. Thuốc trừ cỏ rất độc
với phiêu sinh thực vật. Thuốc trừ
cỏ gốc urê (Monuron, Diuron) cản ngăn
sự tăng trưởng của Phytoflagellata
ở nồng độ thấp ở mức ppb.
Đáïng
ngạc nhiên là thuốc sát trùng cũng độc
đối với phiêu sinh thực vật. DDT và các
thuốc trừ sâu khác ngăn cản quang hợp
của phiêu sinh thực vật và sự nẫy
mầm của các tiếp hợp bào tử
(zygospores) của tảo lục Chlorophyceae.
Các
thuốc sát trùng thường có độc
tố cao đối với động vật có
xương sống máu lạnh và các động
vật không xương sống. Thuốc sát trùng
thường đôcü hơn thuốc diệt
cỏ và thuốc trừ nấm trong lĩnh
vực này.
Các
nông dược sử dụng để trừ
muỗi và xịt trong ruộng lúa có nồng
độ sử dụng cao hơn CL 50 nhiều
lần.
Nông
dược c̣n làm xáo trộn sự tạo phôi và
phát triển hậu phôi của động
vật có xương sống thủy sinh. Lindane và
Fenthion cản trở sự biến thái của ṇng
nọc ếch. Thuốc trừ cỏ có vẻ vô
hại như Aminotriazole ảnh hưởng lên
tuyến sinh dục và làm bất thụ cá.
Parathion gây tổn thương noăn sào cá nước
ngọt.
Các
thông số dùng để xác định ảnh hưởng
một chất ô nhiễm đối với động
vật thuỷ sinh thường là CL 50, CL 100
(concentration létale, nồng độ gây chết),
CI 50 (concentration d'immobilisation, nồng độ gây
bất động), TLm và TL 50 (temps létal, thời
gian gây chết).
c.
Các Hydrocarbons
Gây
tổn thất cao cho các quần xă sinh vật. Tai
nạn đấm tàu dầu "Torrey-Canyon" và
"Amoco-Cadiz" là những th́ dụ đáng giá
cho kiểu tai hoạ cho sinh vật biển bởi
sản phẩm dầu. Cá, tôm, cua, balanes chết
hầu hết. Chim biển là nhũng nạn nhân
đầu tiên và dễ thấy của tai nạn
dầu.
Sau
khi bốc hơi, các phần dễ bốc hơi
dầu tràn ở trên sẽ bị phân hủy sinh
học bởi vi khuẩn và nấm. Sau đó, chúng
sẽ đóng thành viên 0,1- 10cm và dạt vào
bờ.
Ngày
nay, biển và đại dương đầy
những cặn bă trên.

H́nh
4. Ô nhiễm do dầu mỏ ở biển và
đại dương
d.
Thủy ngân (Hg)
Là
chất ít có trong tự nhiên, nhưng ô nhiễm
thủy ngân rất đáng sợ. Thủy ngân ít
bị phân hủy sinh học nên có khuynh hướng
tích tụ trong sinh vật thông qua chuỗi và lưới
thức ăn. Rong biển có thể tích tụ lượng
thủy ngân hơn 100 lần trong nước; cá
thu có thể chứa đến 120 ppm Hg/kg.
Bệnh
Minamata, Nhật, do một xí nghiệp thải ra
vịnh Minamata chất CH3Hg là độc cho sinh
vật và người. Người và gia súc ăn
cá và hải sản đánh bắt ở vùng này
trở thành nạn nhân của ô nhiễn do công
nghệ hiện đại. Đă có hàng trăm người
chết, và hàng ngàn người bị thương
tật suốt đời (Ramade, 1987).
|