Khoáng sản và năng lượng
đều là nguồn nguyên liệu tự nhiên có
nguồn gốc vô cơ hoặc hữu cơ,
tuyệt đại bộ phận nằm trong ḷng
đất và quá tŕnh h́nh thành có liên quan mật
thiết đến quá tŕnh lịch sử phát
triển của vỏ trái đất trong một
thời gian dài hàng ngh́n năm, có khi hàng
triệu năm.
Trong quá tŕnh phát triển
của xă hội loài người từ giai đoạn
mông muội ban đầu đến giai đoạn
văn minh hiện nay th́ sự hiểu biết và
sử dụng khoáng sản, năng lượng ngày
nhiều hơn và đa dạng hơn.
Vỏ trái đất có
phần lục địa chiếm khoảng 50%
khối lượng toàn bộ của vỏ trái
đất tương đương với 2, 9%
khối lượng của trái đất.
Phần lớn vỏ trái đất được
cấu tạo bởi các nham thạch bị nóng
chảy, nguội dần và kết tinh. Thành
phần các nguyên tố cấu tạo nên vỏ
trái đất được biết nhưng chưa
đầy đủ v́ những khảo cứu
chỉ mới được thực hiện trên
lục địa mà thôi. Hơn nữa trên
lục địa cũng có những vùng không
khảo cứu được v́ nơi nầy có
lớp trầm tích quá dày.
Bảng 1. Thành phần các nguyên
tố cấu tạo nên vỏ trái đất
(Masson - 1966)
Thành phần
|
Trọng lượng
(%)
|
Oxy (O2)
Silic (SiO2)
Nhôm (Al)
Sắt (Fe)
Calci (Ca)
Natri (Na)
Kali (K)
Magne (Mg)
Titan (Ti)
Hydrogen (H2)
Các nguyên tố khác
|
46, 60
27, 72
8, 13
5, 00
3, 63
2, 83
2, 59
2, 09
0, 44
0, 14
0, 83
|
Trong sự phát triển
của nền kinh tế hiện đại,
những kim loại có nhu cầu lớn và có
nhiều trong vỏ trái đất như nhôm,
sắt và cả những kim loại có ít hơn
như đồng, ch́, kẻm... đều bị
khai thác triệt để, tất nhiên chỉ
khai thác được chúng khi chúng tập trung thành
quặng*, mỏ **. Những kim loại hiếm như
thiếc, thủy ngân, titan...và các kim loại quư
như vàng, bạc, bạch kim...có trử lượng
rất ít và phân tán nên khó xác định
được chính xác.
* Quặng là
tập hợp các khoáng sản trong đó hàm lượng
các thành phần có ích (kim loại, hợp
chất của kim loại...) đạt yêu
cầu công nghiệp, có thể khai thác sử
dụng có hiệu quả kinh tế.
* Mỏ là một bộ
phận của vỏ trái đất, nơi
tập trung tự nhiên các khoáng sản do kết
quả của mộtquá tŕnh địa
chấtnhất định tạo nên.
Tùy theo đặc điểm
và tính chất của mỗi loại khoáng
sản, người ta phân chúng ra làm hai loại:
khoáng sản kim loại và khoáng sản phi kim
loại; mỗi loại lại được phân
thành nhiều nhóm khác nhau tùy theo công dụng.
- Khoáng sản kim loại bao
gồm tất cả các kim loại được
biết hiện nay, những kim loại thường
gặp như nhôm, sắt, mangan, magnesium, crom... và
các kim loại hiếm như đồng, ch́,
kẻm, thiếc, tungsten, vàng, bạc, bạch kim,
uranium, thủy ngân, molypden...
- Khoáng sản phi kim loại như
chlorua natri, carbonat calci, silic, thạch cao, nước
biển, nước ngầm...
Trong những chỉ số
về phát triển kinh tế xă hội ở
mỗi quốc gia , người ta thường
quan tâm đến ba chỉ số: tăng trưởng
dân số, tăng trưởng sản xuất công
nghiệp và tăng tổng sản lượng thu
hoạch; v́ sự gia tăng các chỉ số này
luôn gắn liền với nhu cầu ngày càng cao
về năng lượng và khoáng sản.
Làm cơ sở cho sự phát
triển công nghiệp hiện nay bao gồm
một số kim loại chủ yếu như
sắt, đồng, nhôm, ch́, kẻm...Ở
nhiều quốc gia có nền công nghiệp phát
triển th́ nhu cầu về các kim loại
nầy chiếm tỉ lệ 80% - 90% tổng lượng
kim loại sử dụng trên thế giới. Ngoài
ra nhu cầu về khoáng sản phi kim loại cũng
tăng lên, chủ yếu được sử
dụng để làm phân bón, sử dụng trong
xây dựng và dùng làm nguyên liệu cho một
số ngành công ngiệp.
Sau đây chỉ đề
cập đến một số khoáng sản kim
loại chủ yếu được khai thác
sử dụng:
a. Quặng sắt
Đây là loại khoáng sản thường
gặp và khá phổ biến trong vỏ trái đất,
gồm bốn loại quặng có tầm quan
trọng trong thương mại là: Fe3O4 (magnetit),
Fe2O3 (Hematit), FeO2 (limonit) và FeCO3 (Siderit). Các loại
quặng này có chứa khá nhiều tạp
chất nên tỷ lệ kim loại trong quặng
giảm.
Vùng Siberia (Liên Xô cũ) là vùng
có trử lượng sắt được xem như
lớn nhất thế giới. Công nghiệp
sản xuất thép trên thế giới ngày càng tăng
theo sự phát triển của nền công
nghiệp, năm 1965 sản xuất trên toàn
thế giới là 370 triệu tấn đến năm
1980 sản xuất được gần 1 tỉ
tấn.
b. Quặng đồng
Mặc dù trử lượng
đồng trên thế giới ít hơn nhưng
nhu cầu sử dụng cũng gia tăng. Năm
1965 sản xuất đồng trên toàn thế
giới là 6, 6 triệu tấn và với nhịp
điệu gia tăng hàng năm từ 3, 4% - 5, 8%.
Dự kiến nhu cầu về đồng đến
năm 2.000 khoảng từ 16,8 triệu St đến
mức tối đa là 34, 9 triệu St ( St = Shortton
= 907,2 kg ), như vậy so với năm 1965 ở
mức thấp th́ tăng gấp 2,6 lần.
Vấn đề đặt ra
hiện nay trong công nghiệp đồng là nhu
cầu về đồng càng tăng trong khi đó
phẩm chất của quặng lại giảm nên
giá thành của sản xuất đồng càng ngày
càng tăng lên. V́ thê,ú những công cụ
truyền thống vốn làm bằng đồng
dần dần được thay thế bằng
nhôm hoặc bằng chất dẻo.
c. Quặng nhôm
Nhôm không được
gặp ở trạng thái đơn chất trong
tự nhiên mặc dù nó chiếm đến 8,13%
trọng lượng vỏ trái đất. Bauxit
chứa hydroxyd nhôm là quặng chính thường
được khai thác để lấy nhôm.
Năm 1948 sản xuất nhôm
toàn thế giới chỉ đạt 0, 5 triệu
tấn, đến năm 1968 đă lên tới 8
triệu tấn và nhu cầu về nhôm càng ngày càng
cao hơn rất nhiều. Hiện nay, hai ngành xây
dựng và giao thông vận tải sử dụng
nhôm nhiều nhất. Hơn nữa do tính chất
bền và chắc của hợp kim nhôm nên ngành
kỹ thuật hàng không và hàng không vũ trụ
ngày càng tiêu thụ nhiều nhôm hơn.
Bảng 2. Nhu cầu về
một số kim loại chính được
sử dụng trên toàn thế giới (Mc.Hale)
(đơn vị Triệu St; 1
St = 907, 2 kg)
Năm
Kim lọai
|
1966
|
1980
|
1985
|
1990
|
2.000
( Dự
kiến)
|
Sắt
|
469, 0
|
900, 0
|
1130, 0
|
1400, 0
|
2250, 0
|
Đồng
|
5, 4
|
9, 2
|
10, 0
|
13, 5
|
20, 0
|
Nhôm
|
7, 7
|
32, 0
|
55, 0
|
90, 0
|
250, 0
|
d. Một số khoáng
sản khác
- Quặng
thiếc: trử lượng thiếc rất
hạn chế và tập trung ở một số nước
Đông Nam Á như Thái Lan, Mă Lai,
Indonesia, Trung Quốc và một số quốc gia khác
ở Châu Phi như Nigeria, Congo...Thiếc mềm và
dể dát mỏng nên được sử
dụng để làm thùng và hộp chứa
thực phẩm khô (60%), trong kỹ nghệ hàn
(20%) và một số các công việc khác. Do tính
chất dể bị han gỉ của thiếc nên
ngày nay nhôm và chất dẽo dần dần thay
thế vị trí của thiếc trong việc
sản suất các thùng chứa thực phẩm
- Nikel (kền):
chủ yếu khai thác ở Canada (chiếm 80% toàn
thế giới) ngoài ra c̣n có
ở Liên Xô cũ, Cuba...
- Ch́: ch́ th́
mềm, nóng chảy ở nhiệt độ tương
đối thấp, không bị han gỉ và
nặng hơn cả trong số các
kim loại thông thường. Trong thời gian qua
th́ nhu cầu ch́ ngày càng tăng nhất là Liên Xô
và một số nước ở Châu Á, một
phần do phát triển sản xuất ô tô ở
khu vực nầy.
- Phân bón: Nông
nghiệp ngày càng phát triển nên nhiều nước
sử dụng càng nhiều phân hóa
học để tăng thu hoạch mùa màng. Công
nghiệp phân hóa học càng phát triển, kỹ
thuật chế tạo phân bón không phức
tạp nó đ̣i hỏi số nguyên liệu để
cố định đạm và xử lư phosphat.
Nguyên liệu chủ yếu để sản
xuất phân bón là P205, K20 và N2 dồi dào trong
lớp vỏ quả đất nên giá thành
trở nên hạ.

Nền công nghiệp và nông
nghiệp Việt Nam đang từng bước phát
triển với tốc độ ngày càng tăng
đ̣i hỏi càng nhiều khoáng sản hơn.
a. Các khoáng sản kim
loại chính
- Quặng
sắt: Trử lượng 700 triệu tấn phân
bố rải rác từ Bắc bộ đến
Nam trung bô. Những mỏ đạt
trử lượng công nghiệp không nhiều và
tập trung ở Bắc bộ, trong đó mỏ
Thạch Khê (Nghệ Tỉnh) có trử lượng
ước tính khoảng 500 triệu tấn,
chất lượng quặng tốt . Năm 1979
mới tiến hành khai thác ở mỏ Thái Nguyên
và đă luyện được 100.000 tấn thép,
năm 1980 chỉ khai thác được 60.000
tấn, đến năm 1989 được 75.000
tấn, năm 1995 khai thác khoảng 150.000 - 175.000
tấn.
- Quặng đồng:
Trử lượng ước tính 600.000 tấn,
hầu hết tập trung ở Tây Bắc bộ như
ở Tạ Khoa (Sơn La) và Sinh Quyền ( íLào
Cai ). Hiện nay sự khai thác thủ công với
sản lượng 2.000kg/ năm.
- Quặng nhôm:
Quặng bauxit chứa hydroxyd nhôm có trử lượng
đạt yêu cầu công
nghiệp tập trung ở Đông Bắc bộ và
khu 4 cũ, ở Tây nguyên, Lâm Đồng... ước
tính có 4 tỉ tấn, chất lượng
quặng tốt, hàm lượng quặng từ 40
- 43%. Tuy nhiên, việc khai thác vẫn chưa phát
triển v́ c̣n thiếu năng lượng và cơ
sở hạ tầng. Tương lai ngành khai thác
bauxit để lấy nhôm có nhiều triển
vọng.
- Quặng
thiếc: có trử lượng 70.000 tấn phân
bố ở 3 khu vực: khu vực đông bắc
Bắc bộ (Cao Bằng, Tuyên
Quang); khu vực Bắc trung bộ (Nghệ An, Hà
Tỉnh); khu vực Nam Trung bộ ( Lâm đồng,
Thuận Hải). Hiện khai thác không đều,
dự kiến năm 1995 khai thác được
1.000 tấn.
- Quặng cromit:
trử lượng chung khoảng 10 triệu
tấn phân bố rải rác ở các khu
vực phía Bắc chất lượng quặng không
cao, trử lượng lớn tập trung ở
Thanh Hóa ước tính khoảng 3,2 triệu
tấn, hàm lượng 46%. Việc khai thác
được tiến hành từ lâu song sản lượng
chưa nhiều, hy vọng trong tương lai
gần sẽ đưa sản lượng lên
khoảng 15.000 - 20.000 tấn / năm.
- Các kim loại
khác: vàng, titan, kẻm, nikel, mangan...phân bố
rộng rải nhiều nơi
từ vùng núi đến các bải biển.
Việc khai thác các quặng này c̣n hạn chế
và nhà nước chưa có biện pháp hữu
hiệu để quản lư nguồn tài nguyên này
nên việc khai thác bừa bải làm hao hụt tài
nguyên và c̣n ảnh hưởng xấu đến
môi trường.
b. Phân bón
- Apatit: trử lượng
trên 1 tỉ tấn tập trung ở Cam Đường
(Lào Cai) và Qùy Châu (Nghệ An) trong
đó quặng có chất lượng cao chỉ
khoảng 70 triệu tấn, số c̣n lại kém
chất lượng. Sản lượng khai thác
hiện nay là 1, 5 triệu tấn / năm, từ
đó chế biến khoảng 500.000 tấn phân lân.
Năm 1995 sản xuất được 1
triệu tấn phân lân, số phân này chỉ
đáp ứng 50% nhu cầu trong nước.
- Đá vôi: là
nguồn nguyên liệu đáng kể. Trử lượng
lớn phân bố ở Bắc bộ và
Trung bộ và một số ít ở vùng Kiên Giang.
Đá vôi là nguyên liệu để làm xi măng và
một số ít được dùng để bón
ruộng. Hiện nay, sản xuất xi măng có
thể đáp ứng được cho nhu cầu
trong nước và một số ít được
xuất khẩu.

a. Tương lai của tài
nguyên khoáng sản trên thế giới
Tài nguyên khoáng sản không
phải là vô tận, một số lại rất
hạn chế, nhất là với sự phát
triển của nền công nghiệp hiện đại
th́ sự cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng
sản đang là mối đe dọa đối
với nhiều quốc gia và nói chung là đối
với cả nhân loại.
Theo đánh giá của các nhà
chuyên môn về t́nh h́nh trử lượng
một số loại khoáng sản như sau:
Sắt, nhôm, titan, crom, magnesium, platin...trử lượng
c̣n khá nhiều chưa có nguy cơ cạn
kiệt; Bạc, thủy ngân, đồng, ch́,
kẻm, thiếc, molypden...c̣n ít và đang báo
động; Fluorit, grafit, barit, mica...trử lượng
c̣n ít, đang đứng trước nguy cơ
cạn kiệt.
Tuy nhiên, cũng có những ư
kiến lạc quan hơn, đặt hy vọng vào
sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật trong tương lai và dựa vào nguồn
tài nguyên khoáng sản chưa được khai
thác ở các đại dương bên cạnh
nguồn tài nguyên c̣n lại trên lục địa,
người ta cho rằng:
- Với tiến bộ của
khoa học kỹ thuật th́ tương lai có
thể phát hiện và tạo nên những nguyên
liệu mới đảm bảo cho nhu cầu
của con người.
- Tận dụng khai thác
phần khoáng sản c̣n lại trên lục địa,
khi cần th́ đào sâu hơn và thu nhận
cả những khoáng sản nghèo hơn.
- Sự phát triển của ngành
Hải dương học (oceanography) và ngành địa
chất hải dương (marine geology) hy vọng
rằng sẽ phát hiện được một
kho tàng phong phú và khai thác để sử
dụng.
b. Tương lai của tài
nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Tiềm năng về khoáng
sản kim loại và phi kim loại ở Việt
Nam tương đối lớn, các quặng
mỏ đă dần dần được xác
định và một kế hoạch khai thác tài
nguyên khoáng sản có hiệu quả đang
từng bước được thực
hiện. Tuy nhiên, để thực hiện
được kế hoạch này, có những khó
khăn cần được khắc phục như:
- Lựa chọn giữa
việc mở công trường khai thác khoáng
sản với việc sử dụng đất
với mục đích khác sau cho có hiệu
quả hơn.
- Các hoạt động khai thác
cố tránh hoặc hạn chế thấp nhất
làm thay đổi địa h́nh, gây nên sự
nhiễm bẩn không khí, nước, đất và
ảnh hưởng xấu đến cảnh
quang.
- Tránh mọi tổn thất tài
nguyên trong khâu thăm ḍ khai thác, chế biến
sử dụng.
V́ vậy, để giải
quyết các vấn đề trên, trong thời
gian tới cần đẩy mạnh công tác
kế hoạch thăm ḍ, khai thác và chế
biến sử dụng kết hợp với
việc bảo vệ tài nguyên trong ḷng đất
và môi trường chung quanh, chống ô nhiễm
trong quá tŕnh khai thác, phục hồi các hệ
sinh thái vùng mỏ, giảm bớt sự tổn
thất tài nguyên trong quá tŕnh thăm ḍ, khai thác,
chế biến sử dụng, đây là vấn
đề cần được quan tâm.

II. TÀI NGUYÊN NĂNG
LƯỢNG
Thời cổ xưa, con người
nguyên thủy chỉ dùng sức mạnh của cơ
bắp đề sản sinh ra năng lượng
cho cuộc sống, năng lượng nầy do
thức ăn cung cấp; ở giai đoạn hái
lượm vào khoảng 2.000 kcalo/người /ngày.
Sau khi phát hiện ra lửa và cải biến công
cụ săn bắt các thú lớn th́ năng lượng
mà con người tiêu thụ được
từ thức ăn đă tới 4.000 - 5.000
kcalo/ngày (khoảng 100.000 năm trước công
nguyên), đến cuộc cách mạng nông
nghiệp vào thời đại đồ đá
mới (5.000 năm trước công nguyên) th́ năng
lượng tự nhiên bắt đầu
được khai thác là sức nước và
sức gió, đốt than củi để
lấy nhiệt năng.
Vào đầu thế kỷ
thứ 15 sau công nguyên, năng lượng tiêu
thụ theo đầu người một ngày là
26.000 kcalo. Đến thế kỷ 18 với cuộc
cách mạng công nghiệp ra đời, sự phát
minh ra máy hơi nước đầu tiên đẩy
bằng piston, sau đó là vận động
bằng tourbine; loại năng lượng mới
nầy đă tăng cường gấp bội
khả năng của con người trong sản
xuất và trong lưu thông phân phối. V́ thế
năng lượng tiêu thụ theo đầu người
ở đầu thế kỷ thứ 19 ước
tính khoảng 70.000 kcalo / ngày.
Từ đầu thế
kỷ thứ 19 trở về trước th́ năng
lượng cung cấp do than, củi, rơm,
rạ chiếm 50% trong cơ cấu sử dụng
nhiên liệu của nhân loạivà sau đó
dần dần được thay thế bằng
than đá trong suốt nửa đầu thế
kỷ 20.
Đến khi sự phát minh ra
động cơ đốt trong th́ dầu mỏ
trở thành nguồn nhiên liệu chính thay thế
dần than đá trong công nghiệp. Năng lượng
tính theo đầu người vào năm 1970
ở các nước phát triển là 200.000 kcalo/ ngày.
Từ nay đến năm 2000 nguổn năng lượng
chủ yếu mà con người sử dụng là
dầu mỏ và khí đốt.
a. Sử dụng năng lượng
trên thế giới
* Than đá
Từ thế kỷ 20 trở
về trước, trong hàng ngàn năm, nguồn năng
lượng được con người sử
dụng cho cuộc sống hằng ngày chủ
yếu lấy từ gỗ củi, rơm rạ,
thân lá thực vật. Than đá được
khai thác vào thế kỷ thứ 10 ở Đức
nhưng không được con người ưa
chuộng v́ khó cháy và lại tỏa nhiều khí
độc khi đốt.
Đến thế kỷ 15, ngành
công nghiệp luyện kim ra đời và ngày
một phát triển, nhất là đến đầu
thế kỷ 19 vơí sự ra đời của
các nhà máy nhiệt điện th́ nhu cầu
sử dụng than đá chiếm tỷ trọng
ngày một lớn. Tuy nhiên, cho đến
những năm 60 của thế kỷ 19 th́ lượng
than đá khai thác và sử dụng mới chỉ
chiếm từ 23% - 27 %trong tổng năng lượng
được sử dụng, c̣n khí đốt và
dầu mỏ th́ coi như không đáng kể.
Từ đầu thế
kỷ 20 th́ cơ cấu thành phần nhiên
liệu sử dụng có sự thay đổi
lớn, tỷ lệ dùng than đá, dầu mỏ
và khí đốt tăng cao, theo số liệu
của năm 1965 th́ tỷ lệ đó là 40%,
33,5% và 16,3%. Tuy nhiên, đối với từng khu
vực và từng quốc gia, cơ cấu năng
lượng sử dụng phụ thuộc vào tŕnh
độ phát triển của nền kinh tế -
xă hội của mỗi quốc gia, chẳng
hạn như Ấn Độ vào năm 1965 th́ năng
lượng cung cấp do than đá chiếm 40%
trong khi đó năng lượng cung cấp
từ điện năng, dầu mỏ, khí đốt...
chỉ đạt 7%. Tuy nhiên trong thời gian qua xu
hướng sử dụng năng lượng
từ than đá có sự giảm sút rơ rệt v́
dầu mỏ và khí đốt được khai
thác ngày càng nhiều nên giá thành hạ. Trong
những năm gần đây, một xu hướng
mới lại xuất hiện ở nhiều nước,
trước t́nh h́nh dầu mỏ và khí đốt
có hạn, giá lại tăng nhanh nên người
ta quay trở lại sử dụng than đá đồng
thời cải tiến kỷ thuật đốt
cháy nhanh hơn và giảm được sự ô
nhiểm môi trường do khí độc thoát ra.
Bảng 3. Nhu cầu sử
dụng than đá trên thế giới (Liêm, 1990).
Năm
|
Than đá
(triệu
tấn)
|
Các nhiên
liệu
khác(triệu
tấn)
|
Tổng
cộng (triệu tấn)
|
Tỉ lệ%
than
sử
dụng
|
1900
1940
1950
1960
1972
|
725
1.500
1.550
2.100
2.500
|
50
600
1.150
2.100
5.300
|
775
2.100
2.700
4.200
7.800
|
93,6
71,4
67,4
50,0
32,0
|
Trử lượng than đá
thế giới là 23.000 tỷ tấn trong đó
khoảng 30% tập trung ở Liên Xô (cũ), Hoa
Kỳ và Trung Quốc. Các nước có trử lượng
than đá lớn hơn 20 tỉ tấn là: Liên Xô
(4.122 tỉ tấn), Hoa Kỳ (1.100 tỉ tấn),
Trung Quốc (1.011 tỉ tấn), Tây Đức (70
tỉ tấn), Canada (61 tỉ tấn), Ba Lan (46
tỉ tấn), Nam Phi (26 tỉ tấn), Nhật
Bản (20 tỉ tấn). Theo nhịp độ
khai thác hiện nay th́ việc khai thác thác than
đá có thể tiến hành chừng 250 năm
nữa.

H́nh 1. Công trường
khai thác than đá (Miller, 1988)
* Dầu mỏ
Từ nay đến năm
2000, năng lượng chủ yếu khai thác và
sử dụng cho nhu cầu công nghiệp là
dầu mỏ và khí đốt. Riêng dầu
mỏ, trử lượng tính cho toàn cầu
(trừ Liên Xô và các nước XHCN) là 65,3
tỉ tấn trên các lục địa và đến
năm 1978 trử lượng nầy tăng lên
74,9 tỉ tấn do quá tŕnh thăm ḍ khai thác
ở biển và thềm lục địa. Không
kể phần Liên Xô, th́ khoảng 65% dự
trử dầu mỏ tập trung ở các nước
thuộc khối Ả Rập.
Từ nửa sau thế kỷ
nầy th́ nhu cầu về dầu mỏ ngày càng
tăng và lượng dầu khai thác cũng tăng
lên gấp đôi; theo ước tính với
nhịp độ khai thác hiện nay th́ trử lượng
dầu sẽ cạn trong ṿng 30 -35 năm nữa.
Bảng 4: Sản lượng
dầu thô khai thác được trên thế
giới từ năm 1900
Năm
|
Sản lượng
|
Năm
|
Sản lượng
|
1900
1920
1930
1945
1950
1955
1960
|
19,9
96,9
196,5
354,6
524,8
770,1
1051,5
|
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1994
|
1503,5
2336,2
2709,1
3624,0
3700,0
3003,4
2982,5
|
Có mâu thuẫn là khu vực
sản xuất dầu nhiều nhất lại là
nơi không tiêu thụ nhiều dầu, nên
phần lớn dầu khai thác được
xuất sang các nước tư bản phát
triển. Theo số liệu năm 1974 th́ Tây Âu
nhập 733,8 triệu tấn, Hoa Kỳ nhập
315,4 triệu tấn, Nhật nhập 268,1 triệu
tấn.
Liên Xô là nước có
nhịp độ khai thác dầu mỏ tăng
nhanh và vượt xa Hoa Kỳ, theo số liệu
th́ trước đại chiến thế
giới lần hai kết thúc th́ 60% lượng
dầu xuất khẩu trên toàn thế giới là
của Hoa Kỳ, đến năm 1970 tỉ
lệ nầy giảm xuống c̣n 22,3%, đến
năm 1977 th́ lượng dầu mà Hoa Kỳ
sản xuất được chỉ đủ
cung ứng 70 - 75% nhu cầu tiêu thụ trong nước
nên phải nhập khẩu từ các nước
Châu Phi và Trung Đông. C̣n Liên Xô, trước đại
chiến thứ hai th́ lượng dầu khai thác
chỉ bằng 17% so với Hoa Kỳ, đến năm
1973 con số nầy là 83% và từ năm 1975 Liên
Xô đứng đầu thế giới về lượng
dầu khai thác hằng năm.
* Khí đốt thiên nhiên
Trong nửa sau thế kỷ
20, khí đốt là nguồn cung cấp quan
trọng sau dầu mỏ. Trử lượng khí
đốt ở độ sâu hiện đang khai
thác (3.000 m) là 72,9 ngàn tỉ m3 trong đó có 20%
nằm ở đại dương. Nếu tính
ở độ sâu 5000 mét th́ trử lượng
khí đốt là 86 ngàn tỉ m3. Mức độ
khai thác khí đốt cũng khác nhau tùy theo khu
vực và từng nước là do nhu cầu
thực tiển của sự phát triển kinh
tế - xă hội của mỗi nước.
Nhu cầu về khí đốt
1980 là 1.700 tỉ m3 trong đó các nước tư
bản 1.030 tỉ m3 (riêng Hoa Kỳ 680 tỉ m3).
Do nhu cầu sử dụng càng tăng nên trử
lượng ngày thu hẹp dần, năm 1972 ước
tính c̣n 9,6 ngàn tỉ m3, đến năm 1976
chỉ c̣n 5,9 ngàn tỉ m3.
* Điện năng
Công nghiệp điện ra
đời vào cuối thế kỷ 19 và phát
triển rất nhanh chóng. Công nghiệp điện
hiện nay bao gồm hai lĩnh vực chính là
nhiệt điện và thủy điện. Cho
đến nay, điện năng được
sử dụng trên thế giới là do các nhà máy
nhiệt điện sản xuất là chính, c̣n
thủy điện cung cấp chỉ là 1 phần
nhỏ chiếm tỉ lệ từ 3,5% - 5%.
Nhu cầu về điện năng
càng ngày càng cao, trung b́nh trên thế giới th́ b́nh
quân mỗi đầu người là 1.600 kwh/năm,
ước tính đến năm 2000 sẽ là 4.600
kwh / năm.
Theo bảng dưới đây,
nếu tính trung b́nh 10 năm th́ sản lượng
điện tăng lên gấp đôi và nếu so
sánh và mức tiêu thụ năng lượng
điện từ nửa đầu thế kỷ
20 nầy bằng tổng năng lượng điện
tiêu thụ của toàn bộ nhân loại trước
đó.
Bảng 5: Sản lượng
điện được sản suất trên toàn
thế giới
Năm
|
Sản lượng
(Tỉ kwh)
|
1900
1920
1950
1960
1970
|
15
130
957
2.295
5.000
|
Liên Xô có nền công
nghiệp điện phát triển rất nhanh. Năm
1913 chỉ đạt sản lượng 1,3
tỉ kwh, năm 1935 đạt 26,288 tỉ kwh
đứng hàng thứ tư sau Hoa Kỳ, Đức
và Anh. Tiềm năng thủy điện của
Liên Xô c̣n rất lớn trong khi đó nhiều nước
khác đă sử dụng hầu hết tiềm năng
của họ như Na-uy (99,7%), Thụy Điển và
Thụy Sĩ (90%), Ư và Pháp (50%)...

H́nh 2. Trạm
nhiệt điện
* Điện nguyên tử
Trong t́nh h́nh các nguồn năng
lượng sơ cấp truyền thống
cạn dần th́ nền công nghiệp điện
nguyên tử ra đời. Liên Xô là nước
đầu tiên xây dựng thành công nhà máy điện
nguyên tử (1954) với công suất 5.000 kwh, sau
đó là Anh (1956), Hoa Kỳ (1957), Pháp (1959) và
một số quốc gia khác như Ấn độ,
Pakistan...
Sau 20 năm kể từ khi nhà
máy điện nguyên tử đầu tiên ra đời,
năm 1974 tổng công suất của các nhà máy
điện nguyên tử trên thế giới đă
đạt tới 55 triệu kwh và hiện nay các
nước có nền công nghiệp điện
nguyên tử phát triển mạnh là Hoa Kỳ và
Nhật Bản và sau đó là Tây Đức, Anh , Pháp.

H́nh 3. Nhà máy điện
nguyên tử ở California (Chiras, 1991)
Nguyên liệu
sử dụng cho nhà máy điện nguyên tử là
Uranium. Năng lượng nguyên tử có nhiều
điểm ưu việt nên nó sẽ
thay thế dần các
nguồn năng lượng cổ điển vào
thế kỷ 21.
Một kg Uranium - 235 bị phân
rả hoàn toàn phát ra một năng lượng là
23 triệu kwh tương đương với
2.600 tấn than đá. V́ thế nên nhà máy điện
nguyên tử chiếm diện tích nhỏ, máy móc
gọn nhẹ, tiêu thụ điện của
bản thân nhà máy cũng ít, tránh được
việc làm nhiễm bẩn môi trường như
các nhà máy nhiệt điện. Nhưng ở
đây có một vấn đề phải
được đặc biệt quan tâm và
phải giải quyết tốt là xử lư
chất thải phóng xạ.
b. Tài nguyên năng lượng
ở Việt Nam
* Than đá
Trử lượng được
xác định là từ 3 đến 3,5 tỉ
tấn, chủ yếu tập trung ở vùng
Quảng Ninh, ngoài ra c̣n có ở 1 số nơi khác
trử lượng ít. Than ở vùng Quảng Ninh
là than đen có chất lượng tốt c̣n các
nơi khác là than nâu có chất lượng
xấu hơn. Hầu hết than được
khai thác từ các mỏ lộ thiên.
T́nh h́nh khai thác than đá
ở Việt Nam từ năm 1955 đến 1995
được biết theo bảng 7 và hiện nay
sản lượng khai thác ngày càng nhiều hơn
đáp ứng nhu cầu trong nước mà c̣n
xuất khẩu sang các nước khác.
* Dầu mỏ
T́m kiếm và thăm ḍ
dầu mỏ đă thực hiện từ lâu
trong thời kỳ chiến tranh ở cả 2
miền Nam và Bắc; trong những năm đầu
của thập niên 1960 - 1970 đă t́m thấy
dầu và khí ở vùng châu thổ Sông Hồng
song chưa xác định được dầu
thương mại, c̣n ở miền Nam việc
thăm ḍ chủ yếu ở thềm lục
địa vào những năm cuối của
thập niên 60, kết quả là phát hiện
được 3 bồn trầm tich có khả năng
có dầu khí quan trọng là: bồn Cửu Long,
bồn Sài G̣n - Brunây và bồn vịnh Thái Lan; tháng
8 - 1973 chính quyền Sài g̣n đă tổ chức
đấu thầu và đă có 4 tổ hợp các
công ty nước ngoài trúng thầu và bắt
đầu tiến hành thăm ḍ tiềm kiếm
vào năm 1974 đến tháng 4 - 1975 phải
bỏ dở v́ miền Nam hoàn toàn được
giải phóng.
Bảng 7. Sản lượng
than đă khai thác ở Việt Nam từ 1955
Năm
|
Sản
|
lượng (đơnvị
1.000
|
tấn)
|
1955
1960
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
1998
|
Than khai thác
641, 5
2.774, 6
4.890,1
2.776, 0
5.574,2
5.572, 1
6.294,9
5.197, 8
9.369, 0
|
Than sạch
429, 9
2.575, 2
4.298, 1
2.604, 0
5.061, 9
4.988, 2
5.326, 7
4.218, 5
8.155, 5
|
Than xuất khẩu
65, 9
1.356, 3
2.103, 0
364, 9
1.219, 4
689, 5
604, 4
676, 5
2.728, 0
3.600,0
|
Sau đó đến tháng 12
-1983 chính phủ ta mới bắt đầu thăm
ḍ t́m kiếm trở lại và đă phát
hiện được dầu ở tầng Miocene
hạ (5/ 1984) rồi ở tầng Oligocene (2 /
1986). Tấn dầu được khai thác đầu
tiên ở mỏ Bạch Hổ (6/1986), tháng 9/1988
bắt đầu khai thác chính thức.
Bảng 8. Sản lượng
dầu khai thác được ở Việt Nam
Năm khai thác
|
Khối lượng
(triệu tấn)
|
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1995
1999
Dự kiến đến
năm 2000
|
0, 04
0, 28
0, 68
1, 49
2, 70
3, 95
5, 50
6, 30
7, 70
12, 00
15 - 20
|
Khối lượng dầu
đă được khai tác trên đây từ 3
mỏ lớn là Bạch Hổ, Rồng và Đại
Hùng với 133 giếng khai thác và 247 giếng thăm
ḍ. Ngoài ra một đường ống dẩn
khí dài trên 100 km từ mỏ Bạch Hổ đă
được dẩn vào đất liền đến
Bà Rịa từ ngày 1 -5 -1995 đă cung cấp 1
triệu m3/ngày đêm và dự kiến đến
năm 2000 cung cấp từ 3 - 4 triệu m3/ ngày
đêm. Ngày 15 - 12 - 2000 bắt đầu xây
dựng đường ống dẩn khí đốt
dài khoảng 300 km từ mỏ Lan Tây và Lan Đỏ
vào bờ.
Ngoài liên doanh dầu khí
Việt Xô, hiện có hơn 10 công ty nước
ngoài cũng đang t́m kiếm và thăm ḍ
dầu khí ở các thềm lục địa phía
Nam và phía Bắc.

Do tính hạn hữu của
nguồn năng lượng cổ điển
truyền thống, nên việc t́m kiếm các
nguồn năng lượng mới để có
thể khai thác và sử dụng rộng rải
trở nên cấp bách. Hiện nay, sự nghiên
cứu, thăm ḍ tập trung chủ yếu vào ba
lănh vực: bức xạ mặt trời, địa
nhiệt và năng lượng hạch nhân.
a. Năng lượng
mặt trời
Mặt trời có đường
kính chừng 1, 4 triệu km và cách xa trái đất
150 triệu km. Nguồn gốc của năng lượng
mặt trời là do những phản ứng
nhiệt hạch xảy ra liên tiếp bên trong ḷng
mặt trời ở nhiệt độ rất cao
(15 - 20 triệu độ C), các phản ứng này
phát ra năng lượng dưới các dạng
bức xạ nhiệt, quang và các hạt mang điện...Năng
lượng mặt trời mà trái đất
nhận được là rất nhỏ, ước
chừng 5 x 1024 J / năm (tương
đương vớí 115.000 tỉ tấn than
đá và gấp 10 lần toàn bộ trử lượng
than đá, dầu mỏ, khí đốt trong ḷng
đất). Ưu thế của năng lượng
này là vô tận, không đổi dạng và trong
sạch nhưng nhược điểm là sự
biến thiên của năng lượng nầy
theo ngày và mùa, theo khí hậu và theo vị trí
của trái đất đối với mặt
trời; nên vấn đề được đặt
ra là cần phải suy tính để sử
dụng kinh tế nhất.
Người ta chia nguồn năng
lượng của mặt trời ra làm hai
dạng là năng lượng trực tiếp và
năng lượng gián tiếp:
* Năng lượng
trực tiếp
Là ḍng năng lượng
chiếu sáng trực tiếp và khuếch tán. Năng
lượng này có thể sử dụng để
sản xuất ra nhiệt hay một loại năng
lượng thứ cấp như điện, nhiên
liệu tổng hợp...Về kỹ thuật
sử dụng năng lượng mặt trời
được biết như sau:
- Cần sức nóng ở
nhiệt độ thấp (<100oC): kỷ
thuật sử dụng năng lượng ánh sáng
mặt trời bằng hệ thống bản
phẳng hứng bức xạ (capteurplans) gọi là
giàn thu nhiệt. Hiện nay đă được
sử dụng rộng rải để sưởi
ấm và làm cho nước nóng.
- Cần sức nóng ở
nhiệt độ cao (>100oC): th́ phải có
kỷ thuật hội tụ bức xạ gọi
là Ḷ mặt trời (pour solaire) chẳng hạn như
ḷ mặt trời Odeillo ở miền Tây Nam nước
Pháp có thể đạt tới nhiệt độ
3.800oC. Với nhiệt độ cao như vậy
nên cần thiết cho một số ngành công
nghiệp như ngành chế tạo vật
liệu xây dựng hoặc được
chuyển đổi thành cơ năng hay điện
năng.
- Một ứng dụng quan
trọng nữa của dạng năng lượng
trực tiếp là sự chuyển đổi quang
điện nhờ những tế bào quang điện,
hiện nay được sử dụng phổ
biến trong các thiết bị vũ trụ.
* Năng lượng gián
tiếp
Năng lượng gián
tiếp của bức xạ mặt trời là gió,
sóng biển, thủy triều và chuyển đổi
năng lượng sinh học (bioconversion).
- Năng lượng
gió: Người Ai Cập đă biết sử
dụng cối xay gió trong nông nghiệp
từ 3.000 năm trước Công nguyên. Sau này
nhờ cải tiến kỷ thuật nên chế
tạo được cối xay gió nhiều cánh
và có khả năng hoạt động ngay cả
khi tốc độ gió chỉ chừng 2, 5 - 3 m /
giây. Trước khi có máy hơi nước ra
đời th́ năng lượng gió đă
được sử dụng rộng rải
nhiều nơi.

H́nh 4. Cối xay gió
(Chiras, 1991)

H́nh 5. Cối xay gió
hiện nay ở ven bờ biển California (Chiras,
1991)
- Năng
lượng sóng biển. Năng lượng sóng
biển bắt nguồn từ gió. Giá trị năng
lượng do sóng biển tạo nên trên cả hành
tinh ước chừng 2, 7.1012 kw (tương
đương với 85.1018 J) rất nhỏ so
với năng lượng mặt trời. Mục
tiêu khai thác ở đây là t́m một biện pháp
có hiệu quả để chuyển đổi
một phần năng lượng trong vận
động của sóng biển thành cơ năng,
điện năng. Điều kiện địa lư
và kinh tế phải được tính toán
thận trọng khi khai thác nguồn năng lượng
này.
- Năng lượng
thủy triều. Thủy triều là do sức hút
của mặt trăng và mặt trời kết
hợp lại. Toàn bộ công suất thủy
triều trên hành tinh khoảng 8.1012 kw (gấp 100
lần công suất của các nhà máy thủy
điện của toàn thế giới cộng
lại. Con người sử dụng năng lượng
thủy triều không nhiều.
- Năng lượng
do chuyển đổi sinh học. Đây là dạng
năng lượng gián tiếp được
khai thác tương đối có hiệu quả là
sự chuyển đổi khí sinh học từ các
chất thải Động vật và Thực
vật. Lợi ích của sự chuyển đổi
nầy có nhiều mặt: giảm sử dụng
trực tiếp gổ củi, giảm tàn phá
rừng, đảm bảo vệ sinh môi trường,
phế liệu c̣n lại sau quá tŕnh chuyển
đổi dùng làm phân bón hữu cơ có
chất lượng tốt.
b. Năng lượng địa
nhiệt
Được sử dụng
sớm nhất ở Ư từ đầu thế
kỷ này, nhưng măi cho đến nay mơí
được chú ư do triển vọng của nó
trong tương lai. Mọi người trong chúng
ta đều biết khi sâu xuống mặt đất
từ 30 m - 40 m th́ nhiệt độ tăng lên
10C, như vậy sâu từ 30 km - 40 km nhiệt
độ sẽ đạt tơí 100oC; ở
những miền gần núi lửa th́ có thể
đạt tới 100oC ở mức cạn hơn
nhiều. Trên thế giới, các vành đai địa
nhiệt được xác định rơ là
nhờ vào các hoạt động động
đất liên tục và lịch sử phún
xuất của núi lửa trong lịch sử
từ xa xưa, vành đai địa nhiệt bao
phủ chừng 10% diện tích của trái đất
và sức nóng mà các vành đai này tạo ra
phần lớn do sự phân rả dần
những yếu tố phóng xạ tự nhiên có
trong các lớp đá.
Tài nguyên địa nhiệt
gồm có bốn dạng cơ bản:
- Dạng
thủy nhiệt. Gặp trong các lớp đá có
các lổ và kẻ thông nhau và chứa
đầy nước, sự vận động
của nước trong các đá này tải năng
lượng nhiệt từ lớp đá mẹ dưới
sâu từ nơi này đến nơi khác và có
thể theo các kẻ nứt chảy tràn trên
mặt đất.
- Dạng
thủy nhiệt mà thành phần khí là chủ
yếu. Ít gặp hơn dạng thủy nhiệt
trên. Tuy nhiên, một vài quốc gia đă khai thác
và sử dụng loại năng lượng này
như nhà máy địa nhiệt Larderello ở Ư,
nhà máy Geyser ở California, nhà máy Matsukawa ở
Nhật Bản...
- Dạng
thạch nhiệt. Đá bị đun nóng ở
thể rắn hoặc thể nóng chảy,
loại này nằm rất sâu trong
ḷng đất. Hướng nghiên cứu là
đưa nước lạnh tới các miền sâu
này rồi khai thác nước nóng bằng các
hệ thống giếng song song.
- Dạng địa
áp nhiệt. Nằm sâu trong ḷng đất, nước
bị kẹp giữa các lớp sét,
khi bị nén chặt nước đi vào các
lớp đá kết (gres) kế cận với
nhiệt độ cao trên vài trăm độ C.
Trong nước nóng có khí methane ḥa tan, có khi
bảo ḥa làm thành một nguồn hydrocarbur quan
trọng. Hiện nay, chưa có một kỷ
thuật nào khai thác được nguồn tài
nguyên này.
c. Năng lượng
nhiệt hạch
Đă được nghiên
cứu để khai thác chừng 30 năm qua và
thành tựu thu được ngày càng sâu
rộng hơn. Năng lượng nhiệt
hạch được tạo ra từ những
phản ứng hạt nhân được thực
hiện giữa những nguyên tố nhẹ dùng làm
nguyên liệu như các đồng vị của
Hydrogen, Helium, Lithium, Bor...Hiện nay, việc sử
dụng hai đồng vị phóng xạ của
Hydrogen là Deuterium (D) và Tritium (T) đ̣i hỏi
những điều kiện mà có khả năng
thực hiện được. Nguyên liệu
được nung nóng ở nhiệt độ
rất cao (20 triệu độ C) sẽ bốc hơi
tạo nên một trạng thái ion hóa cực
mạnh (plasma) để xảy ra lượng
nhiệt hạch. Trong ḷ phản ứng nhiệt
hạch (hay trong bom H) xảy ra sự kết
hợp hạt nhân giữa D2 (1proton và 1 neutron)
với nhân T3 (có 1 proton và 2 neutron) sinh ra nhân helium
(có 2 proton và 2 neutron) và phóng xạ 1 neutron, đồng
thời giải phóng một năng lượng
rất lớn bằng mấy chục tấn
thuốc nổ. Trong ḷ phản ứng nguyên
tử (hay trong bom nguyên tử) năng lượng
được giải phóng là do phản ứng
phân hạch phá vỡ các hạt nhân nặng
của Uranium 235.
Deuterium khá phổ biến trong
tự nhiên được lấy từ nước
có trử lượng 46.1012 tấn. Tritium là
chất phóng xạ nhân tạo từ Lithium, trong ḷ
phản ứng nhiệt hạch chất đồng
vị Li6 sẽ biến thành Tritium do hấp thu thêm
các neutron nhanh:
3 Li6 + o n1
---------> 2 He+ + T3 + Q
Lithium cũng có nhiều,
nếu không kể phần ḥa tan trong nước
th́ có chừng 106 tấn, nếu khai thác phần
ḥa tan trong nước biển th́ trử lượng
gần như vô tận là 184.109 tấn.
Việc khai thác và sử dụng nguồn năng
lượng này rất khó khăn v́ một
vấn đề được đặt ra là làm
sao khống chế được nguồn năng
lượng khổng lồ tạo ra được
trong ḷ phản ứng nhiệt hạch và nhà máy
điện nhiệt hạch để nguồn năng
lượng nầy phát ra từ từ và điều
khiển được nó để sử
dụng, chứ không th́ sẽ nổ ra trong
khoảnh khắc như quả bom. Người ta
hy vọng rằng việc khống chế và điều
khiển nguồn năng lượng nhiệt
hạch này có triển vọng thực hiện
được trong tương lai.
|