Khi
hốt một nắm đất trong tay và quan sát,
ta có cảm giác đáng chú ư là nắm đất
mà ta cầm trong tay là một hổn hợp
phức tạp bao gồm các hợp chất vô cơ,
các mảnh vụn hữu cơ đă và đang
bị phân ră, nước, không khí và vô số các
vi sinh vật đang sinh sống ở trong đó.
Lớp đất mà các sinh vật đang sinh
sống trên đó hoặc trong đó thường
mỏng và sắp xếp thành tầng dày từ 1
- 2 mét, đó là nơi cung cấp nguồn
chất dinh dưỡng cho cây, cho các sinh vật
trong đất; trực tiếp hoặc gián
tiếp cung cấp nguồn thực phẩm,
gỗ, sợi và nhiều loại nguyên vật
liệu khác... đảm bảo cho sự tồn
tại của con người.
Đất
có vai tṛ quan trọng như vậy và nguồn tài
nguyên nầy càng ngày càng bị con người
lạm dụng, thực tế đă cho thấy
đất càng ngày càng trở nên cạn kiệt
và suy thoái. V́ vậy để bảo đảm
cho sự tồn tại của con người và
của các sinh vật khác th́ không chỉ có
những người nông dân mà mỗi chúng ta
đều phải có trách nhiệm bảo vệ
và sử dụng hợp lư nguồn tài nguyên
nầy.
I.
ĐẤT ĐAI: SỰ THÀNH LẬP, THÀNH PHẦN VÀ TÍNH
CHẤT
a.
Các yếu tố h́nh thành đất
Đất
là vật thể tự nhiên được h́nh
thành lâu đời từ khi có sự sống
xuất hiện trên quả đất, là kết
quả của một quá tŕnh hoạt động
tổng hợp của 5 yếu tố gồm:
mẫu thạch, sinh vật, khí hậu, địa
h́nh và thời gian; đây là một định
nghĩa đầu tiên và khá hoàn chỉnh về
đất. Sau này nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng, cần bổ sung thêm vào một yếu
tố khác nữa đó là con người; chính
con người khi tác động vào đất làm
thay đổi khá nhiều tính chất vật lư,
hóa học và sinh học của đất tự
nhiên và từ đó đă h́nh thành nên những
loại đất mới không thể t́m thấy
được trong tự nhiên.
· Mẫu
thạch. Đây là yếu tố quyết định
thành phần cấu tạo và tính chất của
từng loại đất. Chẳng
hạn như Sa thạch chứa nhiều silic th́
tạo nên đất chứa nhiều cát; đá
vôi khi tạo thành đất th́ đất
chứa nhiều ion Ca++, đá chứa nhiều
kali th́ đất được tạo ra cũng
chứa nhiều ion K+....
· Sinh
vật. Đây là yếu tố chủ đạo
trong sự thành lập đất. Các vi sinh
vật phân giải các chất
hữu cơ biến chúng thành những chất
khoáng dinh dưỡng cho rể cây hấp thụ.
Trong quá tŕnh phân giải, vi sinh vật một
mặt lấy thức ăn để tổng
hợp nên chất hữu cơ cho cơ thể ḿnh,
mặt khác tổng hợp nên một loại
chất hữu cơ đặc biệt trong đất
được gọi là mùn, rồi mùn lại
tiếp tục bị khoáng hóa tạo nên chất
dinh dưỡng cho cây. Chất dinh dưỡng
được thực vật hấp thu để
sinh trưởng và phát triển. Trong quá tŕnh
sống, nhờ khả năng quang hợp mà
thực vật xanh tạo ra một khối lượng
lớn chất hữu cơ và khi thực vật
chết đi th́ chất hữu cơ được
trả lại cho đất. Các vi sinh vật
đất phân hủy các chất hữu cơ; các
nguyên sinh động vật, côn trùng, giun đất...
chúng ăn các chất hữu cơ và qua quá tŕnh
tiêu hóa, những chất hữu cơ không tiêu hóa
được thải ra ngoài theo phân và rồi
lại được các vi sinh vật tiếp
tục phân giải và cuối cùng h́nh thành các
hợp chất dinh dưỡng cung cấp lại
cho thực vật. (theo Russell, trong một ha đất
tốt có bón phân th́ số lượng giun đất
có thể đạt đến 2, 5 triệu con. C̣n
theo Darwin, khối lượng đất đi qua
cơ thể giun đất trong một năm
đạt đến 34 tấn/ha và phân của chúng
được đưa lên mặt đất, làm
cho đất tơi xốp và mầu mỡ hơn,
người ta có thể coi chúng là lưỡi cày
sinh học).
· Khí
hậu. Khí hậu có ảnh hưởng trực
tiếp đến đất thông qua chế độ
nước và nhiệt độ
của nó, ảnh hưởng gián tiếp đến
đất thông qua các loài sinh vật sống trên
đó. Sinh vật và khí hậu gắn với nhau
một cách chặt chẻ đến mức người
ta gọi chúng là điều kiện sinh khí
hậu của đất. Nước và nhiệt
độ có ảnh hưởng đến quá tŕnh
phong hóa của mẫu thạch, đến sự
ḥa tan, rửa trôi, trầm tích, tổng hợp và
phân giải các chất hữu cơ trong đất...
Ở mỗi vùng có điều kiện khí
hậu khác nhau và có lớp mẫu thạch khác
nhau th́ h́nh thành nên những loại đất khác
nhau.
· Địa
h́nh. Địa h́nh có ảnh hưởng rất
lớn đối với sự phân bố
nguồn năng lượng mặt
trời làm cho nhiệt độ và độ
ẩm của khí hậu ở các vùng khác nhau và
dẫn đến sự phân bố của các
quần xă sinh vật khác nhau. Điạ h́nh ảnh
hưởng đến tuổi tương đối
của đất.
· Yếu
tố thời gian. Mẫu thạch muốn h́nh thành
đất phải trăi qua một thời gian lâu
dài, thời gian từ khi bắt đầu h́nh thành
đất cho đến nay được gọi
là tuổi tuyệt đối của đất.
Người ta dựa trên chu kỳ bán ră của
Carbon phóng xạ (C14) để định
tuổi của đất. Chu kỳ bán ră của
C14 là 5.700 năm. Khi thực vật c̣n sống th́
tỉ lệ C12 : C14 trong cơ thể không đổi,
nhưng khi thực vật chết đi th́ cơ
thể ngưng hấp thụ C12, c̣n C14 th́
lại bắt đầu phân ră. Phân tích tỉ
lệ C12 : C14 trong đất và dựa trên chu
kỳ bán ră của C14 để suy ra tuổi
của đất. Năm 1958, Devries đă dùng phương
pháp này và xác định tuổi của đất
hoàng thổ ở Úc Châu có tuổi từ 32 - 42
ngàn năm.
· Con
người. Khi chưa nắm được các
quy luật của tự nhiên, hoạt động
sản xuất của con người
hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên; các
hoạt động vô ư thức này nhiều khi
đă đem lại những tai họa không
nhỏ. Ngược lại, khi nắm được
các quy luật của tự nhiên, con người
đă chủ động trong việc sử
dụng đất đai, khống chế
được những mặt xấu, phát huy
những mặt tốt, bắt thiên nhiên phải
phục vụ cho những mục đích của ḿnh.
Thí dụ như con người đă biết làm
ruộng bậc thang để chống xói ṃn do nước,
biết tưới nước cho đất khô,
biết tháo nước khi đất úng, biết
rửa mặn cho đất mặn và biết bón
phân và bón vôi cho đất bạc màu... Con người
đă làm cho đất thay đổi về thành
phần và tính chất của đất, dần
dần khác xa đất tự nhiên, h́nh thành nên
những loại đất mới mà tự nhiên
không có. Chẳng hạn như đất
trồng lúa nước hiện nay có thành
phần và tính chất khác hẳn với đất
tự nhiên lúc ban đầu.
b.
Sự phong hóa và quá tŕnh h́nh thành đất
* Sự
phong hóa
Dưới
tác động của các nhân tố vật lư, hoá
học và sinh học trong môi trường làm cho
trạng thái vật lư và hóa học của đá
và khoáng chất trên bề mặt của quả
đất bị biến đổi dần và
trở thành vụn nát. Quá tŕnh biến đổi
đó được gọi là quá tŕnh phong hóa.
· Phong
hóa lư học. Tác dụng của phong hóa lư
học diễn ra chủ yếu nhất là
do sự thay đổi nhiệt độ. Khi
nhiệt độ của môi trường tăng
lên cao th́ các khoáng trong đá bị đun nóng lên
và trương nở ra. Ngược laị, khi
nhiệt độ của môi trường hạ
xuống th́ các khoáng trong đá bị co rút
lại. Thí dụ như ở Sa mạc ban ngày
nhiệt độ có thể lên đến 50oC-
60oC c̣n ban đêm nhiệt độ có thể
hạ đến dưới 0oC, chính sự thay
đổi đột ngột của nhiệt
độ là nguyên nhân gây nên sự vở
vụn mẫu thạch. Mặt khác, mỗi
loại khoáng có hệ số co giản khác nhau
(thạch anh: 0, 00031; calcit: 0, 0002 ; mica: 0, 00035 ),
sự co giản nội bộ của các khoáng bên
trong mẫu thạch xảy ra không đều càng
làm tăng thêm sự rạn nứt mẫu
thạch. Ngoài ra, khi nước xâm nhập vào các
khe nứt và len lỏi tới những khe nứt
nhỏ sẽ sinh ra áp suất mao dẫn làm
chỗ nứt càng rộng hơn hoặc khi nước
trong các khe nứt bị đóng băng th́
thể tích tăng lên, tác động lên thành
của khe nứt làm khe nứt rộng ra và đá
càng mau bị phá hủy hơn. Tốc độ
phong hóa vật lư phụ thuộc vào tính chất
của đá: đá có cấu tạo bởi
nhiều loại khoáng bị phong hóa nhanh hơn
đá có một loại khoáng; đá có ít lổ
hổng bị phong hóa chậm hơn có nhiều
lỗ hổng. Ngoài yếu tố nhiệt độ,
sự phong hóa lư học c̣n được sinh ra
bởi sự di chuyển của gió, nước,
băng hà và các hoạt động của sinh
vật kể cả con người.
· Phong
hóa hóa học. Tác dụng phong hóa hóa học
thực hiện bởi nước, 02 và
C02 được thể hiện dưới 4
dạng: oxid hóa, hydrat - hóa, ḥa tan và hóa sét... làm
thay đổi thành phần của các khoáng trong
đá:
- Oxid
hóa. Trong nhiều loại khoáng h́nh thành đá có
nhiều loại ion hóa trị
thấp như Fe và Mn, những ion này bị oxid hóa
thành dạng hóa trị cao hơn làm khoáng ban
đầu bị phá hủy và biến đổi.
Thí dụ: khoáng pyrit (FeS2 )
2
Fe S2 + 7 O2 + 2 H2O --------->
2 Fe SO4 + 2 H2 SO4
12
Fe SO4 + 3 O2 + 6 H2O --------->
4 Fe2 (SO4) + 4 Fe (OH)3
2
Fe2 (SO3) + 9 H2O ---------> 2
Fe2 O3. 3 H2O + 6 H2 SO4
- Hydrat
hóa. Nước là một phân tử phân cực nên
khi những khoáng có các cation
hoặc ion c̣n có hóa trị tự do hay những
cation liên kết trên bề mặt, chúng sẽ liên
kết lại làm cho khoáng ngậm nước. Thí
dụ: Hematit bị hydrat hóa thành limonit.
2
Fe2O3 + 3 H2O ------> 2Fe2O3.
3H2O
- Ḥa
tan. Nước là dung môi ḥa tan hầu hết các
khoáng. Tác dụng ḥa tan tăng khi
trong nước chứa khí CO2. Thí dụ: Các
Carbonat biến thành bicarbonat ḥa tan trong nước:
CaCO3
+ CO2 + H2O --------> Ca (HCO3)2
- Hóa
sét. Quá tŕnh này hay xảy ra đối với các
silicat và aluminosilicat trong đá
Magma. Dưới tác dụng của CO2 và H2O, các
kim loại kiềm và kiềm thổ bị tách ra
dưới dạng Carbonat c̣n lại là sét và các
chất khác. Thí dụ:
K2OAl2O3.6
SiO2 + CO2 + nH2O ------> Al2O3.2SiO2.2H2O
+ K2O + 4 SiO2.nH2O
sét
Kaolinit
· Phong
hóa sinh học. Quá tŕnh phong hóa sinh học gắn
liền với phong hóa lư học và
phong hóa hóa học. Rễ cây khi chui vào các khe
nứt của đá và càng ngày càng lớn lên làm
cho các khe nứt càng rộng ra. Mặt khác, trong
quá tŕnh sống rể cây tiết ra acid carbonic và
một số acid hữu cơ khác làm ḥa tan
được các khoáng trong đá. Sau khi
chết, xác của chúng bị vi sinh vật phân
hủy tạo nhiều acid mùn, loại acid hữu
cơ nầy cũng có tác dụng ḥa tan các khoáng
trong đá làm tăng sự phân hủy đá. Rêu,
địa y khi bám trên đá chúng ḥa tan các khoáng
để hấp thụ góp phần làm cho đá
bị phân hủy nhanh hơn.
* Quá
tŕnh h́nh thành đất
Những
sản phẩm do sự phong hóa đá tạo ra chưa
được gọi là đất v́ chúng
thiếu thành phần quan trọng là các hợp
chất hữu cơ. Ngoài vai tṛ là nguồn
thức ăn quan trọng cho thực vật,
chất hữu cơ c̣n có tác dụng giữ các
chất dinh dưỡng, tác động qua lại
với các thành phần khoáng của đất, làm
cho đất có một thuộc tính khác hẳn
với đá đó là khả năng cung cấp
chất dinh dưỡng để sản xuất
ra sản phẩm của cây trồng.
Nguồn
gốc chất hữu cơ trong đất là do
sinh vật mà chủ yếu là do thực vật
tạo ra. Thực vật đă hấp thu chất
dinh dưỡng trong đất để sinh trưởng
và phát triển, khi chết xác của chúng làm giàu
thêm chất hữu cơ cho đất, chất
hữu cơ nầy được các vi sinh
vật phân giải thành chất dinh dưỡng
trả lại cho đất.
Như
vậy, chất dinh dưỡng trong đất luôn
luôn được luân chuyển trong một ṿng
tuần hoàn đất - cây - đất; đặc
tính của ṿng tuần hoàn này là không khép kín mà
phát triển theo kiểu xoắn trôn ốc nghĩa
là sau một chu kỳ cây sẽ trả lại cho
đất một khối lượng chất dinh
dưỡng nhiều hơn khối lượng mà
cây đă hấp thu được trong quá tŕnh
sống của nó. Như vậy tác dụng
của sinh vật làm cho đất ngày càng
dồi dào chất dinh dưỡng hơn.
Theo
quan điểm lịch sử th́ quá tŕnh h́nh thành
đất chỉ xuất hiện từ khi có
sự sống trên trái đất và quá tŕnh này
đă tiến hóa từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức
tạp theo sự tiến hóa của sinh vật trên
trái đất.
Đất
có chứa không khí, nước và chất
rắn. Chất rắn là phần chủ yếu
của đất, nó chiếm gần 100% trọng
lượng khô của đất và được
chia làm hai loại: chất vô cơ và chất
hữu cơ.
a.
Chất vô cơ
Chất
vô cơ là phần chủ yếu của đất,
nó chiếm từ 97 - 98% trọng lượng khô
của đất. Các chất vô cơ tạo thành
hai dạng hợp chất: hợp chất khó tan và
hợp chất dễ tan. Các hợp chất
dễ tan bao gồm các muối dễ tan trong nước
như carbonat, sulfat, clorua tạo thành các dịch
chất dinh dưỡng nuôi sống cây như các
muối chứa N, P, K... Ngoài ra, cũng có
những muối độc cho cây trồng khi
ở nồng độ cao như NaCl, Na2CO3... làm
cho đất trở nên mặn.
b.
Chất hữu cơ
Chất
hữu cơ tuy chúng chỉ chiếm 2%- 3% nhưng
lại rất quan trọng. Nguồn gốc
chất hữu cơ trong đất là do các xác
bả của thực vật, động vật và
vi sinh vật tạo nên. Các chất hữu cơ
này sẽ bị biến đổi dưới tác
động của không khí, nước, nhiệt
độ, vi khuẩn, vi sinh vật ... theo hai quá
tŕnh khoáng hóa và mùn hóa:
- Quá
tŕnh khoáng hóa. Là quá tŕnh phá hủy các chất
hữu cơ để biến chúng
thành những chất vô cơ đơn giản
như các loại muối khoáng, nước, các
chất khí CO2, NH3, H2S...
- Quá
tŕnh mùn hóa. Là quá tŕnh tổng hợp các
hợp chất vô cơ lẫn hữu cơ
tạo thành hợp chất cao phân tử màu đen
gọi là mùn. Vi sinh vật đất đóng vai
tṛ quan trọng trong sự h́nh thành mùn, rồi mùn
lại bị khoáng hóa h́nh thành các loại
muối dinh dưỡng cung cấp cho thực
vật. Mùn có chứa nhiều chất dinh dưỡng
đặc biệt là N rất cần thiết cho
cây trồng, mùn c̣n có vai tṛ làm cho đất tơi
xốp, giử ẩm, giử chất dinh dưỡng
và c̣n có tác dụng kích thích cây trồng.
Bảng
1. Hàm lượng trung b́nh của các nguyên tố
hóa học
trong
đá và trong đất (Vinogradov, 1950 )
Nguyên
tố
|
Trong
đá (%)
|
Trong
đất (%)
|
O
Si
Al
Fe
Ca
Na
K
Mg
Ti
H
C
S
P
N
|
47,20
27,60
8,80
5,10
3,60
2,64
2,60
2,10
0,60
0,15
0,10
0,09
0,08
0,01
|
49,
00
33,
00
7,
13
3,
80
1,
37
0,
63
1,
36
0,
60
0,
46
0,
38
2,
00
0,
08
0,
09
0,
10
|

a.
Tính hấp phụ của đất
Trong
đất có những hạt nhỏ đường
kính < 0, 001 mm gọi là hạt keo đất,
lớp ion mang điện tích quanh hạt keo có
khả năng kết hợp với các ion trái
dấu là cơ sở để tạo thành tính
hấp phụ của đất.
Quan
hệ giữa tính hấp phụ của đất
với nồng độ các ion ngoài dung dịch
đất là quan hệ trao đổi: khi nồng
độ các ion trong dung dịch tăng cao (lúc bón
phân) th́ hạt keo đất sẽ hấp
phụ các ion và khi nồng độ ion trong dung
dịch giảm đến một giới hạn
nhất định th́ các ion từ hạt keo
đất được giải phóng ra ngoài.
Vậy tính hấp phụ của đất có
chức năng giữ và điều ḥa chất
dinh dưỡng trong đất rất cần cho
sự sinh trưởng và phát triển của cây
trồng. Đất có nhiều mùn, nhiều sét th́
khả năng hấp phụ cao.
b.
Độ xốp của đất
Độ
xốp của đất khác nhau là do sự
kết cấu của các loại hạt như sét,
mùn, cát, sỏi trong đất, tạo nên
những khoảng trống giữa các hạt
gọi là tế khổng. Độ xốp của
đất phụ thuộc vào số lượng
và độ lớn của các tế khổng, nó
là yếu tố kiểm soát lượng không khí
và lượng nước trong đất.
Tùy
theo thành phần và tỉ lệ % của các
cấp hạt trong đất mà chia thành 3
loại đất: đất cát, đất
thịt và đất sét:
- Đất
cát. Là đất chứa nhiều cát, ít mùn và sét.
Đất này bời rời do độ xốp cao
nên rất thoáng khí, dễ cày bừa nhưng
giữ nước và phân bón kém, dể bị khô
hạn và nghèo chất dinh dưỡng. Đất cát
thích hợp trồng cây hoa màu đặc biệt
là đậu phọng và các loại cây cho củ
như khoai, sắn....
- Đất
sét. Đất sét chứa nhiều sét, ít mùn và cát.
Đất sét có độ kết dính rất
chặt giữa các hạt sét nên kém thoáng khí, khó
thoát nước và khó cày bừa, khi khô hạn
th́ nứt nẻ lớn. Đất sét chỉ thích
hợp trồng cây hoa màu đặc biệt là hành,
kiệu, cần tây
- Đất
thịt. Đất chứa nhiều mùn, ít cát và sét.
Đất thịt xốp và thoáng khí, v́
thế có khả năng giữ nước, không
khí. Do có nhiều vi sinh vật đất có ích nên
quá tŕnh biến đổi các xác bả hữu cơ
thành các chất dinh dưỡng được
tiến hành nhanh làm đất thịt dồi dào
chất dinh dưỡng, thích hợp cho nhiều
loại cây trồnǵ..
c.
Độ acid và độ kiềm
Độ
acid và độ kiềm của đất cũng
là một yếu tố quan trọng để xác
định loại đất nào có khả năng
canh tác được. Độ acid và độ
kiềm liên quan đến nồng độ ion H+
và OH-trong dung dịch đất. Các giá trị
cuả pH đất khác nhau giữa các loại
đất là do thành phần cấu tạo và tính
chất của chúng khác nhau.
Đất
được sử dụng để canh tác có
độ pH thay đổi khá rộng. Nhiều cây
thực phẩm như lúa mạch, đậu,
bắp và cà chua có khả năng tăng trưởng
tốt ở đất hơi acid; khoai tây tăng
trưởng tốt ở đất rất acid, măng
tây th́ lại thích hợp ở đất trung ḥa
Mặt
khác, ở những đất canh tác tốt, thường
cho năng suất cao ở năm đầu nhưng
càng về sau càng giảm dần v́ chất dinh dưỡng
trong đất càng cạn kiệt, nên việc bón
phân và đặc biệt với phân hữu cơ,
là phương pháp hữu hiệu nhất để
bồi bổ thêm chất dinh dưỡng cho đất
và đồng thời ổn định pH của
đất.

II.
CÁC LOẠI ĐẤT CHÍNH
Trắc
diện đất là bề mặt lát cắt theo
chiều thẳng đứng của đất,
trong trắc diện đất thường có
những tầng đất khác nhau về độ
dày, màu sắc, thành phần cơ giới và
cấu trúc là do các quá tŕnh lư học, hóa
học và sinh học diển ra khác nhau. Dưới
ảnh hưởng của các yếu tố h́nh
thành đất trong tự nhiên và hoạt động
sản xuất của con người mỗi
loại đất có một trắc diện
nhất định.
Một
trắc diện đất thường được
chia ra các tầng chính sau:
-
Tầng O: gọi là tầng thảm mục hay
tầng rể cỏ. Tầng này gồm những
xác cành, lá cây rơi rụng hàng
năm phủ trên bề mặt đất, các xác
bả này có thể bị phân hủy ít,
nhiều.
- Tầng
A : gọi là tầng mùn, ở đây chất
hữu cơ bị phân hủy thành hợp
chất mùn
cùng
với các khoáng dinh dưỡng kết hợp
lại tạo nên. Tầng này có màu sẫm hơn
các tầng khác. Ở những tầng đất
có tầng mùn dày, người ta có thể chia thành
nhiều tầng nhỏ hơn A1, A2, A3 phân
biệt nhau về màu sắc, kết cấu, độ
chặt ... Rễ của các thực vật phát
triển nhiều trong hai lớp này. Ở hai
lớp này, lượng chất hữu cơ
chiếm tỉ lệ từ 1% đến 7% và có
rất nhiều vi khuẩn, vi sinh vật, nấm,
mốc, giun đất, các côn trùng nhỏ và
một số loài động vật mượn
chổ để sống như chuột chủi,
chuột vàng ..., chúng có ảnh hưởng qua
lại với nhau trong một lưới thức
ăn phức tạp.
Các
vi khuẩn và vi sinh vật đất có mật
số rất lớn, ước lượng có
khoảng hàng tỉ con trong một nhúm đất
và chúng là một bộ phận rất quan
trọng trong sự phân hủy các hợp chất
hữu cơ phức tạp thành những chất
hữu cơ đơn giản.
Nước
trong đất ḥa tan các chất dinh dưỡng
được rể cây hấp thụ rồi
được chuyển lên thân đến lá,
những chất hữu cơ khác được
phân giải chậm hơn làm thành một hỗn
hợp đậm màu gọi là mùn. Những cánh
đồng ph́ nhiêu cho sản lượng cao thường
có hai lớp này dày, độ ph́ nhiêu của
đất có thể nhận biết được
nhờ vào màu sắc của hai lớp này: có màu
nâu đen th́ độ ph́ nhiêu cao, nếu có màu
xám hay vàng nhạt th́ chứa ít chất hữu cơ
nên cần phải bón thêm phân và điều
chỉnh độ acid để làm tăng độ

H́nh
1. Một trắc diện đất tiêu biểu
(Miller, 1988)
ph́
nhiêu của đất. Khoảng trống giữa
các phân tử vô cơ và hữu cơ trong hai
lớp này chứa không khí và nước, oxy trong
không khí tích chứa trong các khoảng trống
được tế bào rể cây sử dụng
cho quá tŕnh hô hấp, c̣n nước mưa
trực di từ lớp đất mặt
xuống đă ḥa tan các chất dinh dưỡng
trong lớp đất mặt mang xuống lớp
dưới sâu hơn để được các
tế bào rể hấp thụ.
-
Tầng E. Được gọi là tầng rửa trôi.
Trong quá tŕnh h́nh thành đất hàng loạt
chất từ tầng này bị rửa trôi
xuống các tầng dưới. Tầng này
được đặc trưng nhất ở
đất rừng tùng bách (spodosol).
-
Tầng B. Được gọi là tầng tích
tụ. Tầng này thường tích tụ các
chất bị rửa trôi từ
tầng trên xuống, những chất tích tụ
ở tầng này là những chất ḥa tan
hoặc những phần tử cơ học
nhỏ như đất sét. Tầng B cũng có
thể chia thành nhiều tầng nhỏ hơn B1,
B2, B3 tùy thuộc vào màu sắc, độ kết
cấu và độ xốp.
-
Tầng C. Được gọi là tầng mẫu
thạch, đó là tầng đá chưa chịu
ảnh hưởng mạnh
của quá tŕnh h́nh thành đất. Đá ở
đây tuy bị biến đổi ít nhiều
song vẫn giữ được h́nh dạng và
cấu tạo của chúng.
- Tầng
R. Được gọi là tầng đá gốc.
Tầng này trong thực tế ít khi được
đề cập, người ta
chỉ đề cập đến nó khi các
tầng đất đuợc h́nh thành trên cùng
một loại đá, dưới lớp đá này
có đá mang những tính chất khác nhau.

Trên
thế giới, đất của các hệ sinh thái
có sự khác biệt rất lớn về màu
sắc, thành phần cơ giới, độ
xốp, độ pH và chiều dày. Từ các khác
biệt đó người ta chia thành nhiều
loại nhóm đất khác nhau tương ứng
với các đại hệ sinh thái đất
liền khác nhau. Sau đây là 5 loại đất
chính tiêu biểu là:
- Đất
rừng tùng bách. Gặp ở vùng có khí hậu
lạnh. Thực vật đặc trưng như
Thông, Tùng, Bách, Sồi, Giẻ. Hầu hết là
cây có lá kim và xanh quanh năm
- Đất
rừng ôn đới thay lá. Gặp ở vùng khí
hậu ẩm ôn đới. Phần lớn là cây
có lá rộng và thay lá theo mùa trong năm xen
lẫn cây có lá kim.
- Đất
đồng cỏ. Gặp ở vùng ôn đới
có mùa khô kéo dài, hầu hết là những cây
thân thảo nhất niên.
- Đất
sa mạc. Gặp ở vùng khí hậu nóng khô như
sa mạc và các bán sa mạc.
Thực vật ở đây nghèo nàn bao gồm các
loài thân thảo nhỏ, cây bụi, cây gổ
nhỏ mà phần lớn lá của chúng biến
thành gai... tạo nên thảm thực vật
kiểu Savane.
- Đất
rừng mưa nhiệt đới. Gặp ở vùng
khí hậu nhiệt đới ẩm. Thực
vậ rất đa dạng và phong
phú, có lá rộng và xanh quanh năm. Một số
ít loài c̣n thể hiện sự rụng lá theo mùa
thường không rơ như Bàng biển, Xoan...
III.
TÀI NGUYÊN ĐẤT TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM
Quả
đất có bán kính trung b́nh 6371 km, chu vi theo
đường xích đạo 40.075 km và diện
tích bề mặt của quả đất ước
tính khoảng 510 triệu km2 (tương
đương với 51 tỉ hecta) trong đó
biển và đại dương chiếm
khoảng 36 tỉ hecta, c̣n lại là đất
liền và các hải đảo chiếm 15 tỉ
hecta.
Bảng
2. Diện tích của các lục địa
Đại
lục
|
Diện
tích
|
Châu
Á
Châu
Phi
Bắc
Mỹ
Nam
Mỹ
Châu
Âu
Châu
Uïc
Châu
Nam Cực
|
43.998.920
km2
29.800.540
km2
24.320.100
km2
17.599.050
km2
9.699.550
km2
7.687.120
km2
14.245.000
km2
|
Theo
P. Buringh, toàn bộ đất có khả năng
canh tác nông nghiệp của thế giới 3,3
tỉ hecta (chiếm 22% tổng số đất
liền) c̣n 11, 7 tỉ hecta (chiếm 78% tổng
số đất liền) không dùng cho sản
xuất nông nghiệp được. Diện tích
các loại đất không sử dụng
được cho nông nghiệp theo bảng sau:
Bảng
3. Các loại đất không sử dụng
được cho nông nghiệp
Loại
đất
|
Diện
tích (ha)
|
Đất
quá dốc
Đất
quá khô
Đất
quá lạnh
Đất
đóng băng
Đất
quá nóng
Đất
quá nghèo
Đất
quá lầy
|
2,
682 tỉ (18%)
2,
533 tỉ (17%)
2,
235 tỉ (15%)
1,
490 tỉ(10%)
1,
341 tỉ (9%)
0,
745 tỉ (5%)
0,
596 tỉ (4%)
|
Đất
trồng trọt trên thế giới chỉ có 1, 5
tỉ hecta (chiếm 10,8% tổng số đất
đai, bằng 46% đất có khả năng nông
nghiệp) c̣n 1, 8 tỉ hecta (54%) đất có
khả năng nông nghiệp chưa được
khai thác.
Về
mặt chất lượng đất nông
nghiệp th́: đất có năng suất cao
chỉ chiếm 14%, đất có năng suất
trung b́nh chiếm 28%và đất có năng
suất thấp chiếm tới 58%. Điều
nầy cho thấy đất có khả năng canh
tác nông nghiệp trên toàn thế giới có
hạn, diện tích đất có năng suất
cao lại quá ít. Mặt khác mỗi năm trên
thế giới lại bị mất 12 triệu
hecta đất trồng trọt cho năng suất
cao bị chuyển thành đất phi nông
nghiệp và 100 triệu hecta đất trồng
trọt bị nhiễm độc do việc
sử dụng phân bón và các loại thuốc sát
trùng.
Đất
nông nghiệp phân bố không đều trên
thế giới, tỉ lệ giữa đất nông
nghiệp so với đất tự nhiên trên các
lục địa theo bảng sau :
Bảng
4: Tỉ lệ % đất tự nhiên và đất
nông nghiệp trên toàn thế giới
Các
Châu lục
|
Đất
tự nhiên
|
Đất
nông nghiệp
|
Châu
A
Châu
Mỹ
Châu
Phi
Châu
Âu
Châu
Đại Dương
|
29,5%
28,2%
20,0%
6,5%
15,8%
|
35%
26%
20%
13%
6%
|
Như
vậy, trên toàn thế giới diện tích đất
sử dụng cho nông nghiệp càng ngày càng
giảm dần trong khi đó dân số càng ngày càng
tăng. V́ vậy, để có đủ lương
thực và thực phẩm cung cấp cho nhân
loại trong tương lai th́ việc khai thác
số đất có khả năng nông nghiệp c̣n
lại để sử dụng là vấn đề
cần được đặt ra. Theo các chuyên
gia trong lĩnh vực trồng trọt cho rằng
với sự phát triển của khoa học và
kỹ thuật như hiện nay th́ có thể
dự kiến cho đến năm 2075 th́ con người
mới có thể khai phá hết diện tích đất
có khả năng nông nghiệp c̣n lại đó.

Đất
tự nhiên ở Việt Nam có diện tích 33
triệu hecta trong đó đất có khả năng
nông nghiệp chỉ có 6,9 triệu hecta (chiếm
21 % diện tích đất tự nhiên) và phân
bố không đồng đều ở các vùng
sinh thái khác nhau.
Bảng
5. Diện tích các loại đất ở
Việt Nam
(Viện
thiết kế quy hoạch nông nghiệp, 1980)
Lọai
đất
|
Diện
tích (ha)
|
Cồn
cát và cát biển
Đất
mặn
Đất
phèn
Đất
phù sa
Đất
lầy và than bùn
Đất
xám bạc màu
Đất
đỏ và xám nâu vùng bán khô hạn
Đất
đen
Đất
đỏ vàng
Đất
mùn vàng đỏ trên núi
Đất
mùn trên núi cao
Đất
thung lũng do sản phẩm dốc tụ
Đất
xói ṃn trơ sỏi đá
Các
loại đất khác và đất chưa
điều tra
|
502.045
991.202
2.140.306
2.936.413
71.796
2.481.987
34.234
237.602
15.815.790
2.976.313
280.714
330.814
505.298
3.651.586
|
Do
vị trí và địa h́nh đặc biệt
của nước ta làm cho thổ nhưỡng
Việt Nam mà có tính chất chung của vùng
nhiệt đới ẩm nhưng rất đa
dạng và phân hóa rơ từ đồng bằng lên
núi cao, từ Bắc vào Nam và từ Đông sang Tây.
Cả nước có 14 nhóm đất (bảng 5).
Tiềm
năng đất có khả năng canh tác nông
nghiệp của cả nước khỏang
từ 10-11 triệu ha trong đó mới chỉ
sử dụngú được 6, 9 triệu ha
đất nông nghiệp gồm 5, 6 triệu ha là
đất trồng cây hàng năm (lúa: 4, 144
triệu ha; màu, cây công nghiệp ngắn ngày: 1,
245 triệu ha) và 1, 3 triệu ha là đất
trồng cây ăn quả và cây lâu năm khác (cà
phê, cao su, dâu tằm, hồ tiêu, cam, chanh, quít...).
Theo
chương tŕnh điều tra tổng hợp vùng
Đồng bằng sông Cửu Long trong thập niên
80 th́ vùng đồng bằng sông Cửu Long có 7
nhóm đất chính(Bảng 6).
Bảng
6. Diện tích và tỉ lệ các nhóm đất
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
(
Theo chương tŕnh 60 B )
Loại
đất
|
Diện
tích (ha)
|
Tỉ
lệ (%)
|
Đất
phù sa
Đất
phèn
Đất
mặn
Đất
phèn mặn
Đất
phù sa cổ
Đất
than bùn
Đất
núi
|
1.094.248
1.054.342
809.034
631.443
108.989
34.052
34.678
|
28,
91
28,
02
21,
38
16,
98
2,
84
0,
92
0,
95
|

IV.
BẢO TỒN ĐẤT ĐAI
a.
Các yếu tố xói ṃn đất đai
Trong
tự nhiên, đất không được
giữ lại ở một nơi xác định
mà luôn được mang đi từ một nơi
này đến một nơi khác, nhất là
lớp đất ở tầng mặt, đó là
sự xói ṃn đất. Hai tác nhân chính gây nên
sự xói ṃn đất là nước và gió.
Sự
xói ṃn đất c̣n do một nguyên nhân khác là
con người. Chúng ta đều biết rằng
tàng lá và rể cây có vai tṛ bảo vệ đất
chống lại sự xói ṃn, trong sản xuất
nông nghiệp th́ con người tiến hành khai
phá rừng để lấy gỗ và lấy
đất canh tác hoặc sử dụng vào các
mục đích khác, đă phá hủy tầng cây
bao phủ mặt đất, tạo điều
kiện làm tăng sự xói ṃn đất.
Sự
xói ṃn đất quá lớn không chỉ ảnh hưởng
đến sự làm giảm độ ph́ nhiêu
của đất mà c̣n ảnh hưởng đến
sự tưới tiêu, sự lưu thông
đường thủy, các hồ chứa nước
để làm thủy điện, cung cấp nước
uống cho vùng đô thị ... Nếu tỉ
lệ trung b́nh của sự xói ṃn tầng đất
mặt vượt quá tỉ lệ thành lập
tầng đất mặt, như vậy tầng
mặt của đất không được làm
mới th́ đất càng ngày càng nghèo chất
dinh dưỡng
b.
T́nh h́nh xói ṃn đất đai trên thế
giới và ở Việt Nam
*
T́nh h́nh xói ṃn đất đai trên thế
giới
Ở
vùng nhiệt đới và xích đạo, sự
thành lập tầng đất mặt mới
ước lượng khoảng 2,5 cm trong 500 năm,
trong khi đó sự xói ṃn trên đất canh tác
có tỉ lệ gấp 18-100 lần sự thành
lập tầng đất mặt mới trong
tự nhiên. Sự xói ṃn của đất cũng
xảy ra ở đất rừng nhưng ít nghiêm
trọng hơn như ở đất canh tác nông
nghiệp, mặc dù vậy nhưng việc
quản lư, bảo vệ để chống
lại sự xói ṃn đất rừng cũng là
điều hết sức được quan tâm v́
tỉ lệ tái tạo lại đất rừng
thấp hơn 2-3 lần đất canh tác.
Hiện
trạng thế giới ngày nay, sự xói ṃn
đất mặt của đất canh tác có
tốc độ lớn hơn sự đổi
mới thành lập tầng đất mặt,
phần lớn tầng đất mặt bị
rửa trôi được đưa vào sông
hồ, đại dương; người ta ước
tính trên thế giới có khoảng 7% lớp
đất mặt của đất canh tác bị
rửa trôi trong một chu kỳ là 10 năm.
Trước
t́nh trạng này, để đủ lương
thực nuôi sống nhân loại ngày càng tăng,
con người đă phải sử dụng lượng
phân bón tăng gấp 9 lần, thủy lợi tăng
gấp 3 lần trong các thập niên từ 1950 -
1987, điều nầy tạm thời đă che
dấu được sự suy thoái đất.
Tuy nhiên, trên thực tế phân bón không đủ
chất để làm phục hồi lại độ
ph́ nhiêu của đất như đất
tự nhiên được v́ có những chất
không thể tổng hợp được
bằng phương pháp hóa học, điều
nầy chứng tỏ nguồn tài nguyên này càng
cạn kiệt hơn.
Tỉ
lệ xói ṃn đất thay đổi tùy theo
địa h́nh, sự kết cấu của đất,
tác động của mưa, sức gió, ḍng
chảy và đối tượng canh tác. Sự xói
ṃn đất do hoạt động của con người
xảy ra rất nhanh ở các quốc gia như
Ấn Độ, Trung Quốc, Liên Xô và Hoa Kỳ, tính
chung các quốc gia này sản xuất hơn 50%
số lương thực trên thế giới và dân
số cũng chiếm 50% dân số thế
giới. Ở Trung Quốc, theo báo cáo hàng năm
mặt đất bị bào ṃn trung b́nh 40 tấn
cho mỗi ha, trong cả nước có 34% diện
tích đất bị bào ṃn khốc liệt và làm
cho các con sông chứa đầy phù sa. Ở
Ấn Độ, sự xói ṃn đất làm sông
bị lấp đầy bùn là một vấn
đề nghiêm trọng xảy ra ở đây,
trong cả nước có khoảng 25% diện tích
đất bị bào ṃn mạnh. Ở Liên Xô,
theo ước tính của The Worldwatch Institute là có
diện tích đất canh tác lớn nhất và có
tầng đất mặt bị xói ṃn nhiều
nhất thế giới (Miller, 1988).
Ở
Hoa Kỳ, theo điều tra của SCS (Soil
Conservation Service) ước tính có khoảng 1/3
tầng đất mặt canh tác bị rửa trôi
vào sông, hồ, biển, tỉ lệ xói ṃn trung
b́nh là 18 tấn/ha; c̣n ở Iowa và Missouri hơn
35 tấn/ha. Các chuyên gia cho rằng sự xói ṃn
tầng đất mặt diễn ra hàng năm
ở Hoa Kỳ đủ để phủ đầy
một đầm dài 5.600 km(3.500 dặm) làm
mất đi gần 1/4 lớp đất canh tác
trong cả nước, tính ra sự hao phí
chất dinh dưỡng cho cây do sự xói ṃn gây
ra hàng năm trị giá 18 tỉ USD (Miller, 1988). Các
nhà nghiên cứu ước tính rằng nếu không
có những biện pháp bảo vệ đất
chống lại sự xói ṃn th́ khoảng
chừng 50 năm tới th́ diện tích đất
canh tác bị xói ṃn tương đương
với diện tích của các bang NewYork, New Jersey,
Maine, New Hampshire, Massachusetts và Connecticut (Miller, 1988).
Dân
nghèo ngày càng tăng th́ sự canh tác cũng gia tăng
theo, đó cũng là nguyên nhân làm tăng sự xói
ṃn của đất. Sự xói ṃn đất không
chỉ là vấn đề do hoạt động
canh tác mà c̣n do sự quản lư và sử
dụng không hợp lư đất rừng, đất
đồng cỏ, mà c̣n do các hoạt động
xây dựng của con người theo sự gia tăng
dân số ( hoạt động xây dựng làm xói
ṃn đất chiếm khoảng 40% đất
bị xói ṃn ). Mặt khác, hậu quả của
sự xói ṃn c̣n làm trở ngại sự vận
chuyển đường thủy, làm giảm
sức chứa của các đập thủy điện,
xáo trộn cuộc sống hoang dă của các loài
sinh vật ... từ đó ảnh hưởng
đến môi trường sinh thái tự nhiên.
Theo
một số phân tích, nếu tỉ lệ xói ṃn
trung b́nh 18 tấn/ha th́ trong ṿng 50 năm nữa
th́ sự thiếu hụt trung b́nh ngân sách
quốc gia khoảng từ 2% - 3% hàng năm. Người
ta tin rằng các điều trên có thể
được khắc phục và bù đắp
bằng các phương pháp kỹ thuật canh tác
mới và việc sử dụng phân bón trong canh tác.
Tuy
nhiên, hiện nay người ta chưa đưa
ra một phương pháp nào để bảo
vệ đất chống sự xói ṃn một cách
có hiệu quả, nên đây là một vấn
đề cần được sự quan tâm.
*
T́nh h́nh xói ṃn đất đai ở Việt Nam
Nước
ta nằm trong vùng nhiệt đới ẩm và có
lượng mưa tương đối lớn
(từ 1.800 mm - 2.000 mm) nhưng lại phân bố
không đều và tập trung chủ yếu trong
các tháng của mùa mưa từ tháng 4 - 5 đến
tháng 10; riêng vùng duyên hải miền Trung th́ lượng
mưa bắt đầu và kết thúc muộn hơn
từ 2 đến 3 tháng. Lượng mưa
lớn và lại tập trung tạo ra ḍng
chảy có cường độ rất lớn,
đây là nguyên nhân chính gây nên hiện tượng
xói ṃn đất đai ở Việt Nam. Hằng
năm, nước của các con sông mang phù sa
đổ vào biển Đông khoảng 200 triệu
tấn, người ta ước tính trung b́nh 1m3
nước chứa từ 50g - 400g phù sa, riêng
đồng bằng sông Hồng 1.000g/m3 và có khi
đạt đến 2.000g/m3.
Nguyên
nhân chính dẫn đến sự xói ṃn là do
sự khai phá rừng để lấy gỗ và
lấy đất canh tác. Từ năm 1983 đến
1994 trên cả nước ta có khoảng 1,3
triệu hecta rừng đă bị khai phá để
lấy gỗ và lấy đất trồng
trọt, gây nên sự xói ṃn và rửa trôi
lớp đất mặt làm cho đất ở các
nơi này càng ngày càng trở nên bạc màu.
Chỉ tính riêng cho các vùng phía Bắc sông
Hồng và dọc theo dăy Trường Sơn th́
đă có khoảng 700.000 ha đất bị
bạc màu.
Sự
xói ṃn do gió mặc dù xảy ra ít nghiêm trọng
hơn nhưng cũng là vấn đề đáng
quan tâm ở các vùng duyên hải, vùng trung du và vùng
núi. Để làm giảm bớt sự xói ṃn,
nhiều biện pháp đă được
thực hiện như trồng cây chắn gió, khôi
phục lại rừng ở đầu nguồn và
trồng cây gây rừng phủ các đồi
trọc ...

a.
Tầm quan trọng của việc bảo tồn
đất đai
Vấn
đề chính của việc bảo tồn đất
đai là làm giảm sự xói ṃn, ngăn
ngừa sự cạn kiệt nguồn dinh dưỡng
trong đất và giảm sự lạm dụng quá
mức đất canh tác. Thường th́ sự
bảo vệ đất không nhận được
kết quả rơ rệt v́ tốc độ xói ṃn
diễn ra rất chậm và kéo dài nên khó
thấy được sự tác động
hữu hiệu của nó. Thí dụ như sự
xói ṃn do gió và nước mưa xảy ra
mỗi năm là 1mm th́ ta không thấy được
tầm quan trọng của nó, nhưng nếu sau
25 năm hoặc hơn nữa, 500 năm chẳng
hạn th́ đó là một vấn đề
rất lớn, nó làm cho diện mạo của
đất trở nên khác hẳn.
b.
Bảo tồn đất trồng trọt
*Bảo
tồn đất trồng trọt vùng đồng
bằng: Một trong những nguyên nhân làm
tăng sự xói ṃn trên đất trồng
trọt là sự cày vỡ lớp đất
mặt. Theo thói quen, khi trồng hoa màu người
ta thường cày xới đất trước
khi trồng; đất cày vỡ ra được
phơi trần qua một thời gian dài bị
vụn nát ra điều này làm tăng sự xói
ṃn. Để hạn chế sự xói ṃn, người
ta thường thực hiện nhiều biện pháp
khác nhau:
- Cày
hạn chế (minimum- tillage method): Khi cày đất
người ta chỉ cày ở tầng mặt
có cả phần hoa màu c̣n lại sau khi thu
hoạch, không làm xáo trộn lớp mùn ở bên
dưới. Phương pháp này chẳng những
hạn chế được phần nào sự xói
ṃn mà c̣n tiết kiệm được nguồn
phân hữu cơ từ phần hoa màu c̣n lại,
giảm chi phí mua phân bón.
- Không
cày (no- till farming): Khi trồng cây người ta không
cày xới đất mà chỉ đào
đất thành từng lỗ nhỏ để
đặt cây trồng vào, sau đó bón phân và
thuốc trừ cỏ quanh gốc cây
- Trồng
theo líp: Đào đất thành từng líp và đấp
bờ bao để hạn chế ḍng chảy,
đồng thời giữ lại
được nguồn chất dinh dưỡng
bị rửa trôi do nước tưới. Cây
được trồng thành hàng và khoảng
trống giữa các hàng được trồng
thêm hoa màu phụ nhất là cây họ đậu,
một mặt để phủ cho kín đất
mặt khác để tăng thêm nguồn đạm
cho đất.
-
Ở những nơi có gió, người ta thường
trồng cây tạo nên một vành đai chắn
gió. Vành đai này c̣n là nơi cư trú cho các loài
chim và một số loài động vật khác,
chúng có thể ăn các dịch hại và c̣n giúp
cho sự thụ phấn của cây trồng.
*Bảo
tồn đất trồng trọt trên các vùng có
độ dốc: Trên các đồi trọc, sườn
đồi được sử
dụng để canh tác, do có độ dốc nên
sự xói ṃn xảy ra mănh liệt hơn ở vùng
b́nh nguyên.
Nguyên
nhân gây nên sự xói ṃn trên đất dốc:
- Lượng
mưa và cường độ mưa: đây là
một yếu tố quan trọng nhất gây xói ṃn
mạnh. Ở các nước thuộc vùng
nhiệt đới mưa thường tập
trung từ tháng 5 đến tháng 10, ở các vùng
núi lượng mưa có thể đạt 3.000mm,
lượng mưa càng lớn và đặc
biệt là cường độ mưa (lượng
mưa trong một đơn vị thời gian) càng
lớn th́ tốc độ xói ṃn càng mạnh
- Độ
dốc và chiều dài của sườn dốc:
cường độ xói ṃn đất tỉ
lệ thuận với độ
dốc, theo một số nhà nghiên cứu th́
nếu độ dốc tăng 4 lần, tốc
độ ḍng chảy tăng 2 lần th́ lượng
đất bị xói ṃn tăng gấp 64 lần.
Điều này đă cho thấy nếu độ
dốc càng lớn th́ tốc độ ḍng
chảy càng lớn và sự tố độ xói
ṃn càng mạnh.
- Độ
che phủ của cây: Nếu trên mặt đất
có cây che phủ th́ những hạt mưa
không rơi trực tiếp xuống đất mà
bị phân tán ngay trên các tàng lá. Mặt khác, ḍng
chảy bị ngăn trở bởi rể và
lớp thảm mục trên mặt đất ...
điều đó làm giảm sự xói ṃn
lớp đất mặt.
- Tính
chất của đất: Nếu đất tơi
xốp, có kết cấu thấm nước
tốt th́ lượng nước
mưa sẽ ngấm xuống đất nhiều
hơn nên lượng nước tạo nên ḍng
chảy trên lớp đất mặt ít đi cũng
làm giảm sự xói ṃn. Các biện pháp
chống xói ṃn khi trồng trọt trên đất
dốc như sau:
- Làm
giảm độ dốc và chiều dài của sườn
dốc: bằng cách như san
ruộng thành bậc thang, đào mương,
đấp bờ, trồng cây thành hàng để
ngăn chiều dài của dốc thành những
đoạn ngắn hơn.
- Dùng
các biện pháp nông lâm nghiệp để che
phủ kín mặt đất: cụ
thể là gieo trồng theo hướng ngang của
sườn dốc, làm luống trồng ngang
với sườn dốc; nếu là trồng cây
hàng thưa th́ ở giữa các hàng trồng thêm
cây phân xanh hoặc cây màu xen vào cho kín đất
nhằm mục đích vừa làm tăng độ
ph́ vừa bảo vệ lớp đất mặt
và nên trồng xen kẻ những giống cây
trồng khác nhau đề pḥng được các
dịch bệnh gây hại. Điều cần
thiết nhất là phải giữ lại rừng
ở đầu nguồn hoặc đầu
của các chỏm đồi.
c.
Duy tŕ và phục hồi độ ph́ nhiêu
của đất
Để
nâng cao năng suất thu hoạch và tăng
vụ trong trồng trọt, người ta thường
sử dụng các loại phân hữu cơ và phân
vô cơ để bón vào đất canh tác
nhằm mục đích phục hồi lại
chất dinh dưỡng trong đất đă
bị mất đi do cây hấp thụ trong
vụ trước, do sự xói ṃn và do sự
trực di chất dinh dưỡng xuống các
lớp đất nằm sâu bên dưới.
· Phân
hữu cơ: Phân hữu cơ thường
được chia thành 2 loại là phân chuồng
và phân xanh:
* Phân
chuồng: bao gồm phân và nước tiểu
của gia súc, phân của các gia cầm, phân
chim và phân dơi. Việc sử dụng phân
chuồng làm thay đổi kết cấu của
đất, gia tăng hàm lượng đạm
hữu cơ trong đất và đồng
thời làm gia tăng mật số của vi
khuẩn, vi sinh vật, nấm và một số loài
động vật nhỏ trong đất như
giun dất và một số loài côn trùng. Đất
được bón phân nầy càng ngày càng
dồi dào chất dinh dưỡng, tơi xốp
và thoáng khí rất hữu dụng để canh tác.
Tuy nhiên việc sử dụng chất thải
của động vật làm phân bón ít được
chuộng v́ các lư do sau:
-
Thông thường các trại chăn nuôi lớn
thường nằm ở vùng ven các đô
thị trong khi đó đất canh tác th́ ở
xa các trại chăn nuôi, nên việc thu nhặt và
chuyên chở tốn nhiều công sức làm cho chi
phí tăng cao.
-
Khi khoa học kỹ thuật tiến bộ, máy kéo
và các nông cơ dần dần thay thế chổ
cho các động vật phục vụ cho nông
nghiệp như ngựa, trâu, ḅ ... mà chúng là
nguồn cung cấp chất thải một cách
tự nhiên cho đất.
* Phân
xanh: là những xác bả thực vật
được ủ hoặc cày vào đất
nhằm mục đích làm gia tăng
lượng chất hữu cơ và mùn cho đất.
Chúng có thể là cỏ dại hoặc các
phần c̣n lại của hoa màu sau khi thu hoạch
như rau, cải, đậu, cỏ linh lăng ...
là nguồn cung cấp đạm tại chỗ
cho đất.
Thực
tế cho thấy hỗn hợp của phân xanh
trộn với đất có hiệu quả như
phân chuồng và sự pha trộn giữa phân
xanh, phân chuồng và đất tạo nên một
hỗn hợp giàu chất dinh dưỡng, độ
thoáng khí của đất, tăng cường
mật số của vi khuẩn; vi sinh vật
đất và nấm, giúp cho sự sinh trưởng
và phát triển của cây trồng và sự phân
hủy các xác bă động vật và thực
vật nhanh chóng hơn.
· Phân
vô cơ thương mại
Hầu
hết các quốc gia trên thế giới đặc
biệt là các nước phát triển đều
có xu hướng chung là sử dụng phân bón vô
cơ để phục hồi đất. Trong các
loại phân bón vô cơ đều có chứa
chất dinh dưỡng chính cần cho cây như
N, P và K. Thường th́ tỉ lệ của các
chất dinh dưỡng này thay đổi theo
từng loại phân phù hợp cho từng loại
đất và đối tượng canh tác. Thí
dụ: Phân NPK 16 -16 - 8 có nghĩa là trong phân có
chứa 16% N, 16% P và 8% K và một số chất
khác cũng có thể có hiện diện. V́
vậy để có thể sử dụng phân bón
có hiệu quả, sau mỗi mùa vụ nhà nông
phải phân tích đất để có thể
biết được một cách chính xác
những chất dinh dưỡng trong đất
cần được bổ sung, từ đó
chọn loại phân bón có thành phần chất
dinh dưỡng thích hợp để tránh
được sự lảng phí không cần có.
Việc
sử dụng phân bón vô cơ ngày càng tăng trên
thế giới, trong khoảng từ 1950 đến
1978 lượng phân bón vô cơ được
sử dụng tăng gấp 9 lần. Phân vô cơ
hiện nay được sử dụng rộng răi
v́ đây là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng
cô đọng, dể chuyên chở, dể tồn
trư, bảo quản và dể sử dụng. Tuy
nhiên phân bón vô cơ cũng có những bất
lợi như chúng không bổ sung thêm vào đất
những hợp hữu cơ, v́ vậy khi sử
dụng phân vô cơ mà không bổ sung thêm phân
hữu cơ th́ đất càng ngày càng bị nén
chặt và không c̣n thích hợp cho hoa màu và làm
giảm khả năng tạo N2 tự nhiên
dạng hữu ích. Phân bón vô cơ cũng làm
giảm lượng O2 trong đất v́ đất
bị nén chặt nên các tế khổng bị thu
hẹp và giảm số lượng. Mặt khác,
phân bón vô cơ cũng không bồi bổ lại
cho đất những yếu tố vi lượng,
những yếu tố nầy chỉ được
tổng hợp bằng con đường sinh
học, rất quan trọng cho sự sinh trưởng
và phát triển của thực vật dù với
liều lượng rất nhỏ.
Phân
bón vô cơ là một trong những nguyên nhân chính
gây ô nhiễm đến nguồn nước
hiện nay. Dư lượng của phân bón
bị rửa trôi hoặc trực di theo các
mạch nước ngầm ra các sông rạch,
đây là nguyên nhân gây nên sự bộc phát các
loài rong; sự bộc phát này làm cạn kiệt
nguồn O2 trong nước và hậu quả làm
chết cá và các loại sinh vật thủy sinh
tại nơi đó. Lượng NO3 có trong phân vô
cơ thấm vào đất và trực di theo nước
mưa xuống tầng nước ngầm đến
các ao, hồ, giếng ; nếu lượng NO3
tồn tại cao trong nước làm nước
uống bị ngộ độc đặc
biệt là đối với trẻ con.
· Luân
xen canh hoa màu
Các
loại cây hoa màu như Bắp, Thuốc lá, Bông
vải... lấy đi phần lớn chất dinh
dưỡng đặc biệt là N2 từ đất,
làm cạn kiệt lớp đất trồng
trọt. Nếu chỉ trồng một loại cây
th́ qua vài mùa vụ đất sẽ mất
hết một số chất dinh dưỡng và
dẫn đến năng suất thu hoạch càng
ngày càng giảm.
Trái lại các
loại cây thuộc họ đậu và một
số loài cây khác có khả năng tự
tổng hợp được đạm tự do
trong không khí thành đạm hữu cơ để
sử dụng và khi chết lượng đạm
nầy bổ sung thêm cho đất. V́ vậy phương
pháp luân xen canh giữa các loại hoa màu khác nhau
nhằm duy tŕ và bổ sung độ ph́ của
đất. Mặt khác, phương pháp luân xen
canh c̣n tránh được sự và lan truyền
các dịch bệnh cho từng loại cây
trồng và c̣n làm giảm đi sự xói ṃn
đ
|