Những bài cùng tác giả
Chương 19.
MỐI QUAN HỆ GIỮA VIRUS
VÀ TẾ BÀO
Biên soạn: Phạm Văn Ty,
Nguyễn Lân Dũng
19.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
19.1.1.Mối quan hệ giữa
virus và tế bào
Virus không có khả năng trao
đổi chất và trao đổi năng lượng nên chúng phụ thuộc hoàn toàn vào bộ máy
tổng hợp chủa tế bào. Vì vậy ở virus người ta dùng thuật ngữ nhân lên
thay cho sinh sản.
(1)
Tế bào cho phép
Muốn nhân lên virus phải xâm
nhập được vào tế bào cho phép (permissive cells), đó là các tế bào có đủ
điều kiện cho virus nhân lên, bao gồm:
- Có thụ thể phù hợp với
protein bề mặt virus.
- Có các yếu tố cần thiết như
yếu tố phiên mã, enzyme của tế bào.
- Một số virus có phạm vi tế
bào cho phép hẹp, ví dụ HBV chỉ có thể nhân lên trong tế bào gan.
- Một số virus có phạm vi tế
bào cho phép rộng, có thể nhân lên cả ở ĐVCXS, ĐVKXS và ở cả thực vật.
- Một số chỉ nhân lên khi tế
bào đang ở pha nhất định của chu kỳ phân chia tế bào. Ví dụ virus retro cần
tế bào ở pha M (mitosis), khi đó màng nhân bị vỡ, genome virus mới vào được
trong nhân để cài xen vào nhiễm sắc thể của tế bào. Virus parvo sử dụng
enzyme DNA polymerase của tế bào chủ nên khi nhân lên chúng cần tế bào ở pha
S, là lúc có mặt enzyme này.
(2)
Chu trình tan (lytic cycle):
Chu trình nhân lên, kết thúc
bằng sự làm tan và giết chết tế bào gọi là chu trình tan. Virus chỉ
nhân lên theo chu trình tan gọi là virus độc.
(3)
Chu trình tiềm tan (lysogenic
cycle):
Chu trình lây nhiễm không
tạo ra virus mới hay không giết chết tế bào, mà gắn xen genome của mình vào
nhiễm sắc thể của tế bào, được gọi là chu trình tiềm tan. DNA của
virus ở trạng thái tiềm tan gọi là provirus (nếu ở phage thì gọi là
prophage), còn bản thân virus có khả năng tiến hành cả 2 quá trình tan và
tiềm tan được gọi là virus ôn hoà (ví dụ phage
l).
Dưới tác động của yếu tố ngoại cảnh (bức xạ, hoá chất) genome virus thoát
khỏi nhiễm sắc thể để tiến hành chu trình tan.
19.1.2. Tác động của virus
lên tế bào
Virus có thể tác động lên tế
bào theo 4 cách:
(1) Gây chết tế bào.
Virus nhân lên gây huỷ hoại tế bào, gọi là hiệu ứng gây huỷ hoại tế bào CPE
(cytopathic effect) dẫn đến làm tan tế bào.
(2)
Chuyển dạng (transformation). Virus gây nhiễm nhưng không gây
chết tế bào mà chuyển dạng tế nào từ trạng thái bình thường sang trạng thái
biến đổi mang đặc điểm của tế bào u ác tính.
(3)
Nhiễm tiềm ẩn (latent infection). Virus xâm nhập và tồn tại
trong tế bào ở dạng tiềm ẩn, không có tác động rõ rệt nào đến chức năng của
tế bào. Những người nhiễm virus tiềm ẩn không biểu hiện triệu chứng.
(4)
Hấp phụ hồng cầu (haemadsorption). Một số virus có protein
trên bề mặt (haemagglutinin) có khả năng kết dính hồng cầu để gây ngưng kết.
Trong tế bào nuôi cấy mô, các virus này tạo ra chất ngưng kết
(haemagglutinin) trên bề mặt tế bào nhiễm, nên cho hồng cầu vào chúng sẽ bị
kết dính.
19.1.3. Tổng quan về quá
trình nhân lên của virus
Quá trình nhân lên của virus
trong tế bào bao gồm 7 bước:
1-
Hấp phụ
(adsorption)
2-
Xâm
nhập và cởi vỏ (penetration và uncoating)
3-
Phiên
mã (transcription) tạo mRNA của virus
4-
Dịch mã
(translation) mRNA để tạo protein virus
5-
Sao
chép (replication) genome
6-
Tự lắp
ráp (maturation) protein với genome để tạo virion
7-
Giải
phóng (release) ra khỏi tế bào
Nếu các bước 3, 4, 5 nhập vào
một bước gọi là bước tổng hợp các thành phần (biosynthesis)
thì quá trình nhân lên còn 5 bước.
Ở một số virus, quá trình nhân
lên không treo trình tự như trên mà xảy ra đồng thời. Ví dụ cùng lúc đều
tiến hành phiên mã, dịch mã, sao chép, lắp ráp và chui ra khỏi tế bào.
19.1.3.1. Virus động vật
19.1.3.1.1. Sự hấp phụ
Virus gắn vào thụ thể
(receptor) đặc hiệu nằm trên màng sinh chất của tế bào chủ, theo nguyên tắc
khoá – chìa. Một số virus còn gắn thêm vào các đồng thụ thể (co-receptor).
Sự hấp phụ xảy ra tốt nhất ở 37oC.
Virus gắn được vào các thụ thể
là nhờ các liên kêt hoá học như liên kết hydro, ion, Vander Waals, nhưng
không có liên kết đồng hoá trị.
Vị trí gắn:
Virus có các vị trí khác nhau
chứa protein gắn vào thụ thể của tế bào.
Virus trần có vị trí gắn nằm
trên bề mặt capsid, đôi khi nằm sau bên trong (ví dụ virus polio) hoặc đôi
khi là đỉnh của khối đa diện (virus lở mồm long móng). Ở virus adeno, vị trí
gắn là đầu mút của các sợi mọc ra từ đỉnh capsid khối đa diện. Đối với virus
có vỏ ngoài, vị trí gắn là các gai glycoprotein bề mặt.
19.1.3.1.2. Xâm nhập và cởi
vỏ
Sau khi gắn vào thụ thể, virus
phải vượt qua màng sinh chất để xâm nhập vào tế bào theo một trong 2 cơ chế
nhập bào hoặc dung hợp.
1.
Nhập bào: Cả virus trần và virus có vỏ ngoài đều có thể xâm nhập theo
lối nhập bào.
Cơ chế chung bao gồm việc
virion gắn vào màng sinh chất nơi mặt trong được bao phủ bởi lớp clathrin
(protein dạng sợi tạo thành mạng lưới với các mắt hình đa giác). Virion ấn
sâu vào màng tạo hốc rồi khép lại tạo thành túi nội bào hay endosome được
lớp clathrin bao phía ngoài. Kênh proton của màng endosome vận chuyển H+
vào trong làm cho pH trong endosome giảm xuống ( pH 4.5 - 5). Endosome sẽ
dung hợp với lysosom. Trước khi dung hợp, lớp clathrin bị loại bỏ. pH thấp
hoạt hoá enzyme phân giải capsid. Cũng như màng endosome ở một số virus, pH
thấp trong endosome dẫn đến việc dung hợp vỏ capsid với màng endosome, làm
vỡ vỏ capsid và giải phóng genome.
2. Dung hợp:
Khác với virus trần, chỉ có xâm nhập vào tế bào theo lối nhập bào, các virus
có vỏ ngoài có thể vào tế bào theo cả 2 cách.
Virus có vỏ ngoài có thể vào tế
bào theo cách dung hợp vỏ ngoài virus với màng sinh chất vì chúng có cùng
bản chất. Khi 2 màng hoà nhập sẽ đứt ra, nucleocapsid sẽ được chuyển vào tế
bào chất. Sự dung hợp này xảy ra với sự tham gia của protein dung hợp
(protein F).
Như trên đã nói, virus có vỏ
ngoài cũng có thể xâm nhập vào tế bào theo lối nhập bào. Vỏ ngoài virus bám
vào thụ thể sau đó ấn lõm tạo endosome. Khi pH trong endosome giảm gai
protein F sẽ chồi lên cắm vào màng endosome như chiếc neo, kéo vỏ ngoài
virus sát với màng endosome và tiến hành dung hợp.

Hình 19.1: Sự nhập bào theo
kiểu thực bào, tạo endosome
Bơm proton làm giảm pH trong
endosome, hoạt hoá sự dung hợp giữa vỏ ngoài virus với màng endosome (1b),
hoặc hoạt hoá enzyme làm tan màng endosome (2). Dung hợp xảy ra trên bề mặt
tế bào giữa vỏ ngoài virus với màng sinh chất.
19.1.3.1.3. Sự vận chuyển
genome virus vào nhân
Hầu hết virus RNA ở eukaryota
tiến hành sao chép trong tế bào chất, vì chúng có thể mã hoá cho tất cả các
enzyme cần cho sao chép genome mà không cần đến các enzyme của tế bào nằm
trong nhân. Virus cúm A là ngoại lệ, chúng cần bộ máy cắt nối của tế bào nên
genome của chúng phải được đưa vào nhân.
Virus retro cũng là virus RNA,
nhưng tiến hành sao chép trong nhân. Thoạt đầu chúng nhờ enzyme phiên mã
ngược tổng hợp DNA trên khuôn RNA trong tế bào chất, sau đó nằm đợi cho đến
khi tế bào bắt đầu phân chia (giai đoạn M), màng nhân tạm thời bị vỡ, DNA
cùng với protein liên kết lúc đó mới vào được trong nhân. Do đó virus này
chỉ nhân lên được ở giai đoạn tế bào đang phân chia.
Hầu hết virus DNA tiến hành sao
chép trong nhân, ngoại trừ virus pox và irido có thể sao chép trong tế bào
chất. Đối với virus sao chép trong nhân, protein cấu trúc của chúng có trình
tự bám được vào vi ống (microtubule). Vi ống là các ống rỗng, đường kính 25
nm, là thành phần của bộ khung tế bào, có chức năng nâng đỡ và neo giữ nhiều
thành phần của tế bào và được ví như đường ray để vận chuyển vật chất hoặc
bào quan tới một vị trí nhất định trong tế bào. Một đầu vi ống được ký hiệu
là (+) và một đầu ký hiệu là (-). Đầu (+) nằm gần màng sinh chất, còn đầu
(-) nằm gần nhân. Một protein gọi là proetin vận chuyển (motor protein) tự
nó di chuyển và chở các chất cũng như bào quan dọc theo vi ống từ vùng ngoại
vi của tế bào tới vùng gần nhân. Các virus herpes, adeno, parvo, retro sử
dụng hệ thống này để chở nucleocapsid vào sát màng nhân.
Màng nhân được cấu tạo từ 2 lớp
lipid kép, ở đó có lỗ nhân. Hầu hết nucleocapsid có kích thước quá lớn để có
thể lọt qua lỗ nhân. Các phân tử muốn qua lỗ phải tạo phức với các protein
chuyên biệt của tế bào có chức năng mang gọi là importin để mang vào hoặc
exportin để mang ra khỏi nhân. Kênh có thể mở để cho phép các hạt có kích
thước đến 25 nm thậm chí lớn hơn đi qua, ví dụ virus nhỏ như parvo, nhưng
với virus lớn hơn thì phải cởi vỏ ở lỗ nhân.
19.1.3.1.4. Cởi vỏ cho
genome
Cởi toàn bộ hoặc một phần vỏ để
giải phóng genome ra khỏi vỏ capsid. Tuỳ loại virus mà quá trình có thể diễn
ra tại các vị thí khác nhau:
·
Trên bề
mặt tế bào, capsid rỗng nằm lại bên ngoài tế bào.
·
Cởi vỏ
bên trong tế bào chất.
·
Cởi vỏ
tại lỗ nhân.
·
Cởi vỏ
bên trong nhân.
Cần nhớ rằng virus xâm nhập
thành công vào tế bào không có nghĩa là chúng luôn luôn nhân lên được. Tế
bào cũng có cơ chế bảo vệ chống lại virus, ví dụ enzyme từ lysosom có thể
làm bất hoạt virus trước và sau cởi vỏ; interferon cảm ứng tạo protein độc
ức chế sự nhân lên của virus. Một số virus nhiễm ở dạng tiềm ẩn, chúng không
nhân lên, nhưng genome vẫn còn nguyên vẹn và vẫn có tiềm năng nhân lên.
19.1.3.1.5. Tổng hợp các
thành phần
Sau khi xâm nhận vào tế bào,
pha đầu tiên của chu trình nhân lên gọi là pha ẩn. Ở giai đoạn này không
phát hiện được bất kỳ virus nào. Đây là đặc điểm chỉ thấy có ở virus. Sự
biểu hiện của genome được bắt đầu rất sớm, ngay sau khi virus xâm nhập vào
tế bào. Có 4 quá trình xảy ra trước khi hạt virus được lắp ráp:
(1)
Phiên
mã tạo mRNA
(2)
Dịch mã
sớm tạo protein phi cấu trúc – đó là các enzyme dùng cho sao chép
(3)
Sao
chép tạo genome
(4)
Dịch mã
muộn tạo protein cấu trúc để cấu tạo capsid và vỏ ngoài
(1) -Phiên mã tạo mRNA
a- Phiên mã genome virus
Thông thường phiên mã là quá
trình truyền thông tin di truyền từ DNA sang RNA nhờ enzyme RNA polymerase
(chính xác hơn là RNA polymerase phụ thuộc DNA), tuy nhiên genome của virus
có thể là RNA, cho nên ở virus phiên mã đơn giản chỉ là quá trình truyền
thông tin di truyền từ genome sang mRNA. Có 3 loại RNA polymerase: RNA
polymerase I phiên mã rRNA, RNA polymerase II phiên mã các gen mã hoá
protein và RNA polymerase III phiên mã rRNA 5S, tRNA và các RNA nhỏ bé khác.
Dựa vào quá trình phiên mã, tạo
ra mRNA mà David Baltimore đã phân loại tất cả virus thành 7 nhóm như đã nêu
ở phần phân loại: (1) Virus DNA kép, (2) virus DNA đơn (+/-), (3) virus RNA
kép, (4) Virus RNA (+), (5) virus RNA (-), (6) virus RNA phiên mã ngược và
(7) virus DNA phiên mã ngược.
Acid nucleic sợi đơn (DNA hoặc
RNA) có trình tự nucleotide giống với trình tự nucleotide của mRNA quy ước
là sợi (+), ngược lại có trình tự tương bù với mRNA được quy ước là sợi (-).
Nhóm I.
Virus DNA kép hầu hết tiến hành phiên mã trong nhân, sử dụng RNA polymerase
phụ thuộc DNA (tức là RNA polymerase II) của tế bào. Đối với virus DNA kép
thì không phân biệt sợi (+) và sợi (-) mà gọi là sợi trái (L) và sợi phải
(R), bởi vì genome của hầu hết các virus này có khung đọc mở (ORF) theo cả 2
hướng. Một số virus DNA phiên mã trong tế bào chất (ví dụ virus pox), sử
dụng RNA polymerase phụ thuộc DNA do virus mã hoá.
Nhóm II.
Virus DNA đơn (+) hoặc (-), tất cả đều phiên mã trong nhân và sử dụng RNA
polymerase II của tế bào. Cả virus DNA (+) và DNA (-) khi phiên mã tạo mRNA
đều phải qua giai đoạn trung gian DNA kép, dạng sao chép, viết tắt là RF
(replicative form).
Nhóm III.
Virus RNA kép, tất cả đều phiên mã trong tế bào chất, sử dụng enzyme RNA
polymerase phụ thuộc RNA do virus mã hoá để tạo mRNA.
Nhóm IV.
Virus RNA (+) có chức năng của mRNA trước khi phiên mã phải dich mã để tạo
RNA polymerase phụ thuộc RNA của riêng mình sau đó mới phiên mã tạo mRNA.
Nhóm V.
Virus RNA (-) không phân đoạn phiên mã trong tế bào chất, sử dụng RNA
polymerase phụ thuộc RNA do chúng mang theo. Virus RNA (-) phân đoạn (ví dụ
virus cúm) tuy phiên mã trong nhân nhưng chúng sử dụng RNA polymerase thụ
thuộc RNA mang theo, vì tế bào không có enzyme này.
Nhóm VI.
Virus retro phiên mã ngược, gồm 2 giai đoạn: Lúc đầu phiên mã genome RNA (+)
thành cDNA (-) tiến hành trong tế bào chất nhờ enzyme phiên mã ngược của
virus, sau đó DNA vào nhân tích hợp với nhiễm sắc thể của tế bào và tiến
hành phiên mã tạo mRNA nhờ enzyme RNA polymerase phụ thuộc DNA của tế bào.
Nhóm VII.
Virus DNA kép phiên mã ngược, ví dụ HBV, tiến hành phiên mã trong nhân dùng
enzyme RNA polymerase phụ thuộc DNA của tế bào để tạo RNA (+) tiền genome,
sau đó ra khỏi nhân, dùng enzyme phiên mã ngược của virus để phiên mã RNA
tiền genome thành DNA (-) rồi sau đó tạo genome DNA kép.
Tất cả các virus có genome RNA
đều phiên mã trong tế bào chất trừ virus cúm. Tất cả các virus có genome RNA
(-) đều phải mang theo RNA polymerase phụ thuộc RNA để phiên mã.
b- Cải biên lý thuyết trung
tâm
Năm 1958 Francis Crick đưa ra
lý thuyết Trung tâm (Central Dogma), theo đó dòng thông tin di truyền luôn
đi từ DNA mRNA Protein.

Những kiến thức về virus đã đưa
đến sự cải biến lý thuyết trung tâm. Nhiều virus có genome RNA được sao
thành RNA và một số có genome RNA được phiên mã ngược thành DNA.

c- Promoter và enhancer
Trong promoter của nhiều tế bào
eukaryota và virus có trình tự chung (consensus) sau: TATAA/TAA/TA/G. Không
phải promoter nào cũng có trình tự giống hệt nhau mà có thể sai lệch, nên
gọi là trình tự chung. Trình tự TATAA còn gọi là hộp TATA hay hộp Pridnow
nằm ở phía trước điểm khởi đầu phiên mã, khoảng 25-30bp. Hộp TATA chịu trách
nhiệm cho phép RNA polymerase gắn vào vùng khởi động phiên mã. Ví dụ: Hộp
TATA có trong promotor duy nhất của HIV-1, nhưng trong số 4 promoter của HBV
thì chỉ có 1 promoter chứa hộp này.
Enhancer (đoạn tăng cường) có
trình tự bám vào yếu tố phiên mã. Sự tương tác này làm tăng tốc độ phiên mã
bởi RNA polymerase II.

Hình 19.2: Phiên mã từ DNA
kép của eukaryota
d- Yếu tố phiên mã
Yếu tố phiên mã là các protein
gắn đặc hiệu vào promoter và enhancer để kiểm soát sự biểu hiện gen. Một số
virus tạo ra yếu tố phiên mã của riêng mình, ví dụ VP/6 của virus herpes
simplex, nó là một thành phần của virion và protein Tax của virus HTLV
(virus gây ung thư tế bào T ở người) được tạo ra trong tế bào nhiễm.
Một số yếu tố phiên mã của tế
bào cũng tham gia hoạt hoá hoặc kiềm chế sự phiên mã của các gen virus. Các
yếu tố phiên mã đặc hiệu mô (tissue – specific transcription factors) cần
cho một số virus mang tính đặc hiệu mô nghiêm ngặt, nghĩa là chúng chỉ nhân
lên trong một số mô nhất định.
Một số yếu tố phiên mã của tế
bào có tên là yếu tố phiên mã chung (general transcription factor) tham gia
vào sự kiểm soát biển hiện gen của nhiều loại tế bào và virus. Ví dụ yếu tố
phiên mã TFIID bám vào hộp TATA (hình 19.3).

Hình19.3: Sự bám của các yếu
tố phiên mã và RNA pol II vào hộp TATA
TFIID là một phức hợp gồm 13
polypeptide, một trong số đó là protein bám hộp TATA. Sau khi TFIID bám vào
hộp TATA là đến lượt các yếu tố phiên mã chung khác (TFIIA, TFIIB, TFIIE,
TFÌI, TFIIH) và RNA pol II bám vào.
Trong số các yếu tố phiên mã
của tế bào bám vào enhancer, có:
- AP1 và AP2 (activator protein
1 và 2) là các protein hoạt hoá.
- SP1 (stimulator protein) là
protein kích thích.
- NF-kB (nuclear factor kB) là
yếu tố nhân kB.
Hầu hết các yếu tố phiên mã này
tham gia vào quá trình phiên mã của HIV-1. Cũng như hoạt hoá sự biểu hiện
gen, các yếu tố phiên mã cũng tham gia vào sự kiềm chế biểu hiện gen.
Mọi cơ thể đều có khả năng tự
điều hoà các gen của mình. Ví dụ côn trùng có các gen khác nhau và sự biểu
hiện các gen này tuỳ thuộc việc chúng đang ở giai đoạn nào: ấu trùng, sâu
non, sâu trưởng thành hay bướm. Ở virus cũng vậy, chúng có các gen khác
nhau, biểu hiện ở các thời điểm khác nhau. Gen sớm mã hoá cho các protein
sớm, đó là các protein không cấu trúc, thường là các enzyme và gen muộn mã
hoá cho các protein muộn, đó là các protein cấu trúc, tham gia vào tạo
capsid hoặc vỏ ngoài.
e- Gắn mũ vào RNA
Ngay sau khi tổng hợp RNA và
trong lúc quá trình phiên mã còn đang tiếp tục thì hầu hết các bản phiên mã
(RNA) đã được gắn mũ ở đầu 5’. Mũ là guanosine triphosphate nối với một
nucleotide ở đầu 5’ nhờ liên kết 5’-5’, thay vì liên kết 5’-3’ như bình
thường.
Hầu hết mRNA ở tế bào eukaryota
và ở virus đều có mũ ở đầu 5’.
Mã có chức năng:
·
Giúp
mRNA vận chuyển từ nhân ra tế bào chất.
·
Bảo vệ
mRNA khỏi sự thuỷ phân của enzyme exonuclease.
·
Cần cho
khởi đầu cho dịch mã.
Enzyme thực hiện gắn mũ của tế
bào là guanylyl transferase (thêm guauosin 5’-triphosphate) và metyl
transferase (thêm nhóm metyl). Các enzyme này nằm trong nhân, nên hầu hết
các virus phiên mã trong nhân đều sử dụng. Tuy nhiên các virus phiên mã
trong tế bào chất sẽ mã hoá cho enzyme gắn mũ và enzyme metyl hoá của riêng
mình.
Virus có genome RNA (-) phân
đoạn (cúm A) cần có một cơ chế riêng để đoạt lấy mũ từ mRNA của tế bào. Phức
hợp protein của virus giúp RNA polymerase của nó gắn vào đầu 5’ của mRNA đã
gắn mũ của tế bào, sau đó nhờ hoạt tính endonuclease của phức hợp sẽ cắt một
đoạn khoảng 10-20 nucleotide (chứa cả mũ) ra khỏi đầu 5’ của mRNA. Đoạn này
sẽ được dùng làm mồi để khởi đầu phiên mã cho virus.
Không phải tất cả mRNA virus
đều có gắn mũ, mRNA của virus picorna (bại liệt) không có mũ. Đây là virus
phiên mã trong tế bào chất, nên không phải vận chuyển ra khỏi nhân. Chúng có
thể tiến hành dịch mã theo cơ chế không phụ thuộc mũ, mà nhờ đoạn IRES.
f- Gắn đuôi poly (A)
Các bản phiên mã đầu tiên của
eukaryota và virus được ngắn thêm một loạt gốc adenosin ở đầu 3’ để tạo đuôi
poly (A). Sự polyadenin hoá ở đầu 3’ làm tăng tính bền của mRNA tránh sự
phân giải của exonuclease và có vai trò nhất định trong khởi đầu dịch mã.
Tuy nhiên mRNA của một số virus
không gắn đuôi (ví dụ virus reo) nên chức năng kể trên sẽ được thực hiện
theo cách khác.
Trước vị trí gắn đuôi có một
đoạn tín hiệu gắn đuôi dài 20-30bp. Đoạn này ở SV40 là AATAAA, ở HBV là
TATAAA (giống như hộp TATA). Khi phiên mã RNA polymerase tiếp tục chạy dọc
khuôn, vượt qua tín hiệu gắn đuôi và vị trí gắn đuôi. Sợi RNA mới tổng hợp
được cắt tại vị trí gắn đuôi và các gốc adenosin được lần lượt thêm vào nhờ
phức hợp protein, trong đó có enzyme gắn đuôi (poly (A) -polymerase).
g- Cắt nối
Một số bản phiên mã có chức
năng của mRNA nhưng hầu hết còn cần phải chế biến, cắt bỏ intron để tạo
mRNA. Hơn nữa từ mRNA, bằng phương thức cắt nối (ghép đoạn này với đoạn
kia), có thể tạo ra nhiều loại mRNA khác nhau. Ví dụ bằng phương pháp cắt
nối, HIV-1 có thể tạo ra 30 loại mRNA khác nhau.
(2) -Dịch mã
Tham gia vào dịch mã gồm mRNA,
tRNA, acid amin và riboxom. Quá trình gồm 3 giai đoạn: Khởi đầu, kéo dài và
kết thúc.
Ở eukaryota, mRNA là đơn gen
(monocistron) có nghĩa là chỉ có một khung đọc, mã hoá cho 1 protein, còn ở
prokaryota, mRNA thường là đa gen (polycistron) có nhiều khung đọc và mã hoá
cho nhiều protein.
Có các vùng không mã hoá, còn
gọi là vùng không dịch mã, nằm ở phía đầu 5’ (5’-UTR) và đầu 3’ (3’-UTR).
Một khung đọc lớn có thể mã hoá
cho một polyprotein lớn sau đó được enzyme phân cắt thành các protein nhỏ
với chức năng khác nhau.

Hình 19.4: Dịch mã từ
mRNA-monocistron
Một khung đọc mở bắt đầu từ
codon khởi đầu AUG ở đầu 5’ của mRNA và kết thúc tại codon kết thúc (UGA,
UAA, UAG). Dịch mã theo hướng 5’ 3’.
Đầu N của protein được tổng hợp trước.
a- Khởi đầu dịch mã
Như đã nói trên, hầu hết mRNA
của eukaryota và virus được gắn mũ và đuôi. Các cấu trúc này có vai trò quan
trọng trong dịch mã.
- Mũ là nơi bám của các yếu tố
khởi đầu dịch mã, eIF (e = eukaryota), tRNA gắn với acid amin (Met-tRNAiMet)
và tiểu phần riboxom 40S (hình 6.)
- Một protein gọi là protein bám poly (A)
bám vào đuôi poly (A). Các protein bám vào đầu sợi RNA có khả năng tương tác
và người ta cho rằng sự tương tác này làm cho mRNA truyền tin dẫn đến sự
kích thích dịch mã.
Các mRNA không có mũ hoặc đuôi có thể truyền
tin theo cách khác.
Tiểu phần riboxom 40S di chuyển dọc theo RNA
theo hướng 5’ 3’
và quét cho đến khi gặp codon khởi đầu AUG ở đầu 5’. Tuy nhiên, một số virus
có codon khởi đầu khác. Ví dụ virus Sendai dùng codon khởi đầu là ACG cho
một số gen.

Hình 19.5: Khởi đầu dịch mã
trên mRNA có gắn mũ
a – Các yếu tố khởi đầu eIF, tiểu phần riboxom 40S và
tRNA-methionine bám vào đầu 5’ của mRNA, b - Phức hợp quét từ đầu 5’ theo
hướng 3’ của mRNA, c – khi tới codon khởi đầu AUG sẽ được anticodon UAC trên
tRNA nhận diện, tiểu phần 60S bám vào và các yếu tố eIF sẽ rời ra.
Một số mRNA không có
mũ thì sự dịch mã xảy ra theo cơ chế khác. Các eIF thay vì gắn vào mũ, chúng
gắn vào vị trí IRES (internal ribosome entry site) gọi là bến đỗ riboxom, đó
là đoạn mRNA có cấu trúc bậc 2 ở mức độ cao nằm trước khung đọc, cũng là vị
trí gắn của tiểu đơn vị riboxom 40S. Đoạn IRES có ở một số virus RNA, như
virus viêm gan C, picorna, đồng thời cũng thấy có ở mRNA của tế bào và mRNA
của một số virus khác (ví dụ virus herpes simplex, Sarcoma Rous).

Hình 19.6: Khởi đầu dịch mã
trên mRNA không gắn mũ.
Tiểu phần roboxom 40S, các eIF
bám vào vị trí IRES (bến đỗ riboxom) nằm phía trước khung đọc.
b- Dịch mã từ mRNA hai khung
đọc
Hầu hết mRNA của tế bào và của
nhiều virus chỉ có 1 khung đọc mở (ORF), nhưng một số mRNA của virus có 2
hoặc nhiều khung đọc, trong số các mRNA bicistron hoặc polycistron này có
một số có chức năng là monocistron, nhưng một số mRNA có cấu trúc là
bicistron thì cũng có chức năng là bicistron. Sự khác nhau về tỷ lệ dịch mã
của hai khung đọc quy định cơ chế biểu hiện 2 gen ở mức độ khác nhau. Ở
nhiều mRNA bicistron có khung đọc chồng lớp. Ở trường hợp khác, khung đọc
này nằm gọn trong khung đọc kia.
- Một cơ chế dùng để đọc khung thứ
2 gồm sự quét bỏ sót (leaky): Tiểu đơn vị riboxom 40S có thể quét bỏ qua
codon khởi đầu của khung đọc thứ nhất và bắt đầu dịch mã tại điểm khởi đầu
của khung đọc thứ 2. Các khung đọc cho hai protein là khác nhau nên hai
protein do chúng mã hoá là khác nhau.

Hình 19.7: Sự dịch mã của
mRNA bicistron.
a – Riboxom có thể dịch mã tại điểm khởi đầu của ORF-1
hoặc có thể quét qua codon khởi đầu của ORF-2. b – Hai codon khởi đầu là của
2 khung đọc khác nhau và protein được tổng hợp là khác nhau.c – Khung đọc 2
được dịch mã là nhờ sự dịch khung riboxom, tạo ra một dạng kéo dài của
protein 1.
- Một cơ chế khác để đọc khung đọc
thứ hai của mRNA là sự dịch khung (frameshifting) của riboxom: Riboxom nhảy
sang khung đọc khác nằm trước điểm kết thúc của khung đọc thứ 1. Do đó nó
không bị codon kết thúc của khung đọc thứ nhất nhận ra, mà tiếp tục chạy dọc
mRNA để đọc khung đọc thứ nhất kéo dài (hình 19.7c). Sự dịch khung xảy ra
khi riboxom di chuyển dọc theo RNA bắt gặp tín hiệu dịch khung (1 trình tự
chuyên biệt) có cấu trúc bậc 2, và thường là một pseudoknot (nút giả).
c-Cải biến trong và sau dịch mã
Trong hoặc sau quá trình dịch mã,
protein có thể phải qua một hoặc nhiều lần cải biến, bao gồm glycosyl hoá,
acyl hoá hoặc phosphoryl hoá.
-Glycosyl hoá
Glycosyl hoá là sự gắn thêm
nhóm oligosaccarit vào chuỗi polypeptide. Khi một oligosaccarit được gắn vào
nhóm –OH của serin hoặc treonin thì gọi là O-glycosyl hoá, còn nếu gắn vào
nhóm -NH2 của asparagin thì gọi là N-glycosyl hoá. Protein được
tổng hợp trong mạng lưới nội chất hạt, nơi bắt đầu N-glycosyl hoá, sau đó
chúng được chuyển tới bộ máy Golgi, nơi hoàn thiện N-glycosuyl hoá nhờ
enzyme α-mannosidase I và II, và galactosyl transferase. O-glycosyl hoá được
thực hiện trong bộ máy Golgi.
Có những virus chỉ cần một loại
glycosyl hoá, ví dụ HIV-1 tiến hành N-glycosyl hoá gp120 nhưng cũng có những
virus cần cả 2 loại N- và O-glycosyl hoá, ví dụ gC và gD của herpes simplex.
Các glycoprotein này được gắn vào vị trí chuyên biệt trên màng sinh chất của
tế bào và sẽ là các gai bề mặt sau này của vỏ ngoài. Virus rota không có vỏ
ngoài nhưng cũng có glycoprotein. Protein bề mặt VP7 là glycoprotein. Một số
glycoprotein của virus là protein không cấu trúc, ví dụ protein NSP4 của
virus rota.
-Acyl hoá
Acyl hoá là sự gắn thêm nhóm
acyl (R-CO-) vào phân tử protein. Nhóm acyl thường được gắn là myristyl,
trong đó R là CH3-(CH2)12- nhóm myristyl
được gắn vào glycin tại đầu N của protein. Hầu như virus không có enzyme
N-myristyl transferase để gắn nhóm myristyl, chúng phải sử dụng của tế bào.
Protein myristyl hoá gắn vào
màng sinh chất, ví dụ protein Gag của hầu hết virus retro. Nếu không được
myristyl hoá thì chúng không gắn được vào màng sinh chất và sự lắp ráp virus
sẽ không xảy ra.
-Phosphoryl hoá
Phosphoryl hoá là sự chuyển
nhóm phosphate từ một nucleotide, thường là ATP, cho oxy ở nhóm –OH của
serin, treonin hoặc tyrosin. Sự chuyển nhóm phosphate nhờ enzyme kinase của
tế bào hoặc của virus.
Sự phosphoryl hoá có thể làm
thay đổi cấu hình, hoạt tính, vị trí và độ bền của protein. Nhiều quá trình
của virus đòi hỏi protein phải được phosphoryl hoá.
c- Sự vận chuyển các phân tử
trong tế bào eukaryota
Các phân tử của virus được vận
chuyển tới các vị trí nhất định trong tế bào. Genome của virus được đưa vào
nhân nhờ trượt theo vi ống và qua lỗ nhân, mRNA virus được vận chuyển từ
nhân ra tế bào chất và các protein virus sau khi được tổng hợp có thể được
vận chuyển vào các vị trí khác nhau, kể cả vào nhân (Các virus lắp ráp trong
nhân).
Nhiều protein có một trình tự
acid amin giống như mã số vùng của bưu điện, nó quy định điểm đến của
protein. Protein đến gắn vào màng có một trình tự tín hiệu – đó là dãy các
gốc acid amin kỵ nước. Sự tổng hợp protein bắt đầu tại các riboxom tự do,
nhưng khi trình tự tín hiệu được tổng hợp thì nó sẽ hướng dẫn phức hợp
polypeptide-riboxom đi vào mạng lưới nội chất và tiếp tục tổng hợp protein
tại đó. Vùng mạng lưới nội chất có chứa riboxom vì thế gọi là mạng lưới nội
chất sần.
Mỗi một loại protein gắn vào
màng có một hoặc nhiều trình tự gắn vào màng, gọi là trình tự neo màng
(membrane anchor sequences) giàu gốc acid amin kỵ nước. Một số protein loại
này có trình tự tín hiệu hoạt động như cái mỏ neo cắm vào màng. Các protein
gắn vào màng khác, ví dụ protein vỏ ngoài của HIV-1 sẽ được chuyển qua màng
cho đến khi chạm tới trình tự neo và sau đó trình tự tín hiệu sẽ bị enzyme
của tế bào loại bỏ.
Nhiều protein được tổng hợp
trong mạng lưới nội chất hạt sẽ được tạo bọng để tới bộ máy Golgi. Hầu hết
protein gắn màng được glycosyl hoá trong các khoang màng này, sau đó được
chuyển tới các màng tế bào chất hoặc màng nhân và có thể nẩy chồi qua các
màng này.
Các tế bào biểu mô có mặt đỉnh
(ở phía ngoài) và mặt đáy (ở phía trong),
được cấu tạo từ lipid và
protein. Khi nhiễm virus có vỏ ngoài vào tế bào biểu mô chúng sẽ nảy chồi
qua màng sinh chất một cách giới hạn hoặc qua mặt đỉnh hoặc qua mặt đáy. Ví
dụ nếu là VSV (virus chốc mép), chúng sẽ nẩy chồi từ mặt đáy, còn virus cúm
A sẽ nảy chồi từ mặt đỉnh. Điều này giải thích vì sao virus cúm nhiễm vào
động vật có vú đều khu trú ở đường hô hấp.
Nếu virus nhân lên ở trong nhân
thì hầu hết (nhưng không phải tất cả) các protein virus phải được đưa vào
nhân. Cơ chế vận chuyển liên quan đến sự nhận diện của tín hiệu định vị nhân
(NLS-nuclear localization signal) nằm trên protein của tế bào, gọi là
importin, sau đó gắn vào các sợi (fibril) mọc ra từ phức hợp lỗ nhân để vận
chuyển qua lỗ nhân.
(3) - Sao chép genome của
virus
Đây là bước thứ 5 của chu trình
nhân lên. Nhìn chung virus DNA và virus RNA sao chép trực tiếp genome của
mình thành RNA. Tuy nhiên một số virus DNA khi sao chép cần qua trung gian
RNA và một số virus RNA cần qua trung gian DNA.
Các virus DNA tiến hành sao
chép trong nhân (trừ virus pox). Các virus có genome nhỏ (virus papilloma)
sử dụng DNA polymerase của tế bào, còn virus có genome lớn (ví dụ herpes)
thì mã hoá cho enzyme của mình.
Các virus RNA tiến hành sao
chép trong tế bào chất (trừ virus cúm và retro), sử dụng enzyme do chúng mã
hoá. Trong hầu hết trường hợp, sao chép và phiên mã là một. Enzyme dùng cho
sao chép cũng là enzyme dùng cho phiên mã.
(1)
Virus
DNA kép sao chép trong nhân theo cơ chế bán bảo tồn như ở tế bào, sử dụng
enzyme DNA polymerase phụ thuộc DNA của tế bào. Tuy nhiên virus pox là virus
DNA kép, sao chép trong tế bào chất sử dụng enzyme DNA polymerase do chúng
mã hoá.
(2)
Virus
DNA đơn (+ hoặc -) tất cả đều sao chép trong nhân, sử dụng DNA polymerase
của tế bào và phải qua giai đoạn trung gian tạo sợi DNA kép, gọi là dạng sao
chép (RF-replicative form). Tư RF sao chép tạo genome.
(3)
Virus
RNA kép (ví dụ virus rota) luôn có genome phân đoạn, sao chép trong tế bào
chất và sử dụng enzyme RNA polymerase phụ thuộc RNA do chúng mã hoá.
(4)
Virus
RNA đơn, (+) khi sao chép phải qua bước tạo RNA (-) trung gian làm khuôn để
tổng hợp genome RNA (+). Genome ban đầu được dùng làm mRNA để tổng hợp RNA
polymerase.
(5)
Virus
RNA đơn, (-) sao chép trong tế bào chất, sử dụng enzyme RNA polymerase phụ
thuộc RNA (RNA-replicase) do chúng mang theo để tổng hợp sợi RNA (+) trung
gian làm khuôn tổng hợp genome (-).
Virus RNA (-) phân đoạn (ví dụ
virus cúm) sao chép trong nhân, sử dụng RNA polymerase phụ thuộc RNA do
chúng mang theo.
(6)
Virus
RNA (+) phiên mã ngược (ví dụ HIV), trước hết dùng enzyme phiên mã ngược của
virus (DNA polymerase phụ thuộc RNA) để tạo DNA kép trong tế bào chất, sau
đó vào nhân gắn vào nhiễm sắc thể của tế bào rồi từ đó sao chép tạo genome
RNA nhờ enzyme RNA polymerase phụ thuộc DNA của tế bào.
(7)
Virus
DNA kép phiên mã ngược (ví dụ HBV). muốn sao chép phải qua bước trung gian
tạo RNA tiền genome trong nhân, dùng enzyme RNA polymerase phụ thuộc DNA của
tế bào. RNA mới sinh ra khỏi nhân làm khuôn để tổng hợp sợi DNA (-) (sợi L)
nhờ enzyme phiên mã ngược của virus. Từ sợi DNA (-) làm khuôn tổng hợp sợi
DNA (+) tương bù do enzyme của virus mã hoá.
a- Khởi đầu sao chép
Mỗi genome virus có một trình
tự đặc biệt, tại đó bắt đầu sao chép acid nucleic của virus. Khi sao chép
cần gắn mồi. Đó là phản ứng đầu tiên của một nucleotide với nhóm –OH tại vị
trí khởi đầu sự sao chép genome của nhiều virus (ví dụ rota, rhabdo) bắt đầu
khi nucleotide đầu tiên của sợi mới bắt cặp với 1 nucleotide trong RNA của
virus. Nucleotide đầu tiên hoạt động có hiệu quả như một mồi để sao chép
RNA, khi nhóm 3’-OH của nó gắn với nucleotide thứ 2.
Một số virus DNA đơn (ví dụ
virus parvo) sử dụng cách tự tạo mồi. Đầu 3’ của DNA có các trình tự tương
bù, nên có thể gập lại, bắt cặp với nhau tạo đầu 3’-OH thay cho mồi.
Để khởi đầu sao chép, nhiều
genome DNA và một số genome RNA của virus dùng một phân tử RNA hoặc protein
làm mồi.
b- RNA mồi và protein mồi
Sự tổng hợp DNA của tế bào được
bắt đầu sau khi một vùng xoắn kép được mở xoắn tạo bong bóng nhờ enzyme
helicase và sau khi enzyme primase tổng hợp một đoạn RNA ngắn làm mồi. Cần
một mồi cho sợi dẫn đầu và nhiều mồi cho tổng hợp các đoạn Okaseki của sợi
muộn (sợi sau). Nucleotide đầu tiên của DNA mới gắn vào 3’-OH của RNA mồi.
Một số virus DNA dùng mồi RNA
để sao chép genome. Một số (ví dụ virus polymase) dùng primase của tế bào để
tổng hợp mồi. Số khác (ví dụ virus herpes và phage T7) lại mã hoá cho
primase của riêng mình. Virus retro dùng tRNA của tế bào làm mồi khi ở ngoài
tế bào chất, nhưng khi cài xen genome của mình vào nhiễm sắc thể của tế bào
nên để sao chép, chúng dùng mồi do primase của tế bào tổng hợp.
Một số virus động vật sử dụng
protein làm mồi, trong đó có virus DNA như virus adeno và virus RNA như
picorna. Nhóm 3’-OH của serin hoặc tyrosin trong protein sẽ gắn với
nucleotide sợi mới.
Virus hepDNAa (ví dụ HBV) là
virus DNA kép, dùng mồi là protein để khởi đầu tổng hợp sợi DNA (-) và mồi
RNA để khởi đầu tổng hợp DNA (+). Mồi protein và mồi RNA của virus hepDNAa
không bị cắt bỏ sau khi vai trò của chúng đã hoàn tất mà vẫn được dính vào
đầu 5’ của genome.
c- Sao chép DNA
Mỗi DNA virus có ít nhất một
trình tự chuyên biệt để bắt đầu sao chép gọi là trình tự khởi đầu (Ori). Các
protein khởi đầu sao chép DNA bám vào vị trí này bao gồm:
- Helicase bám vào vị trí để
tháo xoắn.
- Một số protein bám sợi DNA
đơn, giữ cho 2 sợi không bắt cặp lại với nhau.
- Một DNA polymerase.
Về cơ bản quá trình sao chép
DNA của virus giống như của tế bào. Ở vi khuẩn, số enzyme tham gia ít hơn so
với ở eukaryota. Ví dụ helicase-primase của phage T7 (ở E.coli) chỉ
là 1 phân tử, trong khi của virus herpes simplex (ở tế bào động vật) là một
phức hợp gồm 3 loại protein.
Sự tổng hợp DNA diễn ra gần
chạc sao chép. Một trong 2 sợi là sợi dẫn đầu, sợi còn lại là sợi muộn, được
tổng hợp thành các đoạn Okaseki sau đó nối lại với nhau nhờ DNA-ligase. Sợi
DNA kép mới tạo thành có chứa một mạch của sợi mẹ. Cách sao chép này gọi là
bán bảo tồn. Ngược lại với nó là sao chép bảo tồn xảy ra ở một số virus.
Một số genome DNA là phân tử
dạng thẳng trong khi một số khác lại là dạng khép vòng. Một số phân tử dạng
thẳng khi sao chép lại được khép vòng, cho nên nhiều genome virus được sao
chép như là một phân tử vòng tròn. Từ đây có 2 phương thức sao chép.
- Sao chép theo cơ chế theta
hay dạng mắt. Từ vị trí Ori tạo ra 2 chạc ba sao chép. Sao chép cùng lúc
theo 2 chiều thuận nghịch kim đồng hồ.
- Sao chép theo cơ chế xích ma
(d).
Phân tử DNA kép dạng vòng gồm sợi ngoài (+) và sợi trong (-). Sợi ngoài bị
cắt đứt ở liên kết photphodiete tạo ra đầu 3’-OH tự do (gọi là điểm sinh
trưởng) Sợi trong xoay được dùng làm khuôn. Các nucleotide nối vào đầu 3’-OH
để tạo ra 1 sợi DNA mới. Từ sợi DNA mới này lại được gắn mồi tổng hợp mạch
bổ sung tạo DNA kép.
Một số virus lúc mới nhiễm sao
chép theo cơ chế theta nhưng ở giai đoạn sau lại theo cơ chế xích ma (ví dụ
phage
fx174).
Một số virus DNA như virus
herpes và phage T4, kết quả sao chép tạo ra phân tử DNA rất lớn gọi là phân
tử trùng lặp (concateme). Mỗi concateme cấu tạo gồm nhiều bản sao genome nối
với nhau. Trước khi lắp ráp vào virion concateme sẽ được phân cắt thành các
phân tử có kích thước và trình tự của genome.
(4) -Lắp ráp
Lắp ráp là sự tự kết nối các
thành phần virus để tạo ra virion hoàn chỉnh đòi hỏi phải có cấu trúc bền
vững, tồn tại được trong môi trường như là một thực thể có khả năng gây
nhiễm, tuy nhiên cũng đòi hỏi khi vào trong tế bào cấu trúc này phải không
bền vững thì mới có thể giải phóng dễ dàng genome vào tế bào chất. Do vậy
virion phải có cơ chế đóng mở kiểu “công-tắc” để có thể biến đổi từ trạng
thái bền vững sang trạng thái không bền vững. Công tắc này liên quan đến
việc gắn vào receptor hoặc sự thay đổi pH trong endosome.
Khi số lượng genome và protein
cấu trúc được tích luỹ đến ngưỡng thì chúng sẽ tiến hành lắp ráp tạo
nucleocapsid.
1.
Virus
có cấu trúc dạng xoắn: Đối với virus RNA đơn có cấu trúc dạng xoắn, lúc đầu
một số phân tử protein cấu trúc sẽ bám theo chiều xoắn của genome RNA, sau
đó các phân tử khác lần lượt bám theo cho đến khi phủ hết RNA.
2.
Virus
có cấu trúc dạng khối đa diện: Trước hết cần phải lắp ráp một cấu trúc rỗng
hình cầu gọi là procapsid. Genome virus chui vào procapsid, sau đó cải biến
từ cấu trúc hình cầu sang hình khối đa diện; ví dụ các virus adeno, picorna
thực hiện cải biến bằng cách cắt bớt 1 hoặc nhiều protein cấu trúc.
Genome chui vào trong procapsid
qua kênh nằm ở vị trí mà sau này sẽ là đỉnh của khối đa diện. Bất kỳ enzyme
nào tham gia vào đóng gói genome cũng nằm ở vị trí này. Ở tế bào thực khuẩn
cũng như vậy, trước hết cũng phải tạo một “tiền đầu” (prohead) sau đó genome
chui qua 1 cái cổng nằm ở một đỉnh. Vị trí này cũng có chức năng nối với
đuôi.
a- Đóng gói genome
Trong tế bào có rất nhiều acid
nucleic, của cả virus và tế bào. Vậy làm thế nào để genome của virus lại
được lựa chon và lắp ráp chứ không phải của tế bào? Sở dĩ như vậy vì virus
có một protein chuyên biệt, nhận diện tín hiệu đóng gói, nằm ở vùng có cấu
trúc bậc hai của genome. Hầu hết virus có genome sợi đơn có thể đóng gói
hoặc sợi dương hoặc sợi âm, nên tín hiệu đóng gói phải có duy nhất ở sợi cần
được đóng gói. Genome được nén trong thể tích nhỏ. Virus DNA kép có kích
thước lớn như virus herpes, đóng gói genome chặt đến nỗi tạo áp suất lớn gấp
10 lần so với áp suất trong chai rượu sâm – banh.
b- Cơ chế lắp ráp
Trước đây Fraenkel-Conrat đã
tách genome ra khỏi capsid của virus đốm thuốc lá, sau đó lại lắp ráp chúng
với nhau trong điều kiện pH và sự có mặt của một số ion nhất định, để tạo
virus hoàn chỉnh. Với các virus đơn giản, chỉ chứa 1 acid nucleic và một số
ít loại protein thì có thể tự lắp ráp một cách đơn giản như trên. Nhưng với
các virus phức tạp, như virus herpes và phage có đuôi, thì không thể tái lắp
ráp như vậy. Chúng cần phải được lắp ráp trực tiếp trong môi trường của tế
bào nhiễm. Khi lắp ráp cần phải có mặt tạm thời 1 protein dùng làm giàn
giáo. Các protein cấu trúc theo đó mà lắp vào để tạo capsid. Khi công việc
hoàn tất, protein giàn giáo bị loại bỏ khỏi virion hoặc bằng enzyme phân
giải hoặc giữ lại để tái sử dụng.
c- Sự tạo màng virion
Vỏ ngoài virus có thể được tạo
thành theo 1 trong 2 cơ chế: Cải biến màng sinh chất của tế bào rồi
nảy chồi ra ngoài hoặc tự tổng hợp màng mới bao quanh nucleocapsid.
-Cải biến màng sinh chất
Vỏ ngoài của virus thường có
nguồn gốc từ màng sinh chất, được cuốn theo khi virus nảy chồi. Vùng màng mà
virus sẽ nảy chồi được đính trước 1 hoặc nhiều loại protein đặc hiệu của
virus, thường là glycoprotein, các protein này ngâm trong lớp lipid kép.
Protein M của virus (các phân tử protein này gắn với nhau tạo thành màng đệm
– M) tập trung nhiều ở vùng màng, có ái lực với nhau và đẩy protein tế bào
ra khỏi màng. Đôi khi protein tế bào không bị đẩy ra hết nên chúng có thể
tham gia vào thành phần vỏ ngoài. Ví dụ vỏ ngoài của virus HIV-1 có chứa
protein MHC-II (phức hợp hoà hợp mô chính) của tế bào. Trước khi nảy chồi,
protein M tới gắn vào phần đuôi nằm trong tế bào chất của glycoprotein xuyên
màng, sau đó nucleocapsid tiến đến bám vào màng M. Nucleocapsid khi nảy chồi
sẽ cuốn theo màng tế bào chất và màng M để tạo vỏ ngoài. Không phải tất cả
các virus đều có màng M. Ví dụ ở trường hợp virus sốt vàng thì bề mặt
nucleocapsid sẽ gắn trực tiếp vào đuôi glycoprotein trong màng.
-Tổng hợp mới màng virus
Chỉ có một số ít virus tạo màng
lipid muộn trong quá trình nhân lên. Màng này có thể tham gia hình thành vỏ
ngoài (ví dụ virus pox) hoặc nằm trong nhân tạo 1 lớp phía mặt dưới của
capsid (ví dụ virus irido).
Khi nhân lên virus baculo tạo
ra 2 loại virion có vỏ ngoài: Loại thứ nhất có chức năng lây nhiễm sang tế
bào khác trong vật chủ. Loại này có được vỏ ngoài là do nảy chồi qua màng
sinh chất. Loại virion thứ hai có chức năng gây nhiễm vào vật chủ mới, vỏ
ngoài của nó bao quanh nucleocapsid nằm trong nhân dẫn đến các virion hợp
nhất với nhau trong một bọc gọi là thể bọc (occlusion body). Thể bọc giúp
virus tránh tác động của môi trường bên ngoài, nên virus có thể duy trì rất
lâu ngoài tế bào sống.
(5) -Giải phóng virus khỏi
tế bào
Đây là giai đoạn cuối cùng của
chu trình nhân lên. Nhiều virus được giải phóng khi tế bào bị nổ tung, do
thành tế bào bị phân giải, cộng với áp lực lớn trong tế bào. Ví dụ nhiều
phage, peptidoglycan bị phân giã dẫn đến làm vỡ tế bào. Số khác lại có khả
năng tổng hợp protein ức chế enzyme tham gia vào tổng hợp thành tế bào, làm
cho thành tế bào yếu đi nên dễ bị vỡ.
Số lượng virus được tạo thành
qua mỗi mẻ là rất lớn. Trong tế bào E.coli có kích thước nhỏ bé,
phage T4 có kích thước lớn tạo ra được 200 virion. Virus picorna có kích
thước rất nhỏ khi nhiễm vào tế bào động vật có kích thước lớn đã tạo ra đến
100.000 virion.
Một số virus không làm tan tế
bào mà chỉ chui ra từ từ theo lối nảy chồi, số khác chui ra thông qua việc
tạo thành túi hay bọng từ màng lưới nội chất hoặc bộ máy Golgi. Màng bọng
dung hợp với màng tế bào chất và đẩy virus ra ngoài. Ở các trường hợp này,
tế bào vẫn còn sống thêm một thời gian nữa.
19.1.3.2.Phiên mã và dịch
mã ở Prokaryota
19.1.3.2.1. Phiên mã ở
Prokaryota
Sự phiên mã ở các tế bào
prokaryota có những đặc điểm sau:
- Chỉ cần một loại RNA
polymerase để tổng hợp tất cả các loại RNA.
- mRNA là đa gen
(polycistron) có nhiều khung đọc, tất cả các khung đọc đều có thể được dịch
mã cùng một lúc.
- mRNA không gắn mũ và
đuôi poly (A).
- Phiên mã được thực
hiện khi RNA-polymerase bám vào promoter. Sự tổng hợp bắt đầu từ điểm xuất
phát, thường là TAC, nằm sau điểm bám 7-8 base nằm phía đầu 3’ của khuôn.
- Phiên mã tiếp tục
cho đến khi đọc qua trình tự kết thúc. Khi kết thúc, RNA polymerase và mRNA
rời khỏi mạch khuôn.
- Quá trình phiên mã
và dịch mã xảy ra đồng thời.
RNA-polymerase của
E.coli là một phức hợp gồm 5 tiểu đơn vị là ααbb’
và
d.
d
(xích ma) có thể tách ra khỏi enzyme lõi. ααbb’
(enzyme lõi) là yếu tố xác định tính đặc hiêu của promoter.
Promoter là vùng khởi động. Nếu ký hiệu base
đầu tiên phiên mã thành mRNA (thường là adenin) là +1 thì các base nằm phía
trước theo hướng ngược chiều phiên mã sẽ ký hiệu là (-). Promoter gồm 2
trình tự một trình tự là TATAAT cách điểm khởi đầu 5-8 base và có base trung
tâm là -10. Trình tự này gọi là hộp TATA hay Pridnow và một trình tự nữa là
TTGACA, có base trung tâm là -35 (nằm trước điểm khởi đầu 35 bp).
Vùng -35 tham gia vào việc gắn
RNA polymerase

Cụ thể là ngay trước vùng -35
của một số promoter còn có thêm yếu tố UP để cho tiểu đơn vị
a
của RNA polymerase nhận diện và tăng cường sự bám của enzyme. Khi khởi đầu
phiên mã hoàn thành, yếu tố
a
sẽ rời ra để tái sử dụng.
Phiên mã kết thúc sau khi một
trình tự kết thúc được phiên mã. Sự kết thúc có thể theo cơ chế phụ thuộc
hay không phụ thuộc yếu tố
r
(rho).
- Kết thúc phiên mã
không phụ thuộc rho được đặc trưng bởi trình tự giàu G-C trên DNA. Trình
tự này đối xứng 2 bên, có thêm 5 hoặc 6 adenin kèm theo. RNA được phiên mã
từ trình tự này có thể tạo ra cấu trúc nút vòng có cuống (stem loop) và cấu
trúc nối A-U hình thành trong sợi lai DNA-RNA (DNA khuôn và RNA mới sinh).
Đoạn lặp lại oligo A với oligo U bắt cặp không bền vững nên RNA có thể tách
khỏi DNA khuôn. Sau đó sợi DNA kép được hình thành trong “bong bóng phiên
mã”. Lõi của enzyme RNA polymerase có ái lực thấp với DNA kép nên được tách
ra.

Hình 19.8: Cấu trúc bậc 2 ở
đầu 3’ của RNA ở operon E.coli.
- Kết thúc phiên mã
phụ thuộc yếu tố rho cần phải có yếu tố rho. Đó là protein gồm có 6 tiểu
đơn vị có ái lực cao với RNA đơn, có hoạt tính helicase và ATP-ase để tháo
xoắn sợi lai DNA-RNA. Khi bám vào RNA, yếu tố rho sẽ phân giải ATP. Năng
lượng được giải phóng giúp nó chuyển dọc sợi RNA mới sinh tới bong bóng
phiên mã, sau đó yếu tố rho tách đôi DNA-RNA và giải phóng RNA.
Gen của virus và vi khuẩn ít khi
có intron. Một số phage dùng RNA pol phụ thuộc DNA của tế bào vật chủ để
phiên mã, trong khi số khác lại tự tổng hợp enzyme này cho riêng mình.

Hình 19.9: Mô hình kết thúc
phiên mã phụ thuộc yếu tố Rho ở E. Coli
19.1.3.2.2. Dịch mã ở
prokaryota
Dịch mã ở vi khuẩn có các đặc điểm
sau:
- Dịch mã có thể được bắt
đầu trước khi kết thúc phiên mã. Do không có nhân nên phiên mã và dịch mã
xảy ra đồng thời.
- Riboxom 70S gồm 2 tiểu phần
là 50S và 30S.
- mRNA không có mũ
nhưng có trình tự SD (Shine DalgRNAo) nằm trước vị trí khởi đầu dịch mã AUG
và bắt cặp với đoạn 3’RNA riboxom 16S trong tiểu phần 30S.
- Methionine của tRNA
đầu tiên thường được metyl hoá (fMet-tRNAiMet).
- Chỉ cần một lượng
rất ít các yếu tố khởi đầu.
- mRNA có nhiều khung
đọc (polycistron). Tất cả các khung đọc đều được dịch mã cùng lúc.

Hình 19.10: Quá trình nhân
lên của virus trong tế bào vật chủ

Hình 19.11: Sự xâm nhập của
thực khuẩn thể vào tế bào vi khuẩn
19.2. GIỚI THIỆU TÓM TẮT QUÁ
TRÌNH NHÂN LÊN CỦA MỘT SỐ VIRUS ĐIỂN HÌNH
19.2.1. Virus DNA
4 họ đại diện là: Adenoviridae,
Herpesviridae, Papovaviridae và Parvoviridae.
19.2.1.1. Adenoviridae
Họ này gồm các chi:
- Mastadenovirus,
gồm 49 serotyp gây bệnh cho người như viêm phổi, viêm mũi họng, viêm kết
mạc, một số gây ung thư ở chuột.
- Aviadenovirus,
nhiễm ở chim, gia cầm.
- Virus chứa genome DNA kép.
- Virion dạng khối đa
diện, trên mỗi đỉnh có sợi lông dài.
- Không có vỏ ngoài.
a-Cấu trúc

- Đường kính trung bình của virion
70-100nm
- Capsid chứa 7 protein:
Protein II nằm trên vỏ capsid.
Protein III hay protein penton,
nằm ở đỉnh khối đa diện.
Protein IIIa nằm trên vỏ capsid.
Protein IV sợi đỉnh.
Protein VI nằm ở gần đỉnh.
Protein VIII nằm trên cạnh tam
giác của khống đa diện.
Protein IX nằm gần đỉnh.
- Lõi chứa các protein.
Protein V nối DNA với protein II
(penton).
Protein VII bao quanh sợi DNA.
Protein X nằm trên bề mặt tam giác
của capsid.
Protein 55 kDa gắn ở đầu chuỗi gọi
tắt là protein đầu chuỗi (TP).
- Ở đầu chuỗi DNA có các trình tự
lặp lại đảo chiều.

b- Hấp phụ và xâm nhập
- Sợi đỉnh của virus gắn vào thụ
thể (CAR) dành cho kháng thể của virus coxsackia và adeno.
- Intergrin gắn vào trình tự RGD
trong protein III (penton) để giúp virus xâm nhập vào tế bào theo lối nhập
bào, tạo endosome.
- Virus thoát khỏi endosome nhờ pH
trong endosome thay đổi, bị vỡ ra giải phóng nucleocapsid.
- Vi ống gắn với hexon và vận
chuyển virion vào gần lỗ nhân. Vỏ capsid bị phân giải, DNA được giải phóng
và vào nhân qua lỗ nhân. Protein 55 kDa ở đầu 5’ bám vào màng matrix của
nhân.
c- Phiên mã và dịch mã sớm
Genome được tách thành sợi R và L
(phải và trái) không gọi là sợi (+) và sợi (-) vì cả 2 sợi đều có khung đọc.
·
Cả 2 sợi
đều phiên mã tạo mRNA.
·
Sợi R
có các gen E1A, E1B, các gen cấu trúc, gen E3.
·
Sợi L
có các gen E2A, E2B và E4.
- RNA polymerase II phiên mã
tạo mRNA của virus có mũ ở đầu 5’ và đuôi poly (A) ở đầu 3’.
·
mRNA E1
dịch mã tạo protein E1.
·
Các gen
sớm trung gian E1A tham gia vào hoạt hoá trans các gen virus.
- Protein E1 gắn vào protein
điều hoà của vật chủ, gắn vào hộp TATA, điều hoà ngược pha S, hoạt hoá
protein p53.
·
Protein
E1B ức chế sự chết theo lập trình (apoptosis) của tế bào.
·
E1 gắn
pRB (protein ung thư võng mạc).
- Phiên mã sợi L để tạo mRNA
cho E4 sau đó dịch mã để tạo protein E4.
·
E4 điều
hoà ngược các gen virus, tham gia vào vận chuyển mRNA và vào tổng hợp DNA.
- Phiên mã mRNA E2, tổng hợp 3
protein quan trọng cần cho tổng hợp DNA.
- Phiên mã mRNA E3, dịch mã tạo
ra protein E3 để cải biến đáp ứng miễn dịch của vật chủ ức chế apoptosis.
d-Sao chép
Sao chép DNA tiến hành khi tế
bào bước vào pha S và khi E2 được tích luỹ.
- Các đoạn lặp đảo chiều ở 2
đầu dùng làm điểm khởi đầu sao chép.
- Có một protein 80 kDa
(protein đầu chuỗi) và một DNA polymerase. Từ vùng E2 tạo 1 heterodimer để
bắt đầu sao chép.
·
Cả 2
sợi của genome đều có thể bị thế chỗ do virus thực hiện sao chép theo cơ chế
bán bảo thủ.
·
Sợi mẹ
có cấu trúc cán chảo (panhandle) do có các đoạn đầu lặp đảo chiều và tiến
hành phiên mã.
·
Protein
đầu chuỗi 80 kDa bị cắt bớt để tạo thành protein 55 kDa.
e- Phiên mã và dịch mã muộn
- Sau sao chép, sự vận chuyển
mRNA của vật chủ bị ức chế.
·
Phức
hợp E4.E1B ngăn cản sự vận chuyển mRNA của vật chủ và tăng cường sự vận
chuyển mRNA của virus ra khỏi nhân.
·
Sản
phẩm của gen sớm sau hoạt hoá trans các gen muộn.
- Sự cắt nối mRNA và vị trí gắn
đuôi poly (A) khác nhau tạo nên các mRNA khác nhau.
f- Lắp ráp và giải phóng
- Penton và hexon đầu tiên được
lắp ráp trong tế bào chất, sau đó tập hợp trong nhân để lắp ráp thành
capsid.
- DNA chui vào capsid nhờ phân
tử protein đóng gói. Nếu DNA không chui được cào capsid, nó sẽ tách ra ở
ngoài. Virion hoàn chỉnh ra khỏi nhân rồi toát ra ngoài.
19.2.1.2. Herpesviridae
Họ này gồm 3 chi:
(1)
Alpha herpesvirus
- HHV-1 (human herpesvirus-1)
gây chốc mép.
- HHV-2, còn gọi là herpes sinh
dục gây bệnh đường sinh dục.
- HHV-3 gây bệnh thuỷ đậu,
zona.
- Simian herpesB gây bệnh ở
khí.
(2)
Beta herpesvirus
- HHV-4 virus Epstein-Barr gây
ung thư vòm họng.
- HHV-5 virus cự bào
(CMV-cytomegalovirus).
- HHV-6 gây bệnh ban (ban đào).
- HHV-7 không biểu hiện triệu
chứng.
- HHV-8 Sarcoma Kaposi ở người.
(3)
Gamma herpesvirus
a- Cấu trúc

- Virus có vỏ ngoài, trên bề
mặt có các glycoprotein, glycoprotein bề mặt gC, gD, gB, gE, gH, gI, gK, gL,
gM. Vỏ ngoài chứa lipid đường kính 150-200nm.
- Phía trong vỏ ngoài là lớp
protein vô định hình (tegument) – vùng hạt chứa protein dạng cầu.
- Capsid có kích thước trung
bình (100nm), dạng khối đa diện với 162 capsome.
- Lõi là DNA kép, dạng thẳng là
một trong những genome lớn nhất của virus (240 kb).
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Protein bề mặt gC của virus
bám vào thụ thể bề mặt của tế bào.
+ Một số chất trung gian xâm
nhập (HVEM-herpesvirus entry mediators) giúp virus gắn dặc hiệu vào
glycoprotein gD.
+ Khi dung hợp với màng tế bào
cần có thêm sự tham gia của các glycoprotein bề mặt khác gB, gD, gE và gI.
- Virus vào tế bào theo lối
nhập bào.
- Virus tiếp cận nhân, chỉ có
DNA và protein tegument mới qua lỗ nhân.
c- Phiên mã và dịch mã sớm
- Genome virus khép vòng nhưng
không liên kết với protein chromatin.
- Một phần protein tegument của
virus herpes simplex vẫn còn giữ lại ở tế bào chất sẽ ngăn cản sự tổng hợp
protein của tế bào chủ nhờ phân huỷ polyriboxom và RNA của tế bào.
+ Protein tugument, trong đó có
a-TIF
(yếu tố cảm ứng trans của gen
a)
tiến hành hoạt hoá trans và tăng cường tổng hợp mRNA sớm ngay.
+ 5 gen
a
sớm ngay (khoảng 10%) không đòi hỏi tổng hợp protein mà là nguồn dự trữ cho
sản phẩm gen
a.
- RNA pol II phiên mã các gen
a
còn lại tạo mRNA để tổng hợp protein
a
tham gia vào sự điều hoà biểu hiện gen của virus herpes.
- Các gen
b
(gen sớm sau) được phiên mã ở mức độ thấp nếu không có sản phẩm của gen
a.
- Gen
b1
cần sản phẩm của gen
a
và được phiên mã trước tiên, tạo mRNA để tổng hợp ICP-6 (b16)
là ribonucleotide reductase. ICP-18 (b18)
là protein bám DNA.
-
b2
là gen sớm sau phụ thuộc vào gen
a4
và được phiên mã sau gen
b1.
- Một số protein
b2
ngăn cản sự tổng hợp protein
a.
Các sản phẩm của gen
b
đạt cao nhất sau 5-7 giờ nhiễm.
d- Sao chép genome
- Trước khi tổng hợp DNA đã có
một số protein cấu trúc
g1.
- Virus sử dụng nhiều enzyme
như helicase, primase và polymerase để tiến hành sao chép genome theo cơ chế
vòng tròn xoay.
- Sao chép bắt đầu tại 3 điểm
khởi đầu và nhiều đoạn RNA không được loại bỏ. Khi DNA sao chép tại nhiều
điểm khởi đầu sao chép, lúc đầu được sợi đơn rất dài, sau đó tổng hợp sợi bổ
sung. Đây là sợi trùng lặp (concateme) gồm nhiều genome nối với nhau. Enzyme
sẽ cắt để được phân tử có kích thước và trình tự của genome.
e- Phiên mã và dịch mã muộn
- Các protein
b
hoạt hoá gen
g1.
Một số protein
g1
được tạo thành trước khi tổng hợp DNA.
- Các gen
g
mã hoá cho các protein muộn - tức protein cấu trúc, tích luỹ trong nhân và ở
màng nhân, ví dụ các capsome dạng ống, các protein bề mặt vỏ ngoài.
- Các protein
g
ức chế sự tổng hợp sản phẩm gen
b.

Hình 19.12: Sự điều hoà biểu
hiện gen của virus herpes.

Gen
a
được hoạt hoá bởi protein
a-TIF
do gen
b
mã hoá. Protein
a
tự điều hoà biểu hiện của chính mình và hoạt hoá gen
b.
Protein
a
và
b hiệp đồng hoạt hoá gen
g,
proetin
g
mà tham gia lắp ráp tạo virion vừa điều hoà hoạt động của gen
a.
Ghi chú: hoạt
hoá; ức
chế
f- Lắp ráp và giải phóng
Protein tạo capsid gắn với
trình tự “a”
nằm trên DNA kép, cắt chúng ra khỏi sợi trùng lặp, tạo capsid, qua màng
nhân. Màng nhân bọc capsid sau đó dung hợp với màng sinh chất để ra ngoài.
19.2.1.3. Papovaviridae
Gồm các chi: Papilomavirus
gây bệnh mụn cóc, ung thư cổ tử cung.
Polymevirus gây viêm não.
Virus tạo
bọt SV40.
a- Cấu trúc

Capsid hình khối đa: diện,
đường kính 45-55nm, không có vỏ ngoài, được tạo thành từ 72 capsome. Capsome
được cấu tạo từ các protein VP1, VP2 và VP3.
VP1 là protein lớn của capsid.
VP2 là protein nhỏ của capsid.
VP3 là protein capsid gắn DNA.
Lõi là DNA kép, khép vòng.
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Virus vào tế bào biểu mô theo cơ chế nhập
bào. Sự hấp phụ thay đổi tuỳ loại virus, nhưng có thể cần phân tử MHC-I, yếu
tố sinh trưởng hoặc acid sialic. thụ thể của HPV-6 là integrin, của HPV-11
là heparin sulphat.
- Virus nằm trong endosome và cởi vỏ ở tế
bào chất, sau đó genome DNA kép, khép vòng vào nhân qua lỗ nhân.
c- Phiên mã và dịch mã sớm
Phiên mã nhờ RNA polymerase II của tế bào để
được pre-mRNA (mRNA tiền chất). Pre-mRNA cắt nối tạo 2 mRNA, nhưng có cùng
mũ ở đầu 5’ và đuôi poly (A) ở đầu 3’. Có tên gọi là kháng nguyên T lớn và
kháng nguyên T nhỏ.
Virus SV40 có 2 kháng nguyên T trong khi
virus polyoma có 3 kháng nguyên T (thêm kháng nguyên T trung bình).
d- Sao chép genome
- Sự tích luỹ kháng nguyên T lớn có tác dụng
chuyển tế bào vào pha S, bởi vì virus phụ thuộc vào bộ máy sao chép của tế
bào.
- DNA của virus chuyển thành một nhiễm sắc
thể nhỏ (minichromosome).
- Kháng nguyên T lớn bám vào DNA và hoạt
hoạt động như enzyme helicase và ngăn chặn sự phiên mã sớm bằng cách phong
bế điểm khởi đầu.
- Sự sao chép theo cơ chế theta tạo ra 2
genome giống hệt nhau.
e- Phiên mã và dịch mã muộn
- Sự chuyển vị trí khởi đầu sau sao chép DNA
cho phép bắt đầu tổng hợp mRNA muộn.
- Nhờ phương thức cắt nối lựa chọn
(alternative splicing) mà từ 1 bản phiên mã tạo ra được 3 mRNA có đoạn dẫn
đầu không dịch mã giống nhau.
+ mRNA VP1 tổng hợp protein Vp1. Các riboxom
đôi khi bắt đầu dịch mã tại điểm khởi đầu dịch mã thay đổi để tạo ra VP3.
+ mRNA Vp2/VP3 tổng hợp các protein VP2/VP3.

f- Lắp ráp và giải phóng
- VP2 và VP3 gắn vào VP1 và tín
hiệu định vị nhân trên VP1 tạo thành phức hợp tích luỹ trong nhân.
- Các protein cấu trúc tự động lắp
ráp với nhau tạo thành capsid rỗng. DNA loại bỏ histon-1 trước khi chui vào
capsid.
- Nucleocapsid rời khỏi nhân, tạo
bọng với màng lưới nội chất nhẵn để ra khỏi bề mặt đỉnh của tế bào biểu mô
nhờ dung hợp với màng tế bào chất.
19.2.1.4. Parvoviridae
Gồm các chi:
- Parvovirus gây bệnh ở
động vật gậm nhấm, bệnh ở chó, lợn, bệnh mắt bạch tạng cầu hạt ở mèo,...
- Erytrovirus gây bệnh
ban đỏ B19.
- Dependovirus khác với
2 chi trên là các virus tự lập (autonomous) có thể tự nhân lên trong các tế
bào chủ thích hợp. Dependovirus là virus khiếm khuyết, chúng chỉ có thể nhân
lên khi có sự hỗ trợ của virus đồng nhiễm, ví dụ virus adeno.
Virus đi kèm adeno.
Virus đi kèm adeno ở chim.
Virus đi lèm adeno ở chó.
a- Cấu trúc

- Capsid có kích thước rất nhỏ
(20nm), dạng khối đa diện, gồm 32 capsome với 60 tiểu đơn vị VP (viral
protein) là VP1, VP2 (chiếm 90% tiểu đơn vị protein) và VP3.
- Lõi: DNA đơn, dạng thẳng. Hầu
hết là DNA (-), ở hai đầu có đoạn palindrom (đoạn DNA mạch kép có trình tự
nucleotide trên mỗi sợi giống nhau nhưng trái chiều nhau) tạo thành các nút
kẹp tóc, có một đầu 3’-OH thay cho mồi.
b- Xâm nhập và cởi vỏ
- Virus B19 gắn vào thụ thể là
kháng nguyên P trên bề mặt hồng cầu. Các cá thể không có thụ thể này sẽ
không bị nhiễm. Cách xâm nhập và cởi vỏ còn chưa thật rõ.
- DNA đơn vận chuyển vào nhân.
c- Phiên mã và dịch mã sớm
- RNA polymerase của tế bào
tổng hợp mRNA của đoạn nằm trước hộp TATA để tổng hợp protein không cấu
trúc, tức là protein điều hoà.
- Cắt nối mRNA, tạo ra các bản
sao RNA, gắn mũ và đuôi, được mRNA ra khỏi nhân để tổng hợp protein điều hoà
NS1.
- Tương tự như vậy, tiếp tục
cắt nối trong nhân để tạo mRNA dùng cho tổng hợp protein điều hoà NS2.
- Các protein không cấu trúc
NS1 và NS2 vận chuyển vào nhân để tham gia sao chép DNA.
d- Sao chép genome
- Sự sao chép genome chỉ được
tiến hành khi tế bào chủ ở pha S của chu kỳ tế bào.
- Đối với virus phụ thuộc adeno
(AAV) đòi hỏi phải đồng nhiễm với virus adeno để kích tế bào bước vào pha S.
- Để sao chép, cần có DNA
polymerase và một số enzyme của tế bào. Sao chép dựa trên mô hình kẹp tóc
lăn cải biến. Sao chép bắt đầu từ đầu 3’ của nút kẹp tóc, được dùng thay cho
mồi, để tổng hợp sợi DNA (+) bổ sung, kéo dài đến khi đạt chiều dài genome.
- Protein NS1 cắt và liên kết
cộng hoá trị với genome, tạo ra điểm đứt trong mạch ban đầu cho phép nút kẹp
tóc duỗi thẳng. Đoạn mới duỗi dùng làm khuôn để tổng hợp đoạn DNA (+) bổ
sung.
- Chu kỳ tiếp tục lặp lại tạo
phân tử DNA trùng lặp (concateme) rất lớn.
- Protein NS1 gắn vào mỗi trình
tự genome để cắt, tạo genome hoàm chỉnh.
e- Phiên mã và dịch mã muộn
- Nhờ cắt nối lựa chọn phân tử
mRNA, mà tạo được 2 phân tử mRNA cho tổng hợp 2 protein cấu trúc khác nhau
là VP1 và VP2.
- VP2 lại phân cắt trong capsid
nhờ enzyme để tạo VP3.
f- Lắp ráp và giải phóng
- NS1 đóng gói DNA virus ở
trong nhân.
- Các protein cấu trúc (VP) vào
nhân qua lỗ nhân tạo capsid.
- Cơ chế chui ra của virus còn
chưa rõ.

19.2.2. Virus RNA
Virus có genome RNA, bao gồm
RNA đơn (+), RNA đơn (-) và RNA kép, có số lượng họ rất lớn. Sau đây xin
giới thiệu các họ quan trọng nhất.
19.2.2.1. Virus RNA đơn,
dương
Gồm một số họ đại diện:
- Coronaviridae.
- Flaviviridae.
- Picornaviridae.
- Retroviridae.
- Togaviridae.
19.2.2.1.1.
Coronaviridae
Có 1 chi là chi coronavirus gây
bệnh:
- Viêm đường hô hấp cấp nặng
(SARS).
- Coronavirus ở người (HCoV) gây
bệnh đường hô hấp.
- Viêm phế quản ở chim (IBV).
- Viêm gan chuột (MHV).
- Bệnh mào xanh ở gà Tây.
a-Cấu trúc

Virus có kích thước trung bình
(80-100nm)
Vỏ ngoài có các protein:
- Protein xuyên màng.
- Protein hemagglutinin esterase.
- Protein gai, hình dùi cui, gọi
là teplome, nên tạo diềm quanh virus. Khi quan sát dưới kính hiển vi, diềm
có hình ảnh vầng hào quang (corona tiếng Latinh la hào quang).
Nucleocapsid dạng xoắn, mềm mại.
Protein nucleocapsid liên kết với genome.
Lõi Genome là RNA đơn, (+).
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Protein gai giúp virus bám vào
một loạt glycoprotein bề mặt của tế bào.
- Virus xâm nhập theo 2 cách: dụng
hợp với màng sinh chất và nhập bào.
- Sự cởi vỏ và giải phóng RNA vào
tế bào chất còn chưa rõ.
c- Dịch mã sớm
Genome RNA, (+) có chức năng mRNA,
tiến hành dịch mã sớm tạo protein còn chưa rõ chức năng.
d- Phiên mã
- Phiên mã tạo sợi khuôn RNA (-),
từ đó tổng hợp rất nhiều mRNA khác nhau.
- Phiên mã tạo sợi RNA (-) không
liên tục, rồi từ đó tổng hợp rất nhiều mRNA.
e- Tổng hợp protein
- Từ các mRNA tổng hợp nhiều loại
protein khác nhau, như glycoprotein gai, protein xuyên màng, protein
heamagglutinin, protein cấu trúc.
f- Lắp ráp và giải phóng
- RNA genome cuộn lại, gắn với
protein nucleocapsid.
- Các glycoprotein gắn vào màng bộ
máy Golgi, nucleoprotein xâm nhập vào bộ máy Golgi, nối và gắn protein bề
mặt của virus, lắp ráp tạo virion, sau đó ra khỏi bộ máy Golgi, tạo dung hợp
với màng sinh chất để ra khỏi tế bào.

19.2.2.1.2. Flaviviridae
Thuộc virus Arbo nhóm B gồm các
chi:
- Flavivirus gồm các virus:
+ Virus sốt Dengi/ Sốt xuất huyết
Dengi.
+ Virus viêm não Nhật
Bản.
+ Virus viêm não do ve.
+ Virus viêm não St. Louis.
- Pestivirus, gồm:
+ Virus gây tiêu chảy ở bò.
+ Virus gây tả lợn.
- Virus viêm gan C (HCV).
a- Cấu trúc

Hạt virus được bọc bởi vỏ ngoài
đường kính 40-60 nm. Vỏ ngoài có các protein M, protein E.
- Capsid dạng khối đa diện, cấu
tạo từ các protein C.
- Lõi là RNA đơn (+), đầu 5’
gắn mũ, đầu 3’ không gắn đuôi nhưng có trình tự không dịch mã.
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Virus gắn gai vào thụ thể
glycoprotein bề mặt và xâm nhập theo kiểu dung hợp hoặc nhập bào tạo
endosome.
- pH thấp trong endosome làm
thay đổi cấu hình trong protein E dẫn đến dung hợp với vỏ ngoài với màng
endosome đẩy nucleocapsid vào tế bào chất.
- Việc cở vỏ còn chưa rõ.
c- Tổng hợp protein
Bản đồ RNA genome gồm:
5’.mũ-UTR-C-prM-E-NS1-NS2a-NS2b-NS3-NS4a-NS4b-NS5-3’UTR-đuôi
- NS1 có trong vỏ ngoài và
trong lumen
- Phức hợp protein không cấu
trúc NS2b-NS3 là protease dùng để cắt các protein khác.
- NS4a và NS3 có chức năng chưa
rõ.
- Peptidase tín hiệu cắt các
protein còn lại.
- NS5 là RNA polymerase phụ
thuộc RNA.
d- Sao chép genome
- NS3 và NS5 hoạt động cùng
nhau trong phiên mã.
- Cả RF và RI đều tham gia vào
phiên mã rRNA. Ở đây RF - dạng sao chép là sợi đôi trung gian được
tổng hợp từ sợi đơn; RI - dạng trung gian sao chép là một số RNA được
tổng hợp cùng lúc trên cùng 1 sợi khuôn genome.
- RNA virus (vRNA tức là
genome) được tổng hợp nhiều gấp 10 lần c-RNA (RNA bổ sung).
- vRNA là khuôn để tổng hợp
c-RNA.
- mRNA gắn mũ và đuôi, để tổng
hợp protein virus.
- RNA cũng dùng làm genome.
e- Lắp ráp và giải phóng
- Tiến hành dịch mã tạo protein
vỏ ngoài, gắn vào màng mạng lưới nội chất và tạo protein cấu trúc.
- RNA (có mũ và đuôi) trước hết
tổng hợp sợi RNA (-) tạo sợi RNA kép dùng để phiên mã tạo RNA genome.
- Genome cuộn lại, gắn với
protein C tạo capsid vào màng lưới nội chất theo kiểu nhập bào tại nơi đã
gắn protein vỏ ngoài.
- Protein pr.M tạo phức với
protein E để ngăn cản dung hợp với màng trong.
- Protein pr.M gắn với protein
C để bắt đầu nảy chồi vào màng lưới nội chất.
- Các hạt virus được bọc trong
bọng ra khỏi mạng lưới nội chất rồi dung hợp với màng tế bào để ra ngoài.
- pr.M cắt thành M để virus có
thể nhiễm vào tế bào mới.

19.2.2.1.3. Picornaviridae
Gồm các chi:
- Enterovirus: + Polio
gây bại liệt.
+ Coxsackia
Avà B gây viêm màng não, viêm họng rộp, bệnh Bornholm.
+ Echo gây
viêm màng não.
+ EV71 gây
bệnh tay chân miệng.
- Cardiovirus (ECM) gây
viêm não, cơ tim ở gặm nhấm.
- Rhinovirus gây bệnh
đường hô hấp trên, cảm lạnh thường.
- Apthovirus gây bệnh lở
mồm long móng ở động vật có móng chẽ.
- Hepatovirus gây viêm
gan A (HAV).
- Parechovirus typ 1 và 2
gây bệnh ở người (HPEV 1 & 2).
a- Cấu trúc
 
Virion có kích thước nhỏ (20-30
nm).
Capsid dạng khối đa diện, không
có vỏ ngoài, chứa các protein VP1, VP2, VP3 nằm trên mặt virion, VP4 nằm bên
trong liên kết với RNA.
Lõi chứa genome RNA đơn, (+)
cuộn chặt trong capsid. Ở virus bại liệt đầu 5’ liên kết với peptide Vpg
(thay cho mũ), đầu 3’ gắn đuôi poly (A).
Phần mã hoá của genome được
chia làm 3 phần P1, P2 và P3. P1 mã hoá cho protein cấu trúc VP1, VP2, VP3
và VP4. P2 mã hoá cho các protein 2A, 2B và 2C. 2A là
protease ngăn cản dịch mã của tế bào chủ. 2B và 2C cần cho sự sao chép,
trong đó 2C gắn với RNA, có hoạt tính ATP-ase và GTP-ase.
Polymerase chính của virus là
C3Dpro tham gia phân cắt polyprotein nhưng có điểm cắt khác 2A.
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Virus gắn vào thụ thể CD155
trên bề mặt tế bào, vị trí bám là một “hẽm” (canyon) trên bề mặt capsid.
- Virus xâm nhập theo cơ chế
thực bào, tạo endosome.
- Bơm proton trong endosome tạo
pH khoảng 5, gây biến tính protein capsid, làm thay đổi cấu hình, lộ ra acid
amin kỵ nước (không phân cực).
- Các acid amin này tương tác
với lớp lipid của màng endosome, giải phóng RNA vào tế bào chất.
c- Phiên mã, sao chép và
dịch mã
- Phiên mã và sao chép là cùng
1 quá trình và sử dụng enzyme như nhau.
- VPg có chức năng mồi trong
sao chép.
- RNA genome có chức năng mRNA,
tham gia dịch mã tạo polyprotein. Polyprotein lại được protease phân cắt
thành các phân tử đơn lẻ, có chức năng khác nhau.
- Protein 3Dpol là
RNA polymerase tiến hành tổng hợp sợi DNA (-). Sợi này sau đó được dùng làm
khuôn để tổng hợp genome.
- Nằm trước vùng mã hoá ở đầu
5’ là cấu trúc bậc 2 IRES là “bến đỗ của riboxom” nhờ vậy mà quá trình dịch
mã không cần mũ.
d- Lắp ráp và giải phóng
- Trước hết tạo protome 5S gồm
VP0, VP1 và VP3.
- 5 protome tạo pentame 12-14S.
12 pentame tạp procapsid 73S, chứa 60 protome.
- RNA kết hợp với vỏ capsid tạo
provirion 155S.
- Khi VP0 phân cắt thành VP2 và
VP4 thì provirion sẽ trở thành virion hoàn chỉnh 155S.
- Virus được giải phóng do tan
bào, đó là hệ quả của việc virus tạo enzyme ức chế các quá trình phiên mã,
dịch mã của tế bào. Virus được phóng thích tiếp tục lây nhiễm vào các tế bào
khác.
19.2.2.1.4. Retroviridae
Gồm các chi:
(1)
Avian-leukosis-sarcoma
- Virus sarcoma Rous (RSV) gây
ung thư ở gia cầm.
- Virus gây bệnh nguyên hồng
cầu ở chim (AEV – avian erythroblasttosis virus).
- Virus gây bệnh bạch cầu tuỷ
bào (MC - myelocytomatosis).
(2)
Mammalian type-C
- Virus gây ung thư bạch cầu
chuột Moloney (Mo-MLV-Moloney murine leukema).
(3)
Virus typ B
- Virus gây ung thư vú chuột
(MMTV – Mouse mammary tumor virus).
(4)
Virus typ D
- Virus nhiễm ở khỉ
Mason-Pfizer (MPMV – Mason – Pfizer Monkey virus).
(5)
Virus gây ung thư bạch cầu tế
bào T ở người
(HTLV – Human T-cell leukemia virus) hoặc ở bò (BLV – borine leukemia
virus).
(6)
Lentivirus
- Virus gây suy giảm miễn dịch
ở người (HIV-1, HIV-2), Visna/Msedi.
(7)
Spumavirus
- Virus tạo bọt ở người.
a- Cấu trúc

- Vỏ ngoài có nguồn gốc từ màng
sinh chất với các protein:
+ Protein gai gp 120.
+ Protein gai gp 41. Hai
glycoprotein này gắn với nhau nhờ liên kết S – S để tạo gp 160.
+ Protein vỏ ngoài P17 – P18.
- Capsid dạng khối trụ, chứa
protein capsid P24 – P25.
- Lõi: + Genome là 2 sợi RNA
đơn. (+) giống nhau.
+ Chứa protein
nucleocapsid P9 - P7 gắn quanh genome.
+ Chứa enzyme phiên mã
ngược (RT), integrase, Protease.
b- Hấp phụ và xâm nhập của
HIV
- Protein gai gp 120 gắn vào
thụ thể dặc hiệu trên bề mặt tế bào, ví dụ CD4 của tế bào T.
- Tiến hành dung hợp thông qua
trung gian là vùng kị nước của protein màng TM.
- Tuỳ thuộc vào loại virus và
tế bào chủ, sự dung hợp cũng xảy ra sau khi virus vào tế bào theo con đường
nhập bào.
- Virus cởi vỏ và nucleocapsid
vào tế bào chất.
c- Phiên mã ngược
- Phiên mã ngược xảy ra bên
trong nucleoprotein trong tế bào chất
- Sơ đồ RNA (+)
Mũ-R-U5-PBS-gag-pol-env-U3-R-AAAA
- mRNA có mũ và đuôi poly A.
- 1 phân tử tRNA của tế bào đặc
hiệu cho mỗi loại virus gắn vào trình tự tương bù tại vị trí gắn mồi (PBS)
và tiến hành phiên mã ngược tạo cDNA.
- Enzyme RT hoạt động như một
DNA polymerase phụ thuộc RNA và cũng có hoạt tính ribonuclease H.
+ Bước nhảy 1: Trình tự
R của cDNA nhảy sang bắt cặp với trình tự R của RNA và tổng hợp cDNA.
+ Ribonuclease H phân huỷ toàn
bộ genome RNA cũ chỉ còn để lại một mẫu ngắn (trình tự P+) tại
vùng env để làm mồi.
+ Enzyme RT bắt đầu tổng hợp
sợi DNA (+) về phía U5 để tổng hợp U3 R U5.
+ Bước nhảy 2: đoạn
U3-R-U5-PBS nhảy để PBS của DNA (+) bắt cặp với PBS của DNA (-).
+ Cả 2 sợi đều được kéo dài tạo
phân tử DNA kép provirus với 2 đầu là 2 đoạn lặp đảo chiều LTR (long
terminal repeats) gồm U3-R-U5.
d- Gắn vào nhiễm sắc thể
- Protein nền matrix có vai trò
vận chuyển DNA vào nhân.
- Provirus trong nhân khép
vòng.
- Intergrase tạo điểm đứt sole
trong DNA tế bào chủ tại trình tự nhận diện provirus (att).
- DNA virus được cài xen vào
DNA vật chủ tạo phân tử lai.
- Các base không bắt cặp sẽ bị
loại bỏ và một đoạn khuyết ngắn sẽ được lấp đầy nhờ DNA polymerase. Kết quả
là loại ra 4 cặp base khỏi DNA provirus.
e- Sao chép genome và dịch
mã
- Một khi được cài xen, genome
virus nằm dưới sự kiểm soát của tế bào chủ và được phiên mã nhờ RNA
polymerase II của tế bào.
- Đoạn U3 chứa promoter và
enhancer. Phiên mã (cũng là sao chép) bắt đầu từ vị trí +1 của trình tự R
tạo bản sao mRNA 35S giống với genome virus, được gắn mũ và đuôi poly (A),
vừa dùng để dịch mã tạo protein dùng làm genome.
- Nhờ dịch khung (frameshift)
mà tạo thành poly protein gag-pol.
- Protease của virus phân cắt
polyprotein thành các protein cấu trúc và không cấu trúc riêng lẻ.
- Sự cắt nối tạo mRNA 24S, gắn
mũ, đuôi để mã hoá cho protein env (protein vỏ ngoài).
- Gen gag được ưu tiên dịch mã
nên protein cấu trúc vượt trội protein không cấu trúc.
Các protein tích luỹ trong tế
bào chất trong đó 1 số bị cắt trong quá trình chế biến sau lắp ráp.
f- Lắp ráp và giải phóng
- Các thành phần khác nhau của
virus liên kết với nhau cả trước khi polyprotein bị cắt thành các protein
riêng lẻ.
- Hai sợi RNA (+) liên kết cộng
hoá trị với nhau tại đầu 5’ và gắn với nucleoprotein.
- Protein capsid gắn với
protein nền M và với nucleoprotein.
- Protein vỏ ngoài cài sẵn vào
màng sinh chất. Nucleocapsid nảy chồi ra ngoài.

19.2.2.1.5. Togaviridae
Gồm các chi:
- Alphavirus có các
virus viêm não ngựa Miền Tây, viêm não ngựa Miền Đông, viêm não ngựa
Venezuela, virus rừng Semliki, virus Sindbis và gây nhiễm ở động vật không
xương sống.
- Rubivirus: virus Rubella
(sởi Đức).
- Pestivirus: virus gây
tiêu chảy bò, tả lợn.
- Arterivirus: virus viêm
động mạch ngựa.
a- Cấu trúc

- Virus có kích thước trung bình
(50-70nm). Vỏ ngoài rất dày với các gai cấu tạo từ các protein E1, E2, E3.
+ Capsid: dạng khối đa diện cấu
tạo từ các protein C. Đầu C hình thành giá đỡ cứng ở phía ngoài của capsid
lõi.
+ Lõi: RNA đơn, (+) đầu 3’ và 5’
có các đoạn tương bù nên bắt cặp với nhau.
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Gai glycoprotein gắn vào protein
thụ thể bề mặt của tế bào mà bản chất còn chưa rõ. Dùng kháng thể gắn E2 thì
virus không vào tế bào được.
- Virus vào tế bào theo cách nhập
bào, tạo endosome.
- Endosome dung hợp với lysosom.
pH thấp trong endosome làm thay đổi cấu hình protein E1 và E2 dẫn đến dung
hợp màng, giúp virus thoát ra tế bào chất.
- Riboxom gắn trên protein C dẫn
đến cởi vỏ.
c- Phiên mã và dịch mã sớm

- Dịch mã từ bộ 3 AUG tạo
protein p1234, là do đọc mã vượt qua codon dừng.
- Enzyme cắt protein p1234 để
được 4 protein:
+ NSp1 có hoạt tính polymerase
cho cRNA và RNA mũ của virus.
+ NSP2 là protein dùng cắt
polypeptide, có hoạt tính polymerase cRNA và tổng hợp RNA 26S dưới genome.
+ NSP3 là protein được
phosphoryl hoá, chưa rõ chức năng.
+ NSP4 là RNA polymerase phụ
thuộc RNA, protein 123 cắt thành 3 protein, trong đó protein thứ 2 là
protease dùng để cắt polypeptide.
d- Sao chép genome
- Dịch mã tạo protein NS (không
cấu trúc).
- Protein NS hình thành phức
hợp với RNA polymerase để tạo RNA (-) từ sợi RNA kép trung gian, tiến hành
phiên mã tạo vRNA và mRNA (gắn mũ và đuôi) để tổng hợp protein.
- Phiên mã mRNA 26S
e- Phiên mã và dịch mã muộn
- Từ v-RNA phiên mã tạo sợi RNA
kép trung gian để phiên mã tạo mRNA, gắn mũ và đuôi.
- Dịch mã tạo các protein E1,
P62,E2 và3), gắn vào màng mạng lưới nội chất, E1, P62, E2 và E3 kết hợp với
nhau tạo gai bề mặt dạng trime.
f- Lắp ráp và giải phóng:
- Protein cấu trúc (C) gắn với
vRNA để tạo provirion, xâm nhập vào mạng lưới nội chất, theo kiểu thực bào,
sau đó hoàn thiện tạo virion, ra khỏi mạng lưới nội chất tạo bọng rồi ra
khỏi tế bào nhờ dung hợp màng bọng với màng sinh chất.
19.2.2.2. Virus RNA đơn,
âm
Ba họ đại diện là
Rhabdoviridae, Orthomyxoviridae và Paramyxoviridae.
19.2.2.2.1- Rhabdoviridae
Có 2 chi là:
(1) Vesiculovirus gây
bệnh chốc mép và ở động vật không xương sống.
(2) Lyssavirus gây bệnh
dại, ngoài ra virus này cũng gây bệnh ở thực vật.
a- Cấu trúc

Virus có hình viên đạn, kích
thước 70x170nm.
- Vỏ ngoài là lipoprotein. Trên
bề mặt có protein G, tạo gai glycoprotein. Bên trong vỏ ngoài là lớp protein
nền (M).
- Nucleocapsid xoắn, gồm các
protein: Protein nucleocapsid (N) gắn với genome, Photphoprotein (P),
protein L.
- Lõi chứa RNA đơn, (-) với đầu
lặp đảo chiều cho phép bắt cặp với nhau tạo cấu trúc cán chảo.
- RNA polymerase phụ thuộc RNA
gắn vào cấu trúc lõi.
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Virus gắn protein G vào thụ
thể bề mặt, chưa rõ bản chất, của tế bào, có thể là photohatidyl serin.
- Khi gắn không cần năng lượng
nhưng khi xâm nhập cần 37oC. Nếu ở 10oC thì không xâm
nhập được.
- Virus vào theo lối nhập bào
tạo endosome. Endosome dung hợp với lysosom.
- pH thấp trong endosome cảm
ứng để vỏ ngoài virus dung hợp với màng endosome và giải phóng nucleocapsid
vào tế bào chất.
- Phiên mã và sao chép genome
tiến hành trong cấu trúc nucleocapsid lõi.
c- Phiên mã mRNA
- Trong tế bào chất gRNA kháng
enzyme ribonuclease khi tạo phức với protein N.

- Protein L cùng với protein P
và các yếu tố của tế bào tạo phức hợp gắn vào đầu 3’ phức hợp tự phosphoryl
hoá.
- Phiên mã bắt đầu từ đầu 3’ và
kết thúc sau khi gắn đuôi poly (A) vào gen đầu tiên, tạo ra nhiều loại mRNA
để tổng hợp protein N, P, M, G và L.
- Tổng hợp protein:
+ Từ các mRNA tương ứng tổng
hợp các protein N, P, M, G, L.
+ Protein G cài vào màng mạng
lưới nội chất, tạo bọng rồi mang ra gắn vào màng tế bào chất.
+ Protein M sắp xếp sát màng tế
bào và gắn với protein G.
d- Sao chép genome
- Khi lượng protein N tăng lên
sẽ phong bế vị trí khởi đầu phiên mã trên genome (vRNA).
- Sợi mRNA có chiều dài đủ
(bằng genome) được tổng hợp nhờ phức hợp polymerase.
+ Các yếu tố của tế bào chủ có
vai trò quan trọng trong sao chép genome virus.
+ Lượng protein P tăng lên là
cần thiết đối với quá trình sao chép.
+ Hầu hết gRNA nhanh chóng tạo
cấu trúc ribonucleoprotein. Một số gRNA dùng để phiên mã mRNA.
e- Lắp ráp và giải phóng
- Phức hợp ribonucleoprotein
lỏng lẻo liên kết với protein M, ngăn cản sự sao chép và phiên mã của virus.
- Khi có nhiều protein M hơn,
nó sẽ gắn vào ribonucleoprotein xoắn chặt, ngăn cản sự phiên mã và đưa chúng
tới màng sinh chất để nảy chồi ra ngoài.
19.2.2.2.2. Orthomyxoviridae
Gồm 1 chi Orthomyxovirrus
với các virus cúm A, B, C, cúm gia cầm H5N1,...
a- Cấu trúc

Virus đa hình thái,
đường kính 80-120nm
- Vỏ ngoài có các protein sau:
+ Protein heamagglutinin (HA) hay gai H, gồm
2 tiểu đơn vị HA1 và HA2.
Virus cúm A có 16 gai H.
+ Protein neuraminidase (NA)
hay gai N. Virus cúm A có 9 loại gai N.
+ Protein kênh ion M2.
+ Protein nền M1.
- Capsid dạng xoắn gồm phức hợp
ribonucleoprotein (RNP), chứa các protein: Protein nucleocapsid (NP),
protein polymerase (PA), protein polymerase (PB1), protein polymerase (PB2).
Genome là RNA đơn, âm, phân đoạn. Cúm A và B gồm 8 đoạn, cúm C có 7 đoạn
RNA.
b- Hấp thụ và xâm nhập
- Gai H bám vào thụ thể là acid
sialic trên màng tế bào, rồi xâm nhập vào tế bào theo lối nhập bào, tạo
endosome rồi dung hợp với lysosom.
- pH thấp trong endosome giúp
protein dung hợp (protein F) nằm ẩn phía trong gai H chồi lên, cắm vào màng
endosome đẻ đẩy nucleocapsid vào tế bào chất. Enzyme từ lysosom cũng có thể
phân giải màng endosome.
- Nucleocapsid vào nhân, tiến hành
phiên mã và sao chép trong nhân.
c- Phiên mã
Phức hợp polymerase gồm PA, PB1 và
PB2.
- RNA virus gắn vào các vị trí gắn
đầu 3’ và 5’ trên PB1, RNA của tế bào gắn vào PB2.
- Virus chiếm đoạt mũ ở đầu 5’ của
mRNA của tế bào để làm mồi cho mRNA của mình nhờ enzyme exonuclease, vì thế
nên mới phải chui vào nhân.
- Tạo mRNA rồi ra khỏi nhân.
d- Tổng hợp protein
- Tiến hành tổng hợp các loại
protein của virus ở ngoài tế bào chất sau đó chui vào nhân để tạo
nucleocapsid.
e- Sao chép genome
Khi protein NP tích luỹ nhiều,
chúng sẽ bám và phong bế mũ ở đầu 5’ và các gốc 4-7 A trên RNA của virus,
ngăn chặn sự lặp lại của các gốc U của vRNA và tạo thành cRNA (tức sợi RNA +
bổ sung).
- cDNA được protein NP bao quanh
dẫn đến việc phức hợp polymerase mất đi protein PA và tiến hành sao chép
vRNA từ khuôn cRNA mới tổng hợp.
- vRNA được bao bởi protein Np để
tạo nucleocapsid.
f- Lắp ráp và giải phóng
- Phức hợp RNP hình thành trong
nhân, cùng với protein M1 được khuếch tán thụ động vào nhân đồng thời cũng
có sự gắn protein bề mặt virus vào màng sinh chất của tế bào.
- M1 gắn với RNP dẫn đến vận
chuyển ra khỏi nhân.
- Protein NA cắt gốc acid sialic
để giúp virus nảy chồi thoát khỏi tế bào.
19.2.2.2.3. Paramyxovirida
Gồm các chi:
- Paramyxovirus gồm virus
Sendai (á cúm typ 1 ở chuột), á cúm typ 1và 3 ở người.
- Rubelavirus gồm virus
quai bị, Newcastle, á cúm typ 2, 4ª, 4b ở người. Có protein HN.
- Morbillivirus gồm sởi,
dịch sốt chó (canine distemper).
Có gai H nhưng không có gai N.
- Pneumovirus, virus hợp
bào hô hấp ở người (HRSV – Human respiratory syncytial virus). Không có gai
H và N.
a- Cấu trúc

Virus có kích thước 125-250 nm.
- Vỏ ngoài gồm các protein:
+ Protein F (dung hợp).
+ Protein heamagglutinin –
neuraminidase (HN) có hoạt tính gắn và cắt acid nucleic.
+ Protein nền (M) nằm ngay dưới
vỏ ngoài .
- Nucleocapsid dạng xoắn gồm:
+ Genome là một phân tử RNA
đơn, (-).
+ Protein nucleocapsid (NP) bao
quanh genome, liên kết với protein M và các protein L và P.
+ Protein lớn (L) có hoạt tính
polymerase.
+ Photphoprotein (P).
b- Hấp thụ và xâm nhập
- Virus gắn gai HN vào thụ thể
bề mặt là acid sialic của tế bào ở pH trung tính.
- Protein F được protease của
tế bào chủ cắt và cho phép dung hợp với màng tế bào để đưa nucleocapsid vào
tế bào chất.
- Protein M gắn vào protein NP,
ức chế tổng hợp mRNA và điều này phải được thực hiện trước khi phiên mã sớm.
c- Phiên mã mRNA
- Các gen trên gRNA tách biệt
nhau nhờ trình tự gắn nằm giữa các gen gọi tắt là ICS (short intercistronic
nucleotide sequences). Đây là RNA đa gen (polycistron).

- Các sản phẩm của các gen
chồng lớp và tiếp đó là các sản phẩm của các gen P/C/V/D dùng trong điều hoà
chu trình nhân lên.
- Phiên mã tiến hành trong cấu
trúc RNP lõi, bắt đầu tại đầu 3’ và kết thúc khi thêm đuôi poly (A) vào gen
đầu tiên.
- Số lượng bản sao mRNA nhiều
hay ít tuỳ thuộc vào sự tái khởi động phiên mã. Phiên mã hết gen này rồi đến
gen khác rồi quay lại tái khởi đầu phiên mã để được các protein NP, P, M, F,
HN và L.
d- Tổng hợp protein
- Tiến hành tổng hợp protein từ
mRNA trong tế bào chất.
- Protein F và Hn cài vào màng
mạng lưới nội chất, hình thành bọng rồi chuyển đến gắn vào màng tế bào.
- Protein M liên kết với
protein gai trong màng tế bào chất.
- Protein NP phong bế vị trí
khỏi đầu và ICS cho phép bắt đầu phiên mã sợi cRNA (RNA tương bù).
e- Sao chép genome
- Từ sợi gRNA (-) làm khuôn
tổng hợp sợi tương bù cRNA (+), rồi đến lượt cRNA mới sinh ra làm khuôn để
tổng hợp genome RNA.
- gRNA mới sinh lại làm khuôn
để tổng hợp mRNA và thêm nhiều cRNA.
- gRNA liên kết với các protein
NP, P và L để tạo cấu trúc lõi.
f- Lắp ráp và giải phóng
- Protein NP gắn vào vị trí đặc
hiệu bao quanh RNA tạo nucleocapsid nảy chồi ra ngoài.
- Các protein heamagglutinin –
neuraminidase (HN) cắt acid sialic nằm trên bề mặt tế bào cho phép virus
thoát khỏi tế bào.
19.2.2.2.4- Reoviridae
Bao gồm các chi:
- Orthoreovirus. Virus
reo typ 1 ở người.
- Rotavirus. Virus rota
gây bệnh tiêu chảy ở trẻ em.
- Orbivirus. Virus gây
bệnh lưỡi xanh ở gia súc, virus gây bẹnh sốt Colorado do ve
- Phytoreovirus. Virus
bệnh lúa lùn, virus khối u ở thực vật.
a- Cấu trúc

Virus có đường kích trung bình
(60-80nm) không có vỏ ngoài, capsid gồm 2 lớp vỏ:
- Vỏ capsid ngoài cấu tạo gồm
các capsome và các tiểu đơi vị:
d1
– protein hấp phụ.
m1
và
m16 – protein capsid
ngoài.
d3
– protein capsid ngoài.
- Vỏ capsid trong chứa các
protein:
l1
– protein capsid trong (nằm ở bề mặt trong của capsid trong).
a2
– protein capsid trong.
m2
– protein lõi.
a4
– protein không cấu trúc.
m3
– protein không cấu trúc.
l3
– RNA polymerase.
- Genome gồm 10-11 phân tử RNA kép:
L1, L2 và L3: RNA kép dài.
M1, M2 và M3: RNA kép trung bình.
S1, S2, S3 và S4: RNA kép ngắn.
b- Hấp phụ và xâm nhập
- Gai VP4 của virus bám vào thụ
thể bề mặt glycophorin – A của tế bào lông ruột.
- Virus vào tế bào theo có chế
nhập bào qua trung gian thụ thể, tạo endosome.
- Màng endosome dung hợp với màng
lysosom. Enzyme lysosom phân giải vỏ capsid ngoài, giữ lại vỏ capsid trong
và tìm cách thoát vào tế bào chất.
c- Phiên mã và sao chép
- RNA polymerase phụ thuộc RNA do
virus mang theo được hoạt hoá khi vỏ ngoài bị phân huỷ bởi enzyme protease.
- RNA tiến hành phiên mã tạo mRNA
trên khuôn sợi RNA (-). Quá trình thực hiện bên trong vỏ capsid.
- mRNA có 2 chức năng: mRNA và RNA
khuôn để tổng hợp sợi tương bù cho genome.
- mRNA được đẩy qua kênh nằm ở
đỉnh capsid vào tế bào chất.
d- Dịch mã
- mRNA tổng hợp trên riboxom các
loại protein cấu trúc và không cấu trúc (enzyme).
- Protein cấu trúc lắp ráp tạo vỏ
capsid trong, bao quanh 11 đoạn RNA (+). Tiếp đó sợi RNA (+) đuợc dùng làm
khuôn tạo sợi RNA (-) tương bù để được genome RNA kép.
e- Lắp ráp và giải phóng
- Protein cấu trúc lắp ráp tạo vỏ
capsid ngoài bao quanh capsid trong, tạo virion hoàn chỉnh, phá vỡ tế bào ra
ngoài. Tế bào lông ruột bị phá huỷ, gây tiêu chảy.
19.2.3. Bacteriophage
Bacteriophage (Bacterriophage),
viết tắt phage (phage), là virus kí sinh ở vi khuẩn. Genome của chúng có thể
là DNA hoặc RNA, với kích thước nằm trong khoảng từ 2,5 đến 150kb. Phage có
thể có chu trình sống đơn giản – chu trình tan hoặc phức tạp – chu trình
tiềm tan, ở đó genome của chúng được cài vào NST của tế bào hoặc hoạt động
theo phương thức chuyển vị.
Phage được phát hiện từ đầu thế kỷ
XX, một cách độc lập, bởi hai nhà khoa học là Twort (1915) và d’Herelle
(1917). Phage được nghiên cứu rất sâu rộng như là một mô hình về virus và
như một công cụ để phát hiện những kiến thức cơ bản đầu tiên về DNA (DNA là
vật chất di truyền, xác định mật mã di truyền, sự tồn tại của mRNA và nhiều
khía cạnh sinh học phân tử cơ bản khác).

Vì phage kí sinh ở
prokaryota nên chúng thường có trình tự quan trọng giống như tế bào chủ. Do
vậy, chúng còn được sử dụng như là mô hình đơn giản cho nhiều khía cạnh sinh
học phân tử khác nhau của prokaryota. Phage được sử dụng phổ biến như là
vectơ tách dòng, liệu pháp gen, sản xuất vacxin. Nhiều enzim do phage mã hóa
được dùng trong kỹ thuật di truyền để nối các đoạn gen và biểu hiện gen
trong tế bào prokaryota…
Các quá tình nhân lên ở
bacteriophage
Về cơ bản, các bước nhân lên của
các bacteriophage trong tế bào vi khuẩn là giống nhau. Tuy nhiên, cũng có
những khác biệt ở từng loại. Một số nhân lên theo chu trình tan, số khác lại
nhân lên theo chu trình tiềm tan.
a.
Hấp phụ: Trong môi trường dịch thể, phage ở trạng thái chuyển động tự
do. Do va chạm ngẫu nhiên, phân tử protein ở đầu mút sợi lông đuôi gắn đặc
hiệu vào thụ thể - phân tử polysaccharit, trên bề mặt màng ngoài của
E.coli. Mỗi loại phage gắn vào một loại thụ thể, có thể là polysaccharit
trên bề mặt tế bào Gram (-) hoặc acid teichoic của vi khuẩn Gram (+), số
khác chỉ gắn được vào đầu mút của pili F.
b.
Xâm nhập: Phage tiết lyzozim phá hủy peptidoglycan. Bao đuôi co lại,
ống trục đâm xuyên qua thành tế bào, đẩy acid nucleic vào trong tế bào.
c. Tổng hợp các thành phần:
Sau khi acid nucleic vào tế bào là thời kỳ ẩn (eclipse period). Không có bất
kỳ một virion nguyên vẹn nào được tạo thành. Genome của virus kiểm soát bộ
máy tổng hợp của tế bào, ngăn chặn sự tổng hợp bình thường của tế bào để
chuyển sang tổng hợp các thành phần của phage bao gồm tổng hợp genome và
protein (y như kẻ xâm lược trong một quốc gia không phòng thủ).
d.
Lắp ráp: Các bộ phận đầu, đuôi, lông, v.v. được tạo thành ở các nơi
khác nhau như trong phân xưởng, sau đó lắp ráp ngẫu nhiên với nhau. Genome
DNA được tạo thành nhờ DNA polymerase mới tổng hợp sau đó chui vào lõi để
tạo virion hoàn chỉnh.
e. Phóng thích:
Lyzozim do phage tổng hợp phá hủy peptidoglycan thành tế bào. Khi thành tế
bào bị phá hủy, sự thẩm thấu sẽ làm cho tế bào trương lên và vỡ ra. Phage
giải phóng ra môi trường xung quanh để lặp lại chu trình nhân lên ở tế bào
mới. Sau đây là một số phage có tầm quan trọng trong thực tiễn.
(1) Phage M13
Phage có dạng sợi, chứa genome DNA
(+) đơn, khép vòng, với kích thước 6,4Kb. M13 gắn đặc hiệu vào pili F (pili
được mã hóa bởi plasmit, gọi là yếu tố F, chỉ có ở tế bào “đực”) của
E.coli thông qua protein phụ (g3p) nằm trên vỏ ở đầu sợi phage. Sự gắn
này cảm ứng làm thay đổi cấu trúc của protein chính tạo nên vỏ capsid khiến
toàn hạt co ngắn lại tạo động lực bơm DNA vào tế bào chất. DNA polymease của
tế bào tổng hợp một sợi bổ sung tạo DNA kép dạng sao chép (RF). Genome gồm
10 gen nằm sát nhau, có một vùng xen nhỏ (intergenic region) ở đó chứa điểm
khởi đầu sao chép (ori). Phiên mã xảy ra (vẫn nhờ enzyme của tế bào chủ) tại
bất kỳ một trong số vài promoter, cho đến khi gặp một trong hai điểm kết
thúc (terminator). Quá trình này dẫn đến những gen nằm gần điểm kết thúc
được phiên mã nhiều hơn so với các gen nằm xa, và đây cũng là phương thức
chủ yếu trong việc điều hòa sự biểu hiện gen của phage M13. Tất cả RF đều
được tổng hợp như tổng hợp DNA kép bình thường, nhưng sự khởi đầu sao chép
cần phải cắt đứt sợi (+) nhờ enzyme endonuclease (sản phẩm của gen 2) để hở
đầu 3’-OH, mà không cần mồi. Từ mỗi RF liên tục tạo ra các sợi DNA (+) dành
cho đóng gói tạo virion. Các sợi này không dùng được làm khuôn tạo sợi DNA
(-) vì ngay sau khi được tổng hợp, chúng đã được bao bọc bởi protein, sản
phẩm của gen 5. Cấu trúc này được chuyển ra màng tế bào, ở đó DNA bám vào
protein chính của capsid trên màng tế bào rồi chui ra theo lối nảy chồi mà
không phá vỡ tế bào.
Vi khuẩn nhiễm M13 vẫn tiếp tục
sinh trưởng và phân chia, cho dù với tốc độ thấp hơn, tạo ra thế hệ tế bào
mới và giải phóng M13. Lượng DNA được chui là ra khác nhau, nên các hạt có
kích thước khác nhau. Trong quần thể luôn có những hạt mang nhiều genome và
những hạt mang một phần genome.
Nhờ cách nhân lên kỳ lạ và cấu tạo
genome đặc biệt mà M13 được sử dụng có hiệu quả trong công nghệ sinh học:
- Genome là chuỗi đơn nên được
dùng trong giải trình tự.
- Dạng trung gian RF (DNA kép khép
vòng) như là một plasmit nên được dùng làm vectơ tách dòng.
- Không có sự hạn chế về kích
thước genome nên có thể gắn một đoạn DNA ngoại lai lớn.
- Do không làm tan tế bào, nên có
thể duy trì và liên tục tách chiết một lượng lớn DNA tách dòng.
(2) Phage T7
Cũng như các phage khác, T7 cũng
có đầu hình khối đa diện gắn với một đuôi ngắn với 6 sợi lông đuôi.
Phage T7 có kích thước nhỏ, có
genome là DNA kép (khoảng 40 Kb) dạng thẳng.
Trước hết đầu mút sợi lông đuôi
gắn vào thụ thể LPS trên màng sinh chất. Khi xâm nhập, một đầu của genome
(gọi là đầu trái) bao giờ cũng đi vào trước, do vậy bản đồ genome được chia
theo phần trăm tính từ đầu trái. Ngay sau khi genome vào tế bào chất,
RNApolymease phụ thuộc DNA bình thường của E.coli nhận ra 3 promoter
của các gen sớm ngay, nằm giữa vị trí 1% và 2%, ở đầu 3’ của genome. Tất cả
các sản phẩm của các gen sớm đều tham gia vào sự điều khiển làm dừng phiên
mã của tế bào chủ, chuẩn bị cho sao chép và biểu hiện genome virus.
Bản phiên mã sớm được ribonuclease
III của tế bào chủ phân cắt thành các mRNA, trong đó có mRNA mã hóa cho
protein kinase (gp0,7) dùng để phosphoryl hóa và làm bất hoạt RNA polymerase
của vật chủ, ngăn cản sự phiên mã của các gen sớm khác. Và tổng hợp một RNA
polymerase (gp1) dùng để phiên mã các gen nằm ở giữa, tham gia vào sao chép
DNA T7 và các gen muộn tham gia vào lắp ráp và làm tan bào để giải phóng
virus. Các sản phẩm khác, gp2, cũng gắn vào RNA polymerase của tế bào để làm
bất hoạt enzyme này. RNA polymerase của T7 có tính đặc hiệu cao với promoter
T7, nên ức chế RNA polymerase của tế bào và dành toàn bộ hoạt động phiên mã
cho T7.
Sự sao chép genome T7 gồm 3 giai
đoạn:
a.
Khởi đầu diễn ra tại một vị trí nằm ở đầu trái của genome. RNA
polymerase (gp1) của T7 tổng hợp một mồi ngắn từ các protomer tại vùng khởi
đầu dùng cho bước khởi đầu.
b. Kéo dài
từ mồi theo 2 hướng, do 2 enzyme gp5 và gp7 của T7 xúc tác. Protein gp5 gắn
với thioredoxin để tạo một DNA polymerase dùng cho tổng hợp DNA từ mồi, theo
hướng 5’ – 3’, do đó tạo thành sợi muộn. Protein gp4 là enzyme đa chức năng,
có hoạt tính pimase, helicase và NTP-ase, nó gắn vào mạch DNA đơn duỗi xoắn
của phân tử DNA mẹ và chuyển dịch theo hướng 5’ – 3’ của DNA nhờ thuỷ phân
NTP. Sự mở xoắn của chuỗi DNA mẹ theo hướng chạc sao chép. Khi gặp vị trí
đặc hiệu nhận biết primase, gp4 sẽ tổng hợp các mồi tetraribonucleotide
(pppApCpCpC hoặc pppApCpCpA). Các mồi này cung cấp đầu 3’-OH để khởi đầu
tổng hợp sợi muộn nhờ DNA polymerase của T7. Protein gp3 là một endonuclease
và gp6 là một exonuclease tiến hành phân giải DNA vật chủ để cung cấp các
nucleotide làm nguyên liệu cho tổng hợp DNA T7. Gp6 và DNA polymerase I của
vật chủ tham gia vào loại bỏ mồi mRNA.
c.
Sự tạo thành phân tử DNA trùng lặp (concatemer)
Do phân tử RNA mồi ở đầu 5’ bị
loại bỏ trước khi hoàn thành sao chép, nên mỗi phân tử DNA kép mới tạo
thành, có một đoạn ở đầu 5’ không được sao chép và tương ứng với nó ở đầu 3’
của mạch tương bù là đoạn đơn. Các đoạn đơn này của hai chuỗi có trình tự
lặp lại cùng chiều, nên có thể gắn với nhau, tạo phân tử DNA đúp
(bimolecule). Những chỗ hở được tổng hợp bổ sung và nối với nhau nhờ ligase.
Concateme được endonuclease T7 (gp3) cắt tại các vị trí đặc hiệu ở cả hai
phía tạo thành các đoạn đầu sole, sau đó DNA polymerase hoàn tất đầu mạch
đơn (sole) thành phân tử kép đầu bằng, có kích thước của genome T7. Phage
trưởng thành thoát khỏi tế bào nhờ lyzozim (gp3,5) làm tan bào. Đáng chú ý
là RNA polymerase rất đặc hiệu với promoter T7, cho nên có thể tiến hành
phiên mã bất kỳ trình tự DNA nào nếu có promoter T7. RNA polymerase của T7
có khả năng phiên mã mạnh gấp 5 lần RNA polymerase của E. coli, do đó
thường được dùng để biểu hiện gen trong E. coli.
(3) Phage T4
T4 là một phage T chẵn, có kích
thước lớn. Genome là DNA kép, dạng thẳng, chứa khoảng 100 gen với kích thước
1,7x108 bp. Chu trình nhân lên bắt đầu khi lông đuôi bám vào thụ
thể bề mặt của E. coli, tiết lyzozim phân giải peptidoglycan thành tế
bào, rồi bơm DNA vào trong tế bào. Mặc dù genome là dạng thẳng nhưng trong
quần thể, các virion chứa genome có trình tự thay đổi theo kiểu vòng tròn,
tức là đổi đầu quay vòng (circular permutation) và có hai đầu lặp lại cùng
chiều. Do vậy để dễ hình dung, người ta thường biểu diễn bản đồ gen của T4
là một vòng tròn. Ví dụ các virion có thể chứa các genome có trình tự sau
đây:
ABCDEFGAB,
CDEFGABCD, EFGABCDEF, GABCDEFGA, …
Một trong những gen được dịch mã
đầu tiên là enzyme dùng để chặt nhỏ DNA của tế bào chủ, nhưng không động
chạm đến DNA của phage, bởi vì base cytosin thông thường trong DNA đã được
thay thế bởi một base C cải biến, 5-hydroxy metylcytosin (HMC). HMC bắt cặp
với guanin nên không làm thay đổi chức năng khuôn của virus, nhưng sự có mặt
của nó giúp cho enzyme virus phân biệt được acid nucleic của virus với của
tế bào chủ. Sự cải biến này làm cho DNA của phage kháng lại nhiều enzyme
giới hạn của tế bào chủ. Tuy nhiên, các nhóm hydroxyl của 5-HMC được cải
biến bằng cách thêm gốc glucozơ, DNA đã glucosyl hoá này kháng lại hầu như
tất cả các endonuclease của tế bào chủ.
Toàn bộ cho trình từ lúc bắt đầu
tiếp xúc với bề mặt tế bào đến khi làm tan tế bào kéo dài 20-30 phút ở 3oC,
trong đó tổng hợp DNA bắt đầu khoảng 5 phút sau khi nhiễm.
Genome T4 gồm 3 nhóm gen sớm ngay,
gen sớm sau và gen muộn.
-
Gen sớm
ngay được phiên mã nhờ RNA polymerase (bình thường
aabb’
và
d) đã được cải biến của tế
bào để tạo các protein điều hoà. Khi xâm nhập, một protein (sản phẩm của gen
alt (alternation) của T4) được đưa vào tế bào chủ cùng với DNA để cải biến
trình tự RNA polymerase E. coli, làm giảm ái lực của yếu tố
d
với enzyme lõi (aabb’)
khiến yếu tố này không nhận diện được promoter của E. coli dẫn đến
cản trở phiên mã của tế bào, nhưng lại nhận diện được promoter gen sớm của
T4 để tiến hành phiên mã.
-
Gen sớm
sau mã hoá cho enzyme DNA polymerase tham gia và sao chép và phiên mã của
virus.
-
Gen muộn
mã hoá cho các protein cấu trúc (đầu, đuôi, lông) và enzyme dùng để giải
phóng phage khỏi tế bào.
Sự sao chép DNA diễn ra tương tự
như ở phage T7. Phân tử mới được sao chép có đầu thừa tận cùng tại đầu 5’
của cả hai phân tử con. RNA mồi không được thay thế bởi DNA, do đó ở đầu 3’
đối diện là đoạn DNA đơn. Các base bổ sung ở đầu 3’ của 2 phân tử trùng lặp
(concateme). DNA ligase hàn các chỗ đứt. Enzyme giới hạn cắt phân tử DNA
concateme thành các đoạn bằng nhau tạo genome đổi đầu quay vòng.
Phiên mã genome muộn hoàn toàn phụ
thuộc vào sự có mặt của DNA mới tổng hợp, là dạng có cấu trúc lỏng lẻo thuận
lợi cho phiên mã. Ba peptide, sản phẩm của các gen T4 (33,45 và 55) gắn vào
RNA polymerase với các chức năng là các chất hoạt hoá gen (gen activators)
giúp nhận diện promoter gen muộn.
Quá trình lắp ráp và giải phóng
diễn ra như ở các phage T khác. Tế bào bị phá vỡ, giải phóng 100-200 hạt
phage.
DNA-ligase của T4 là enzyme xúc
tác cho phản ứng tạo liên kết photphodieste giữa 3’-OH và 5’-P liền kề của
phân tử DNA và RNA sợi đôi. Do enzyme này có khả năng nối các đoạn DNA có
đầu sole hoặc đầu bằng, nên được sử dụng rộng rãi trong tách dòng và cải
biến DNA.
(4) Phage lamda
Phage lamda là virus ôn hoà có cấu
tạo giống T4, nhưng đuôi của nó chỉ có một sợi lông ngắn. Đầu chứa DNA kép,
dạng thẳng. Sự lây nhiễm bắt đầu khi sợi lông đuôi gắn vào thụ thể bề mặt
của E. coli, sau đó tiêm DNA vào tế bào chất. DNA của viron là sợi
kép, dạng thẳng nhưng 2 đầu là mạch đơn và bổ sung cho nhau, gọi là đầu dính
(cohesive end), viết tắ là cos. Ở trong tế bào chủ, hai đầu genome nhanh
chóng gắn vào nhau tạo phân tử dạng vòng. Điều gì xảy ra tiếp theo là tuỳ
thuộc phương thức sinh sản, chu trình tan hay chu trình tiềm tan. Chu trình
tan về cơ bản giống với T4, nhưng ở đây chia làm giai đoạn.
-
Giai đoạn I: Từ
điểm khởi đầu Ori, tiến hành sao chép theo hai hướng đối diện nhau, theo
kiểu theta và kết thúc khi 2 chạc ba gặp nhau, để tạo nhiều khuôn cho phiên
mã và khuôn cho sao chép.
-
Giai đoạn II: Từ
khuôn DNA kép dạng vòng mới được tổng hợp, tiến hành sao chép theo cơ chế
vòng tròn xoay (giống như
fx174).
Enzyme cắt làm đứt sợi (+) ngoài để lộ đầu 3’-OH, sợi (-) nguyên vẹn bên
trong dùng làm khuôn. Sợi (-) xoay, trong khi các nucleotide gắn vào đầu
3’-OH để nối dài mạch mà không cần mồi, thường sau khi tổng hợp một đoạn DNA
mạch đơn dài sẽ gắn mồi để tổng hợp mạch bổ sung, tạo phân tử DNA kép.
Enzyme cắt do phage
l
mã hoá sẽ cắt ở vị trí chuyên biệt trên cả hai mạch để tạo đoạn có kích
thước genome. Điểm cắt là đầu dính cos.
Sau sao chép genome là phiên mã
gen muộn để tạo protein cấu trúc, tiếp dó là các giai đoạn lắp ráp và giải
phóng.
Điều đáng chú ý là trên DNA của
l
có một đoạn (nằm giữa gen J và gen att) không đóng vai trò quan trọng trong
quá trình nhân lên của
l.
Do đó trong kỹ thuật di truyền, phage
l
được dùng làm vectơ chuyển gen. Người ta cắt bỏ đoạn này và thay vào đó đoạn
gen mong muốn để tách dòng.
Chu trình tiềm tan. Ngược với chu
trình tan là chu trình tiềm tan, theo đó không một thành phần nào của phage
được tổng hợp và tế bào không bị tan. Genome khép vòng được cài xem vào NST
của tế bào. DNA ở trạng thái này gọi là prophage. Một protein ức chế do
phage mã hoá ngăn cản sự phiên mã của các gen muộn, do đó duy trì trạng thái
tiềm tan. Khi tế bào phân chia, prophage cũng được phân chia theo. Trạng
thái này sẽ bị mất khi chất ức chế bị bất hoạt. Ở trạng thái prophage, một
vài gen của phage (ngoài gen mã hoá cho chất ức chế) vẫn có thể được biểu
hiện, đôi khi làm thay đổi phenotyp của tế bào chủ, ví dụ làm thay đổi hình
dạng khuẩn lạc. Các ví dụ đáng chú khác là độc tố của vi khuẩn
Corynebacterium diphteriae, gây bệnh bạch cầu, được mã hoá bởi prophage.
Độc tố thần kinh do Clostridium botulinum có trong các hộp thịt
phồng, cũng do prophage mã hoá. Tế bào tiềm tan có thể sinh trưởng, phân
chia và hình thành tế bào mới giống như tế bào mẹ. Trong thực tế, hầu hết
trong nuôi cấy, vi khuẩn đều có thể mang một hoặc vài prophage, nhưng chỉ
một tỷ lệ rất nhỏ 1/10000 hoặc 1/100000 prophage có thể tách khỏi nhiễm sắc
thể để tiến hành chu trình tan, tạo virion mới và gải phóng ra môi trường.
Các virion được giải phóng không ảnh hướng tới các tế bào tiềm tan khác, bởi
vì protein ức chế luôn duy trì prophage ở trạng thái tiềm tan, giúp tế bào
tiềm tan “miễn dịch” trước sự xâm nhập của virus cùng loại. Do có sự “miễn
dịch” nên các phage ôn hoà chỉ tạo vệt tan khi cho xâm nhiễm vào các chủng
không phải tiềm tan. Các vệt tan xuất hiện rất đặc trưng. Các virus độc tạo
vệt tan rất rõ trong khi virus tiềm tan chỉ tạo vệt tan mờ. Các vệt tan nhìn
thấy được vì nhiều tế bào bị tan do các phage tiến hành chu trình tan. Vệt
tan mờ là vì một số tê bào tiềm tan vẫn sống sót, sinh sản trong vệt tan.
(5) Phage chuyển vị (TP)
Phage chuyển vị (transposable
phage) chủ yếu gặp ở các vi khuẩn Gram âm, nhất là Pseudomonas. Một
trong các ví dụ điển hình nhất là phage Mu. Phage chuyển vị có vòng đời theo
cả chu trình tan và tiềm tan, giống như phage
l,
nhưng klhác ở phương thức sao chép genome. Ở pha tan sớm, một số quá trình
phức tạp liên quan đến enzyme transposase của virus, DNA polymerase của vi
khuẩn và một số enzyme khác (của virus và vi khuẩn) tiến hành sao chép DNA
và cài bản sao genome mới tạo thành của virus vào tế một vị trí nào đó trên
NST của tế bào và do đó có thể làm bất hoạt các gen tại vị trí gắn dẫn đến
đột biến. Không có genome nguyên ven của virus rời khỏi NST tế bào chủ. Chỉ
sau một số vòng chuyển vị sao chép (replicative transposition), genome virus
cùng với một phần DNA liền kề của tế bào được tách ra khỏi tế bào để thực
hiện chu trình tan.
Phage chuyển vị được dùng phổ biến
trong công nghệ sinh học để đưa gen mong muốn vào các tế bào nhân sơ.
19.3. NUÔI CẤY VIRUS ĐỘNG VẬT
19.3.1. Phát triển phương pháp
nuôi cấy
Trước kia nếu muốn nuôi cấy
virus thì người ta phải nuôi cấy trên cơ thể động vật. Như vậy rất khó quan
sát được các hiệu ứng đặc thù của virus ở mức độ tế bào. Vào những năm 30
của thế kỷ 20 các nhà virus học đã phát hiện thấy trứng gà mang phôi (đã thụ
tinh hay chưa thụ tinh) có thể được dùng để nuôi cấy virus herpes, virus đậu
mùa và virus cúm. Mặc dù phôi gà có kết cấu giản đơn hơn nhiều so với cơ thể
thỏ hay chuột thí nghiệm nhưng phôi gà vẫn là một cơ thể phức tạp. Sử dụng
phôi gà không giải quyết được triệt để những vấn đề gặp trong hiệu ứng tế
bào học do virus gây ra. Mặt khác, vi khuẩn cũng phát triển tốt trên phôi
gà, trên các phôi nhiễm vi khuẩn rất khó đánh giá chính xác được các hiệu
ứng do virus. Vì vậy ngành virus học đã phát triển chậm chạp khi chưa cải
tiến được phương pháp nuôi cấy virus.
Có hai phát hiện mới đã làm
triển khai được phương pháp nuôi cấy tế bào giúp cho các nhà virus học và
các nhà khoa học khác. Một là, việc phát hiện và sử dụng chất kháng sinh để
ngăn ngừa sự cảm nhiễm vi khuẩn. Hai là, các nhà sinh học phát hiện thấy các
enzyme thủy phân protein (proteolytic), nhất là trypsin, có thể làm tách
riêng các tế bào ra khỏi các mô xung quanh mà không làm tổn hại đến các tế
bào này. Rửa các tế bào và đếm số lượng chúng, pha loãng rồi chuyển vào các
bình, các ống nghiệm hay hộp Petri bằng nhựa (plastic). Các tế bào trong
dịch huyền phù sẽ hấp phụ trên bề mặt lớp thành nhựa, cúng sinh sôi nẩy nở
và lan ra thành một tầng tế bào gọi là tầng tế bào đơn (monolayer). Tầng tế
bào đơn này có thể truyền thế hệ (subcultured). Nuôi cấy truyền thế hệ
(subculturing) là đem các tế bào nuôi cấy được đi nuôi cấy trong các môi
trường nuôi cấy mới. Một lượng lớn các tế bào truyền thế hệ (subcultures)
được tạo thành từ một mẫu tổ chức đơn sẽ là mẫu tế bào nuôi cấy đồng nhất
cần thiết cho hàng loạt các nghiên cứu hiệu ứng của virus.
Thuật ngữ nuôi cấy mô (tissue
culture) đã được sử dụng rộng rãi nhưng nuôi cấy tế bào (cell culture) cần
sử dụng chính xác hơn. Hiện nay, phần lớn các tế bào nuôi cấy đều là tầng tế
bào đơn sinh trưởng ra từ các tế bào phân tán đã được xử lý nhờ enzyme. Nhờ
sử dụng nhiều loại hình nuôi cấy tế bào vận dụng chất kháng sinh để ức chế
cam nhiễm mà Virus học đã bước vào thời đại vàng (Golden Age). Từ
thập kỷ 50 đến thập kỷ 60 của thế kỷ 20 đã có trên 400 virus được phân lập
và giám định (characterized) Mặc dù các virus mới đã được phát hiện nhưng
trọng tâm hiện nay là cân giám định kỹ hơn các đặc tính của virus, xác định
các bước cảm nhiễm (infection) và nhân lên (replication) của virus.
Các thí nghiệm vệt tan (plaque)
dùng trong nghiên cứu phage (phages) có thểt dùng cho cả các virus đồng vật.
Chẳng hạn, nuôi cấy tầng tế bào đơn các tế bào người, sau đó cấy virus, nếu
virus làm tan tế bào thì rất nhiều vòng xâm nhiễm sẽ sản sinh vệt tan.
19.3.2. Các loại hình nuôi
cấy tế bào
Trong Virus học lâm sàng và
Virus học thực nghiệm thường sử dụng rộng rãi 3 kiểu cơ bản nuôi cấy tế bào:
-Nuôi cấy tế bào nguyên đại
(primery cell culture)
-Các chủng nguyên bào sợi nhị
bội thể (diploid fibroblast strains)
-Các dòng tế bào liên tục
(continous cell lines)
Vật nuôi cấy tế bào nguyên đại
là lấy trực tiếp từ động vật, không qua truyền thế hệ (not subcultured). Các
động vật lấy mẫu càng non thì thời gian sống của tế bào nuôi cấy càng kéo
dài. Điển hình của các tế bào này là thể hỗn hợp của nhiều loại hình tế bào
như tế bào cơ bắp (muscle), tế bào thượng bì (epithelial). Tuy vậy số lần
phân cắt của các tế bào này thường không nhiều, nhưng cũng đủ để hỗ trợ cho
nhiều chủng virus sinh trưởng
Nếu việc nuôi cấy tế bào nguyên
đại có thể truyền thế hệ một cách lặp lại thì một típ (type) tế bào sẽ chiếm
ưu thế và vật nuôi cấy các tế bào này được gọi là chủng tế bào (cell
strain). Trong chủng tế bào tất cả các tế bào loại hình gene giống nhau.
Chúng có thể truyền thế hệ nhiều lần, mỗi thế hệ giữa các tế bào khả năng
xuất hiện các khác biệt là rất nhỏ. Các khác biệt này có thể can thiệp vào
kết quả xác định hiệu ứng của virus.
Các chủng nguyên bào sợi nhị
bội thể là các chủng tế bào thường dùng nhất. Nguyên bào sợi (fibroblasts)
là một loại tế bào chưa thành thục. Chúng có thể sản sinh ra collagen và các
sợi khác như là cơ chất của mô liên kết giống như chân bì (dermis of
the skin) Các chủng tế bào này là lấy từ mô của phôi, giữ tốc độ phát triển
nhanh và phân cắt liên tiếp của phôi. Chủng tế bào này hỗ trợ cho sự phát
triển của các loại virus và thường không mang các virus ô nhiễm như các
chủng tế bào thu được từ các động vật trưởng thành. Chính vì vậy mà các
chủng tế bào này thường được sử dụng để sản xuất các loại vaccin virus.
Típ thứ ba nuôi cấy tế bào được
sử dụng rộng rãi là dòng tế bào liên tục. Một dòng tế bào liên tục chứa các
tế bào có thể sinh sản ra rất nhiều thế hệ. Dòng tế bào liên tục nổi tiếng
nhất là dòng tế bào HeLa. Dòng tế bào này sau khi được phát hiện từ năm 1951
đã được nuôi cấy liên tục và được các nhà nghiên cứu khắp thế giới sử dụng
rộng rãi. Nguồn gốc của dòng tế bào HeLa là lấy từ một phụ nữ bị ung thư tử
cung và chữ HeLa là lấy từ các chữ đầu của tên người này. Trên thực tế rất
nhiều dòng tế bào liên tục thời kỳ đầu đều là dùng các tế bào ung thư ác
tính, vì chúng có năng lực sinh trưởng rất nhanh. Các dòng tế bào vĩnh sinh
(immortal cell lines) được nuôi cấy trong các phòng thí nghiệm không bị lão
hóa, phân chia nhanh chóng, nhu cầu dinh dưỡng thường đơn giản hơn các tế
bào thông thường. Ví dụ dòng tế bào HeLa có chứa 2 gen virus cần thiết cho
năng lực vĩnh sinh hóa (immortality) của chúng. Dòng tế bào vĩnh sinh này là
dị bội thể (heteroploid) –chứa số lượng khác nhau các nhiễm sắc thể, vì vậy
mà có tính đa dạng di truyền.
Việc nuôi cấy tế bào đã thay
thế trên mức độ rất lớn các động vật thực nghiệm và trứng chứa phôi khi
nghiên cứu Virus học động vật. Tuy vậy trứng gà mang phôi vẫn là hệ thống
vật chủ tốt nhất đối với virus cúm A.

Ngoài ra chuột nhỏ loại Albino
Swiss vẫn được dùng để nuôi cấy Arbovirrus (Arthropod-borne
viruses), có lúc cũng dùng những dòng tế bào động vật có vú khác hoặc các
dòng tế bào muỗi.
19.3.3. Hiệu ứng bệnh biến
tế bào (The cytopathic effect)
Hiệu ứng thấy được của virus
đối với tế bào cảm nhiễm được gọi là hiệu ứng bệnh biến (cytopathic effect,
CPE). Các tế bào trong nuôi cấy biểu hiện các loại hiệu ứng chung, bao gồm
sự biến đổi hình dạng tế bào và sự tách ra khỏi các tế bào phụ cận hoặc vật
dụng nuôi cấy.

Tuy nhiên CPE có thể cũng có
những biểu hiện đặc biệt mà các nhà nghiên cứu virus học thực nghiệm có thể
dùng để giám định sơ bộ virus xâm nhiễm. Chẳng hạn, adeno virus và herpes
virus ở người có thể làm cho tế bào cảm nhiễm trương phồng lên do bị tích
lũy dịch thể. Còn picorna virus lúc xâm nhập tế bào có thể ngăn chặn tế bào
và làm tan vỡ tế bào khi chúng thoát ra. Paramyxo virus có thể làm dung hợp
(fuse) các tế bào đứng gần nhau, tạo nên các thể hợp bào (syncytia, số nhiều
là syncytium). Thể hợp bào có thể chứa từ 4 tới 100 nhân trong một tế bào
chất chung. Ngoài ra có một dạng CPE khác là sự biến nạp (transformation):
từ tế bào bình thường biến thành tế bào ác tính.
19.4. VIRUS VÀ UNG THƯ
Ung thư được biết là loại bệnh
mà có sự rối loạn về hoạt động và chức năng của những tế bào bình thường. Có
thể định nghĩa Ung thư (cancer) như là sự tăng trưởng không thể khống chế
được của các tế bào dị thường, nói cách khác là các tế bào không nhừng phân
chia. Rất nhiều trường hợp không thể đình chỉ được sự phân cắt của chúng,
kết quả là tạo thành các Mô ung thư (Neoplasm) hoặc Khối u (Tumor). Mô ung
thư có thể là lành tính (benign) - tăng trưởng phi ung thư (noncancerous).
Nhưng nếu các tế bào xâm nhập và can thiệp vào chức năng của các mô bình
thường chung quanh thì sẽ trở thành ác tính (malignant). Ung thư ác tính và
các tế bào của chúng có thể di căn (metastasize) hoặc khuếch tán (spread)
tới các mô khác của cơ thể.
Năm 1911, F. Peyton Rous đã
phát hiện thấy một số virus có thể gây ra ung thư ở động vật, ông xác định
một số sarcomas (neoplasm ở mô liên kết) ở gà là do một loại virus
được gọi là Rous sarcoma virus, RSV- gây ra. Vì vậy không có gì đáng
ngạc nhiên với các phát hiện virus có liên quan đến bệnh ung thư ở người.
Mặc dù phần lớn ung thư ở người là do các đột biến di truyền (genetic
mutation) hay do các hóa chất gây ô nhiễm môi trường, hoặc do cả hai gây ra
ung thư. Các nhà nghiên cứu dịch tễ cho rằng có khoảng 15% các ung thư ở
người do có sự xâm nhiễm của virus.
19.4.1. Các virus gây ung
thư ở người
Qua nhiều năm nghiên cứu và
thực nghiệm hiện nay đã biết ít ra là đã có 6 loại virus liên quan đến ung
thư ở người. Có thể còn có nhiều hơn nữa sẽ được xác định.
Virus Epstein-Barr, EBV hay
thường gọi là virus EB: là loại virus gây ung thư ở người được hiểu biết
nhiều nhất. Loại virus DNA này là một Herpes virus lần đầu tiên phát hiện
trên trẻ em Châu Phi bị ung thư lympho Burkitt. Loại ung thư ác tính này gây
ra xưng phồng rồi dẫn đến hoại tử hàm dưới. Trên thực tế đã chứng minh được
là có 3 loại ung thư khác liên quan đến virus EB.
Một số virus Papilloma ở người
(human papillomavirus, HPV) có liên quan đến mật thiết đến ung thư ở người.
Mặc dù một số virus DNA này chỉ gây ra các mụn cơm (warts) lành tính nhưng
có những tip khác (HPV-8, HPV-16) đã gây ra ung thư tử cung (ung thư mô
thượng bì). Có thể nói 99,7% ung thư tử cung là do HPV gây nên Một số virus
DNA khác gây ung thư là virus viêm gan B (HBV). Chúng gây ra bệnh viêm gan
và 80% các trường hợp ung thư gan là do chúng gây nên. Ung thư Sarcoma
Kaposi là loại ung thư tế bào nội bì trong mạch máu và hệ thống lympho, loại
ung thư này có liên quan đến virus Herpes-8 ở người (human herpesvirus 8).
Hiện nay đã phát hiện thấy các
virus gây ung thư ở người chủ yếu là các virus hai chuỗi DNA (dsDNA). Tuy
nhiên một số virus RNA sợi thẳng, hay(+) sense RNA, nhất là các Retrovirus
cũng có thể liên quan đến ung thư. Chẳng hạn HTLV-I gây nên bệnh máu trắng
tế bào T ở người lớn hoặc ung thư lympho (aldult T cell leukemia/lymphoma).
19.4.2. Virus ung thư gây
bệnh như thế nào?
Giống như phage (thực khuẩn
thể, phage), các virus động vật thường thông qua việc làm tan để gây chết tế
bào. Một số virus động vật khác có thể xâm nhiễm tế bào và tạo thành các
Tiền virus (proviruses). Trong một số trường hợp sự xâm nhiễm này có thể làm
cải biến về sinh lý và di truyền của các tế bào vật chủ (host cells) - tức
là các CPE đã nói tới ở phần trên. Ví dụ các virus RSV đã làm cho các tế bào
tách khỏi dụng cụ nuôi cấy và biến thành hình cầu. Trong trường hợp virus
ung thư DNA có thể tồn tại dưới dạng tiền virus. Các CPE chủ yếu của chúng
là sự phân cắt không kiểm soát được ở các tế bào xâm nhiễm. Quá trình này
được gọi là sự biến nạp gây u (neoplastic transformation), là đặc trưng điển
hình của các virus DNA. Nhiều virus đã đưa toàn bộ hay một phần DNA xâm nhập
vào vị trí ngẫu nhiên trong DNA của vật chủ. Tuy nhiên, chỉ có một ít gen
virus là cần thiết cho biến nạp.
Virus Papilloma (thuộc họ
Papovaviridae) có thể gây ra các tế bào ung thư ở người, nhưng DNA của chúng
lại tồn tại tự do trong tế bào chất của vật chủ. Một ít gen của virus
Papilloma là có hoạt tính và dẫn đến virus được sao chép (replicate) mỗi khi
phân cắt tế bào. Nếu DNA virus ngẫu nhiên kết hợp với DNA trong tế bào vật
chủ thì sẽ xảy ra sự tổng hợp protein virus không khống chế được. Các
protein này có thể làm cho tế bào mất đi khả năng khống chế phân cắt. Một số
protein virus này đã ngăn chặn hiệu ứng của các gen ngăn chặn ung thư
(tumor-suppressor genes), các gen có thể ngăn chặn sự phân cắt không khống
chế được của tế bào. Không có sản phẩm của các gen này, vật chủ sẽ không
khống chế được sự phân cắt tế bào và phát triển thành một khối u.
Nhiều virus Retro là các Virus ung thư
RNA. Trên thực tế chúng duy nhât là những virus RNA gây ung thư đã biết.
Cần nhắc lại, các virus Retro đã dùng enzyme transcriptase ngược để phiên mã
sợi RNA (+) vào DNA, sau đó trở nên một tiền virus (provirus) xâm nhập vào
nhiễm sắc thể của vật chủ. Protein phiên mã bởi tiền virus HTLV-I sẽ chuyển
hóa tế bào vật chủ thành khối u. Sự xâm nhiễm cũng dẫn đến sự phát sinh các
hạt virus (virion) mới bằng nẩy chồi, chúng không làm gây chết tế bào bị xâm
nhiễm. Do đó, virus ung thư RNA có thể tiếp tục xâm nhiễm vào các tế bào
chưa bị xâm nhiễm khác hoặc các tế bào sinh sản (sex cells). Nếu là tế bào
sinh sản sự tồn tại của các hạt virus sẽ làm cho thế hệ sau của vật chủ cũng
sẽ bị virus xâm nhiễm.
19.4.3. Các gen gây ung thư
(Oncogenes)
Các protein sinh ra bởi các virus
ung thư làm cho các tế bào vật chủ phân chia không khống chế được là được
phiên mã từ các đoạn DNA được gọi là các Gen ung thư (oncogenes), theo tiếng
Hy Lạp thì onco là tích thành khối. Trong các virus DNA gây
ung thư, các gen ung thư không chỉ gây ra khôi u mà chúng còn chứa các thông
tin để tổng hợp protein virus cần thiết cho sự sao chép virus. Gen gây ung
thư ở virus RNA gây ung thư thì hoàn toàn khác. Các nhà virus học và tế bào
học đều đã phát hiện thấy một số virus RNA gây ung thư có thể sinh ra các
gen đặc biệt (extra genes) từ các tế bào vật chủ bình thường khi sao
chép virus. Các gen này rất giống với gen gây ung thư và được gọi là gen
Nguyên u (Proto-oncogenes). Một gen Nguyên u là một gen bình thường, sau khi
bị virus khống chế nó có thể dẫn đến việc tế bào mất khả nămg khống chế sự
phân chia, tức là nó biến thành gen gây ung thư.
Nhiều gen gây ung thư đã được tìm
thấy trong các virus gây ung thư và phần lớn mang thông tin di truyền có thể
làm cho tế bào phân chia không hạn chế. Các gen gây ung thư này là các gen
đột biến chứa sự mất đoạn (deletions) hoặc sự thay thế (substitution). Các
đột biến này gây ra sự biến đổi cấu trúc trong protein mà gen đã phiên mã.
Gen gây ung thư hoạt động theo một trong hai phương thức sau đây:
Một là, sản phẩm của gen gây ung
thư có thể gây ra sự gián đoạn chức năng của tế bào bình thường dẫn đến sự
phân cắt tế bào. Hai là, gen gây ung thư bị khống chế bởi các gen diều hòa
của virus (viral regulators) nằm gần vị trí gắn kết (intergration) chúng vào
nhiễm sắc thể của vật chủ, gen điều hòa này ”mở ra” (”turn on”) gen tạo ra
các protein bình thường, nhưng là sự tổng hợp quá mức hoặc là tổng hợp không
phù hợp với chu kỳ sống của tế bào vật chủ; ngoài ra còn xuất hiện sự phân
chía quá mức tế bào. Sự phát hiện ra gen gây ung thư ở virus có ý nghĩa quan
trọng trong việc giúp hiểu biết về ung thư. Về ung thư ở người còn rất nhiều
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhưng các thuốc đặc hiệu chống virus trong
tương lai có thể ngăn ngừa được các bệnh ung thư do virus gây nên.
19.4.4. Hy vọng phòng chống ung
thư
Ung thư là một trong những nguyên
nhân chính gây tử vong trên thế giới. Năm 2005, người ta ước tính có khoảng
7,6 triệu nạn nhân chết vì bệnh này và trong mười năm sắp tới, số người chết
sẽ là 84 triệu nếu như không phòng chống. Tổ chức Y tế thế giới (WHO: World
Health Organization) đã thống kê trong 20 năm qua số người mới mắc ung thư
hàng năm đã tăng từ 10 triệu lên đến 15 triệu. Số người chết vì ung thư mỗi
năm đã tăng từ 6 triệu lên đến 10 triệu. Phòng chống ung thư là một sự
nghiệp hết sức to lớn đối với cả thế giới. WHO đã đề nghị mục tiêu toàn cầu
là làm giảm mức tử vong xuống 2% mỗi năm, từ 2006 đến 2015 để có thể tránh
hơn 8 triệu người chết trong số 84 triệu người sẽ chết vì ung thư dự tính
cho mười năm sắp tới và WHO cố gắng đạt mục tiêu này. Những nước nghèo có
hơn 70% số người chết do bệnh ung thư vì thiếu tiền để chẩn đoán lẫn trị
bệnh. Chỉ mỗi chứng nhiễm độc thuốc lá mà cũng đã gây khoảng 1,5 triệu cái
chết mỗi năm. WHO nỗ lực tích cực.
Người ta ước tính có khoảng 40%
bệnh ung thư có thể tránh được. Tuy nhiên nguy cơ sẽ tăng rất nhiều khi bệnh
nhân mập phì hay bị nhiễm độc thuốc lá. Người ta nhận xét thấy nguy cơ bệnh
ung thư và những bệnh mạn tính trên phương diện toàn cầu tăng nhanh khi
trong thức ăn hiện nay có quá nhiều mỡ, đường và muối, còn rau quả thì ít
đi. WHO họp lần thứ nhất tại Genève từ 6-17/2/2006 để thỏa thuận với nhau về
một phương cách giảm tiêu thụ thuốc lá. Các đại biểu cho biết quỹ có 8 triệu
USD cho những sinh hoạt chống thuốc lá trong thời gian hai năm. Chiến lược
toàn cầu cũng chú trọng việc tránh tiêu dùng các thực phẩm có chứa hóa chất
gây ung thư, chương trình chủng ngừa các bệnh nhiễm virus viêm gan trên bình
diện quốc tế. Để cải thiện việc phát hiện sớm, điều trị và chăm sóc người bị
ung thư, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư (IARC: International Agency for
Research on Cancer) của WHO đã tìm ra nhuyên nhân gây bệnh ung thư và các cơ
chế của sự xuất hiện ung thư đồng thời tìm những phương cách phát hiện sớm.
WHO còn kết hợp với những cơ quan ngoài hệ thống Liên hiệp quốc như Cơ quan
năng lượng nguyên tử quốc tế, Hội chống ung thư quốc tế và nhiều Viện ung
thư quốc gia.
Cho đến nay chưa có nổi vaccin
chống ung thư ngoại trừ vaccin Gardasil phòng tránh ung thư cổ tử cung. Mục
tiêu của vaccin phòng tránh ung thư là sử dụng kháng nguyên ung thư biểu đạt
đặc hiệu để kích hoạt, phục hồi và tăng cường các phản ứng miễn dich kháng
ung thư, nhằm có thể sát hại, thanh lọc tế bào ung thư. Vì vậy có thể đem
vaccin ung thư chia thành 3 loại: loại Dự phòng, loại Chữa trị, và loại vừa
Dự phòng và Chữa trị. Cục quản lý Thực phẩm và Thuốc Hoa Kỳ (FDA) đã phê
chuẩn vaccin Gardasil để phòng tránh virus HPV- gây ra ung thư cổ tử cung.
Vaccin này chống lại 4 nhóm HPV-6, HPV-11, HPV-16, HPV-18. HPV-16 và HPV-18
được coi là thủ phạm của 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung, còn HPV-6 và
HPV-11 là thủ phạm của 90% các trường hợp mụn cơm ở bộ phận sinh dục (cả nam
lẫn nữ). Vaccin này cũng được khẳng định là sẽ giúp phòng ngừa ung thư âm
đạo và tử cung do virus HPV.
HPV lây truyền qua đường tình dục
là một loại virus rất phổ biến. Khoảng 20 triệu người Mỹ bị nhiễm loại virus
này, và ở lứa tuổi 50, ít nhất 80% phụ nữ đã từng bị nhiễm các chủng của
virus HPV. Không phải phụ nữ nào bị nhiễm virus này cũng sẽ bị ung thư. Tỉ
lệ bị bệnh ung thư cổ tử cung do HPV là rất nhỏ.

Virus Human papillomavirus
(HPV) thuộc nhóm DNA.

Mặc dù
vaccin Gardasil có khả năng bảo vệ tránh khỏi một trong những nguyên nhân
hàng đầu dẫn đến căn bệnh ung thư cổ tử cung nhưng vẫn còn có những nguyên
nhân khác không phải do virus HPV gây ra căn bệnh ung thư đáng sợ này. Chính
vì vậy việc thường xuyên kiểm tra vẫn là rất cần thiết. Những đợt kiểm tra
định kỳ sẽ giúp phát hiện ra những thể ung thư khác cũng như nguy cơ có thể
bị ung thư do chủng virus HPV nhóm khác. Những nghiên cứu đã cho thấy hiệu
quả 100% của vaccin này trong việc chống lại sự lây nhiễm virus HPV-16 và
HPV-18 ở người. Các thử nghiệm cho thấy vaccin có hiệu quả tối ưu trong ít
nhất 4 năm. Thời gian lâu hơn hiện vẫn chưa được kiểm chứng. Gardasil chỉ
chứa cấu trúc phân tử của loại virus này chứ không phải là virus được làm
yếu đi như một số loại vaccin khác. Cơ quan FDA Hoa Kỳ thừa nhận Gardasil
tốt nhất cho nữ giới trong độ tuổi từ 9-26 và không đưa vào lịch tiêm chủng
quốc gia.Công ty Merk & Co có nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu đưa vào sử dụng
loại vaccin phòng chống virus HPV gây mụn rộp ở nam giới. Gardasil là thế hệ
vaccin đầu tiên phòng ung thư cổ tử cung được cấp phép. Trên thực tế, đây là
loại vaccin đầu tiên chống lại một nhân tố gây ung thư. Tháng 4/2007 vaccin
chống ung thư cổ tử cung Cervarix cũng xin phép được đưa ra sử dụng tại Mỹ

|