Di truyền học cổ điển |
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
CHƯƠNG
II DI TRUYỀN HỌC CỔ ÐIỂN
Trong một thời gian dài trước đây, người
ta đã biết rằng nhiều đặc điểm
của
sinh vật, từ hình thái đến tập tính, có
thể di truyền được.
Những hiểu biết nầy cũng đã
được ứng dụng vào chăn nuôi và
trồng trọt. Tuy nhiên,
vào thời kỳ nầy các cơ chế di truyền
vẫn chưa được biết rõ.
Việc phát hiện ra các qui luật di truyền không
chỉ làm sáng tỏ cơ chế của các hiện tượng
di truyền và biến dị mà còn giúp chúng ta hiểu
biết sâu hơn về cách thức mà chọn lọc
đã tác động để tạo ra sự tiến
hóa, là chủ đề sẽ được đề
cập đến ở những chương sau. I.
DI TRUYỀN HỌC MENDEL Phương
pháp nghiên cứu di truyền của Mendel bao gồm các
đặc điểm sau đây: (1)
Ðối tượng nghiên cứu là đậu Hà
Lan (Pisum sativum) có những đặc tính cần
thiết thỏa mãn các yêu cầu cho nghiên cứu di
truyền như: (a) các thứ của chúng hoàn toàn khác
biệt nhau, không có các dạng trung gian.
(b) hoa của chúng có khả năng tự thụ
phấn và tránh được sự giao phấn trong
tự nhiên nhưng dễ dàng cho giao phấn nhân
tạo. (c) có thể
tiếp tục trồng qua nhiều thế hệ sau khi
đã cho lai. (2)
Khi cho lai giữa hai dòng đậu khác nhau, mỗi
lúc ông chỉ theo dõi sự di truyền của một
cặp tính trạng tương phản, bỏ qua
tất cả các tính trạng khác. (3) Ông đã đếm và ghi nhận hàng ngàn cá thể con từ mỗi thí nghiệm và sau đó dùng toán học thống kê để phân tích các kết quả thu được. a.
Thí nghiệm và kết quả Mendel
tiến hành thí nghiệm với các dòng đậu,
phần lớn được mua từ các nguồn khác
nhau. Ông trồng riêng
từng dòng trong nhiều năm để chọn ra các
dòng thuần chủng (nghĩa là những dòng nầy
cho ra con cái giống hệt chúng).
Trong số các đặc điểm được
nghiên cứu, Mendel quan tâm đến 7 đặc điểm.
Ông lưu ý rằng mỗi một trong số
bảy đặc điểm nầy chỉ xuất
hiện ở hai dạng tương phản: hạt tròn
hoặc nhăn, hoa đỏ hoặc trắng...
(Bảng 1).
Khi Mendel cho lai giữa hai dòng thuần chủng khác
nhau về một cặp tính trạng tương
phản thì tất cả các cá thể con (thế
hệ F1) đều giống nhau và giống với
một trong hai cá thể bố mẹ.
Thí dụ: cho lai giữa cây
hoa đỏ thuần chủng và cây hoa trắng
thuần chủng, tất cả các cây F1 đều có
hoa đỏ.
Rõ ràng là ở thế hệ F1 chỉ có một
trong hai tính trạng của bố hoặc mẹ
được biểu hiện.
Mendel gọi tính trạng xuất hiện ở F1 là
tính trạng trội và tính trạng không biểu hiện
ở thế hệ nầy là tính trạng lặn.
Tiếp tục cho các cây F1 (tất cả đều
có hoa đỏ) tự thụ phấn, ở thế
hệ tiếp theo (F2) cả hai thứ hoa đỏ và
hoa trắng đều xuất hiện: 705 cây hoa đỏ
và 224 cây hoa trắng. Tính
trạng lặn đã xuất hiện trở lại
ở thế hệ F2 với tỉ lệ xấp xỉ
1/4. Kết quả cũng
tương tự đối với sáu tính trạng khác
được nghiên cứu (bảng 7.1), các tính
trạng lặn biếm mất ở F1, nhưng xuất
hiện trở lại với tỉ lệ khoảng 1/4
ở F2. Chúng ta có
thể tóm tắt kết quả thí nghiệm về màu
hoa như sau:
P
Hoa đỏ
x Hoa
trắng
F1
Tất
cả đều có hoa đỏ
F2
3/4 hoa đỏ
1/4 hoa trắng
b.
Giải thích và kết luận Từ
những thí nghiệm nầy Mendel đã đưa
ra kết luận quan trọng là mỗi cây đậu
đều có hai nhân tố di truyền (hereditary factor)
cho mỗi tính trạng. Khi
giao tử được thành lập, hai nhân tố phân
ly và đi về hai giao tử riêng biệt, mỗi giao
tử chỉ mang một nhân tố cho mỗi tính
trạng. Vì vậy
mỗi cây phải nhận một nhân tố từ cây
mẹ và một nhân tố từ cây bố.
Sự kiện hai tính trạng tương phản
của bố mẹ (hoa đỏ và hoa trắng) có
thể cùng xuất hiện ở F2 cho thấy các nhân
tố di truyền phải tồn tại như các
phần tử riêng biệt trong tế bào, chúng không hòa
trộn lẫn nhau. Vì
vậy, theo Mendel mỗi cây F1 có chứa một nhân
tố cho hoa đỏ (là trội) và một nhân tố
cho hoa trắng (là lặn). Hai
nhân tố nầy cùng nằm trong nhân tế bào, chúng
tồn tại riêng biệt và phân ly khi giao tử
được thành lập.
Nguyên lý nầy được xem như là
dịnh luật thứ nhất của Mendel, định
luật phân ly (law of segregation): Mỗi
cá thể có hai nhân tố di truyền cho mỗi tính
trạng, trong quá trình thành lập giao tử hai nhân
tố nầy phân ly về hai giao tử khác nhau nên
mỗi giao tử chỉ có một nhân tố.
Khi các giao tử phối hợp nhau trong thụ
tinh, cặp nhân tố được khôi phục
lại trong hợp tử. Kết
luận của Mendel phù hợp với những gì chúng
ta đã biết vể nhiễm sắc thể và
hoạt động của chúng trong giảm phân.
Nhân lưỡng bội có hai nhiễm sắc
thể của mỗi cặp tương đồng,
chứa hai gen cho mỗi cặp tính trạng.
Vì vậy, tế bào lưỡng bội có hai
bản sao (giống hoặc khác nhau) của mỗi gen,
chúng chính là hai nhân tố di truyền mà Mendel đã mô
tả. Vì mỗi
cặp nhiễm sắc thể tương đồng
đều phân ly trong giảm phân, giao tử chỉ có
một nhiễm sắc thể mỗi loại và vì
vậy chỉ có một bản sao của mỗi gen. Bây
giờ chúng ta hãy khảo sát lại phép lai của
Mendel ở các cây đậu có màu hoa khác nhau và
giải thích các kết quả nầy bằng thuật
ngữ hiện đại. Ở
đậu có hai dạng khác nhau của gen qui định
màu hoa, một cho ra hoa đỏ và một cho ra hoa
trắng. Khi một gen
tồn tại nhiểu dạng khác nhau, mỗi dạng
được gọi là một alen
(allele). Hai alen
của một gen nằm ở cùng một vị trí
gọi là locus trên hai nhiễm sắc thể của
một cặp tương đồng.
Ở gen qui định màu hoa đậu, alen qui
định màu hoa đỏ là trội trong khi alen qui
định màu hoa trắng là lặn.
Người ta thường qui định gen
bằng chữ cái: chữ hoa cho alen trội và chữ
thường cho alen lặn. Do
đó ta có thể qui ước C: hoa đỏ, c : hoa
trắng. Vì tế bào
lưỡng bội có hai bản sao của mỗi gen, nó
có thể có hai bản sao của cùng một alen
hoặc của hai alen khác nhau.
Như vậy, mỗi tế bào của một cây
đậu có thể có hai bản sao của alen hoa đỏ
(CC), hoặc hai bản sao của alen hoa trắng (cc),
hoặc một bản sao của alen hoa đỏ và
một bản sao của alen hoa trắng (Cc).
Những tế bào có hai alen giống nhau gọi là
đồng hợp tử (homozygous), những tế bào có
hai alen khác nhau gọi là dị hợp tử
(heterozygous). Cần
lưu ý là người ta không thể quan sát bằng
mắt để kết luận một cây là đồng
hợp tử về alen trội (CC) hay dị hợp
tử (Cc) vì cả hai cây nầy đều cùng có hoa
đỏ. Nói cách khác,
một alen trội hoàn toàn lấn át alen lặn và
một cơ thể dị hợp sẽ có tính
trạng được qui định bởi alen
trội. Ðiều này có
nghĩa là không có quan hệ một đối một
giữa các tổ hợp di truyền khác nhau (kiểu
gen) với các tính trạng được biểu
hiện (kiểu hình) của sinh vật.
Trong thí dụ về màu hoa đậu, có ba
kiểu gen CC, Cc, cc, hai kiểu hình hoa đỏ và hoa
trắng.
Chúng ta có thể viết lại tóm tắt thí
nghiệm của Mendel như sau:
P
CC
x
cc
Hoa đỏ
Hoa
trắng
F1
Cc
100% Hoa đỏ
F1 x F1
Cc
x
Cc
F2
CC
Cc
Cc
cc Ðỏ Ðỏ Ðỏ Trắng c.
Hiện tượng trội không hoàn toàn và đồng
trội Ở
cả bảy tính trạng trên các cây đậu mà
Mendel nghiên cứu, mỗi tính trạng đều có
một alen trội hoàn toàn (complete dominance) so với alen
còn lại. Trong trường
hợp trội không hoàn toàn (incomplete dominance), cá
thể dị hợp sẽ có kiểu hình trung gian
giữa hai kiểu hình của hai cá thể bố
mẹ đồng hợp. Thí
dụ: lai giữa hai thứ hoa mõm chó thuần chủng
hoa màu đỏ và hoa màu trắng, F1 đồng
loạt có hoa màu hồng, F2
phân ly theo tỉ lệ 1 hoa đỏ : 2 hoa
hồng : hoa trắng. Kết
quả phép lai có thể minh hoạ như sau:
P
RR
x
R’R’
Hoa đỏ
Hoa trắng
F1
RR’
100%
Hoa hồng
F1 x F1
RR’ x
RR’
F2
RR
RR’
RR’
R’R’
đỏ
hồng
hồng
trắng
Thuật ngữ đồng trội (codominance)
được dùng để mô tả một trường
hợp trong đó hai alen được biểu hiện
độc lập nhau trong cơ thể dị hợp.
Cơ thể dị hợp có kiểu hình khác
với cơ thể dồng hợp nhưng không
phải là kiểu hình trung gian.
Một thí dụ về hiện tượng đồng
trội được tìm thấy ở nhóm máu A-B-O
của người. Người
mang nhóm máu A có alen A và chỉ biểu hiện
glycoprotein A trên tế bào hồng cầu, người
mang nhóm máu B có alen B và chỉ biểu hiện
glycoprotein B. Tuy nhiên, người
mang nhóm máu AB có cả hai alen A và B và biểu hiện
cả hai glycoprotein, vì vậy kiểu hình của họ
khác biệt so với hai kiểu hình trên.
Trong trường hợp nầy, cả hai alen A và
B đều có biểu hiện như nhau.
Tóm lại phương thức trội không hoàn toàn
và đồng trội khác với trội hoàn toàn
ở hai điểm chính: (1) Thế hệ F1 của
một phép lai đơn tính giữa hai cá thể
bố mẹ thuần chủng sẽ có kiểu hình khác
với bố mẹ; (2) Tỉ lệ kiểu hình ở
F2 là 1:2:1 (giống với tỉ lệ kiểu gen) thay vì
3:1. a.
Lai lưỡng tính và định luật phân ly độc
lập Các
thí nghiệm của Mendel trên đậu Hà Lan không
chỉ giới hạn ở một cặp tính trạng
mà đôi khi bao gồm hai hoặc nhiều cặp tính
trạng (đã được liệt kê ở bảng
7.1). Thí dụ: ông cho
lai các cây thuần chủng có hạt vàng, tròn với các
cây có hạt lục, nhăn.
Tất cả các cây F1 đều có hạt vàng,
tròn. Khi các cây F1
tự thụ phấn, F2 có 4 kiểu hình khác nhau:
315 có hạt vàng, tròn
101 có hạt vàng, nhăn
108 có hạt lục,tròn
32 có hạt lục, nhăn Bốn
kiểu hình nầy chiếm tỉ lệ khoảng 9 : 3
: 3 : 1. Thí
nghiệm nầy đã chứng minh rằng một phép
lai lưỡng tính có thể cho ra một số cây có
kiểu hình mới khác với các cây bố mẹ ban
đầu. Hai kiểu
hình mới ở đây là hạt vàng, nhăn và
hạt lục, tròn. Nói
cách khác, nó chứng minh rằng các gen qui định màu
hoa và các gen qui định dạng hạt không nhất
thiết phải nằm chung trong một tổ hợp như
ở thế hệ bố mẹ.
Tỉ lệ 9 : 3 : 3 : 1 là đặc trưng cho
thế hệ F2 của một phép lai lưỡng tính
(với tính trạng trội hoàn toàn), trong đó các
gen qui định hai tính trạng di truyền độc
lập nhau. Mỗi
cặp tính trạng trong phép lai lưỡng tính đều
tác động giống hệt như trong một phép
lai đơn tính.
Như vậy, tỉ lệ 9 : 3 : 3 : 1 chính là
kết quả của hai tỉ lệ 3 : 1 độc
lập.
Nếu qui định
R: hạt tròn
r: hạt nhăn
G: hạt vàng
g: hạt lục
Có thể tóm tắt phép lai trên bằng sơ
đồ sau:
P
GGRR
x
ggrr
vàng, tròn
lục, nhăn
Gt
GR
gr
F1
GgRr
x
GgRr
vàng, tròn
vàng, tròn
Gt
GR , Gr , gR , gr
GR , Gr , gR , gr
F2
F2
9 G - R -
3 G - rr
3 rr G -
1 rrgg
vàng, tròn
vàng, nhăn
lục, tròn
lục, nhăn
Từ những quan sát trên các kết quả thu
được, Mendel đã đưa ra định
luật thứ hai gọi là định luật phân ly
độc lập (principle of independence assortment): Khi
có hai hoặc nhiều gen trong một phép lai thì trong quá
trình thành lập giao tử, các alen của một gen
nầy sẽ di truyền độc lập với các
alen của những gen khác. b.
Lai đa tính và công thức phân tính chung Như
ta đã thấy ở trên một cách để xác
định tỉ lệ kiểu gen và kiểu hình trong
một phép lai với hai cặp tính trạng là
thiết lập một khung Punnett.
Cách nầy mặc dù rất thuận lợi trong các
phép lai đơn tính và lưỡng tính nhưng
lại rất hạn chế trong phép lai đa tính.
Trong trường hợp lai đa tính, có một cách
khác dễ dàng hơn, dựa vào cơ sở của
một nguyên lý: xác suất để cho các sự
kiện độc lập nhau xảy ra đồng
thời sẽ bằng tích
số các xác suất của từng sự kiện
được biểu hiện riêng rẽ. Chúng
ta có thể ứng dụng nguyên lý này để tính
số kiểu giao tử, số kiểu tổ hợp,
số kiểu gen, số kiểu hình, tỉ lệ
kiểu gen, tỉ lệ kiểu hình trong một phép lai
đa tính. Giả sử trong một phép lai với ba cặp tính trạng: màu hoa, màu hạt và dạng hạt, chúng ta muốn tìm xem tỉ lệ của các cây ở F2 (được tạo ra khi cho các cây F1 dị hợp về ba cặp alen lai với nhau) có kiểu hình hoa đỏ, hạt vàng, nhăn là bao nhiêu? Chúng ta đã biết trong từng phép lai đơn tính: tỉ lệ hoa đỏ là 3/4, hạt vàng là 3/4, hạt nhăn là 1/4. Nhân ba tỉ lệ nầy với nhau, ta sẽ được tỉ lệ của kiểu hình hoa đỏ, hạt vàng, nhăn ở F2 là 3/4 x 3/4 x 3/4 = 9/64. Trong
phần trên chúng ta đã thấy các alen khác nhau
của cùng một gen có thể tác động qua
lại như trong trường hợp trội không hoàn
toàn. Các gen khác nhau cũng
có thể tương tác với nhau.
Thật vậy, phần lớn các đặc điểm
hình thái hoặc các đặc điểm sinh hóa đều
được kiểm soát bởi nhiều gen.
Chẳng hạn như quá trình đường phân
là một quá trình gồm nhiều bước, mỗi bước
đòi hỏi một loại enzim và mỗi enzim
được sản xuất bợi hoạt
động của một gen chuyên biệt.
Hầu hết các enzim nầy đều phụ
thuộc vào một hoặc một số enzim khác
hoạt động trước đó trong chuỗi
phản ứng hóa học. a.
Tương tác bổ trợ (complementary interaction) Ðôi
khi hai gen ảnh hưởng đến cùng một
loại tính trạng có thể tác động qua
lại để tạo ra một kiểu hình mới mà
mỗi gen riêng rẽ không thể tạo ra.
Kiểu tương tác nầy có thể thấy
trong sự kiểm soát tính trạng hình dạng mào gà.
Gen R qui định mào hình hoa hồng trong khi alen
lặn r cho ra mào đơn.
Một gen khác P qui định mào hình hạt đậu,
alen lặn p cũng cho ra mào đơn.
Khi R và P cùng hiện diện chung trong kiểu gen,
chúng sẽ tương tác với nhau tạo ra mào hình
quả hồ đào. Kết
quả phép lai giữa gà có mào hình hoa hồng với gà
có mào hình hạt đậu có thể tóm tắt như
sau:
P
RRpp
x
rrPP
hoa
hồng
hạt đậu
F1
RrPp x
RrPp
hồ đào
hồ đào
F2
9 R - P -
3 R - pp
3 rr P -
1 rrpp
hồ đào
hoa hồng
hạt đậu
đơn
Cần lưu ý rằng, một phép lai giữa
dạng gà mào hồ đào thuần chủng RRPP
với dạng gà mào đơn rrpp cũng cho ra kết
quả tương tự. Hơn
nữa tỉ lệ 9 : 3 : 3 : 1 trong trường hợp
nầy giống như trong một phép lai lưỡng tính
của Mendel. Tuy nhiên
điểm khác biệt là trong tương tác bổ
trợ không thể nào xác định được tác
động của từng gen dựa trên cơ sở
biểu hiện của kiểu hình. b.
Tương tác át chế (Epistasis) Như
vừa thấy ở trên, trong tương tác bổ
trợ, hai gen khác nhau đều góp phần vào việc
biểu hiện kiểu hình mới.
Ngược lại, trong tương tác át chế,
sự biểu hiện của một gen này có thể
bị át chế bởi tác động của một
gen khác. Thí dụ
ở chuột, một gen qui định sự tổng
hợp sắc tố da melanin át chế đối
với một gen khác qui định sự tích tụ
melanin. Gen thứ
nhất có hai alen: C qui định sự tổng hợp
melanin và c làm cho sắc tố không được
tổng hợp, vì vậy một cá thể đồng
hợp cc sẽ là một cá thể bạch tạng.
Gen thứ hai có alen B gây ra sự tích tụ
nhiều melanin làm cho chuột có màu lông đen và alen b
gây ra sự tích tụ một lượng trung bình
của melanin làm cho chuột có màu lông nâu.
Cả B và b đều không tạo ra sự tích
tụ melanin nếu không có C.
Kết quả phép lai giữa các cá thể có hai
gen nầy có thể tóm tắt như sau:
P
CCBB
x
ccbb
đen
bạch tạng
F1
CcBb x
CcBb
đen
đen
F2
9 C - B -
3 C - bb
3 ccB -
1 ccbb
đen
nâu
trắng
trắng
Thay vì tỉ lệ kiểu hình ở F2 9 : 3 : 3 : 1,
phép lai nầy đã cho ra tỉ lệ là 9 : 3 : 4.
Cần lưu ý rằng tương tác át chế
khác với trường hợp trội hoàn toàn.
Trội hoàn toàn là trường hợp tương
tác giữa hai alen của cùng một gen (alen trội
lấn át sự biểu hiện của alen lặn cùng
cặp) còn át chế là trường hợp tương
tác giữa hai gen không alen. c.
Tác động đa gen Vừa
qua chúng ta đã thảo luận về các tính trạng
chỉ có một số lượng giới hạn các
kiểu hình tương đối riêng biệt: hoa
đậu màu đỏ hoặc trắng, hạt đậu
màu vàng hoặc lục. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp có những tính
trạng có rất nhiều biến dị kiểu hình và
các kiểu hình nầy không có ranh giới rõ rệt.
Chẳng hạn như chiều cao, màu da, chỉ
số IQ của người...
Chúng ta có thể nói gì về cơ sở di
truyền của những tính trạng như thế?
Có thể giải thích là hai hoặc nhiều gen riêng
biệt có thể ảnh hưởng lên cùng một tính
trạng theo cùng một cách, với tác động
cộng gộp. Kiểu
di truyền nầy gọi là di
truyền đa gen (multiple-gene inheritance).
Bằng chứng đầu tiên đến năm
1909 khi nhà di truyền học Thụy Ðiển Hermen
Nilsson-Ehle chỉ ra rằng màu sắc của hạt lúa
mì (rất khác nhau từ màu trắng đến các
dạng hồng, đỏ và đỏ thẩm) là
kết quả của sự tương tác giữa ba
gen. Mỗi gen có hai
alen. Một alen trội
không hoàn toàn cho màu đỏ và một alen cho màu
trắng. Hạt đỏ
thẩm là đồng hợp về các alen đỏ
của cả ba gen, trong khi hạt trắng là đồng
hợp về các alen trắng của cả ba gen.
Tất cả các kiểu hình ở giữa là
kết quả của những tổ hợp dị
hợp khác nhau của các alen.
P
A’A’B’B’C’C’
x
AABBCC
trắng
đỏ thẩm
F1
A’AB’BC’C
x
A’AB’BC’C
đỏ nhạt
đỏ nhạt
F2
1/64 trắng 6/64
hồng nhạt 15/64
hồng 20/64
đỏ nhạt
15/64 đỏ
6/64 đỏ đậm
1/64 đỏ thẩm Nếu biểu diễn bằng đồ thị tần số của màu hạt ở F2, chúng ta sẽ nhận được một đường cong có dạng hình chuông, chúng cũng là đường cong phân bố cho các tính trạng khác biệt liên tục trong quần thể như chiều cao, màu da...
Tuy
nhiên trong phần lớn các trường hợp tương
tác đa gen, không phải tất cả các gen đều
có vai trò như nhau đối với kiểu hình, do
đó thường không thể xác định số lượng
và bản chất các gen bằng cách chỉ đơn
giản quan sát sự phân bố của các kiểu hình
ở F2. a.
Sự xác định giới tính Ở
các động vật phân tính, bộ nhiễm sắc
thể của con đực và con cái hơi khác nhau.
Nói chung, một trong hai giới có một cặp
nhiễm sắc thể trong đó hai chiếc có kích thước
và hình dạng khác nhau. Cặp
nhiễm sắc thể nầy được gọi là
cặp nhiễm sắc
thể giới tính (sex chromosome), giữ vai trò cơ
bản trong việc xác định giới tính của
sinh vật. Tất
cả các nhiễm sắc thể khác được
gọi là nhiễm sắc thể thường
(autosome). Trước
tiên chúng ta hãy xem bộ nhiễm sắc thể của
ruồi giấm và của người.
Trong mỗi trường hợp, nhiễm sắc
thể giới tính gồm hai loại: một loại có
mang nhiều gen, được ký hiệu là nhiễm
sắc thể X, một loại có hình dạng khác,
chỉ mang một ít gen hoặc không mang gen, được
ký hiệu là nhiễm sắc thể Y.
Ở người và ruồi giấm, thông thường
giới cái có hai nhiễm sắc thể X, trong khi
giới đực có một X và một Y.
Bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội
của ruồi giấm là 2n = 8, vì vậy con cái có 3
cặp nhiễm sắc thể thường và 1 cặp
nhiễm sắc thể giới tính XX, con đực có
3 cặp nhiễm sắc thể thường và 1
cặp nhiễm sắc thể giới tính XY.
Tương tự, bộ nhiễm sắc thể lưỡng
bội của người là 2n = 46 (23 cặp), nữ
giới có 22 cặp nhiễm sắc thể thường
và 1 cặp nhiễm sắc thể XX, nam giới có 22
cặp nhiễm sắc thể thường và 1 cặp
XY. Khi
cá thể cái giảm phân tạo giao tử, tất
cả các trứng đều sẽ nhận được
một nhiễm sắc thể X.
Khi cá thể đực giảm phân tạo tinh trùng,
một nửa tinh trùng được hình thành có
nhiễm sắc thể X và một nửa có nhiễm
sắc thể Y. Nói
ngắn gọn, tất cả các trứng đều có
nhiễm sắc thể giống nhau còn tinh trùng gồm
hai loại với số lượng bằng nhau.
Khi sự thụ tinh xảy ra, xác suất để
trứng được thụ tinh bởi tinh trùng X
bằng với xác suất được thụ tinh
bởi tinh trùng Y. Nếu
trứng được thụ tinh bởi tinh trùng X,
hợp tử sẽ là XX và sẽ phát triển thành con
cái. Nếu trứng
được thụ tinh bởi tinh trùng Y, hợp
tử sẽ là XY và sẽ phát triển thành con đực.
P
XX
x
XY
cái
đực
Gt
X
X ,
Y
F1 XX
:
XY
1 cái
1 đực
Như vậy chúng ta thấy rằng giới tính
của một cá thể thường được xác
định vào thời điểm thụ tinh và tùy
thuộc vào loại tinh trùng nào thụ tinh cho trứng. Hệ thống XY (giới cái là XX và giới đực là XY) là đặc điểm của nhiều loài động vật (bao gồm tất cả các động vật hữu nhũ). Hệ thống nầy cũng thấy ở các thực vật phân tính. Ở chim, bướm, một số loài cá có một hệ thống ngược lại: giới cái là XY và giới đực là XX. Ở châu chấu, dế, gián, chỉ có một loại nhiễm sắc thể giới tính X: giới cái là XX, giới đực là XO. Ong và kiến không có nhiễm sắc thể giới tính: con cái phát triển từ trứng thụ tinh (do đó là cá thể lưỡng bội), con đực phát triển từ trứng không thụ tinh và là cá thể đơn bội. b.
Di truyền liên kết giới tính ·
Gen
trên nhiễm sắc thể X Nhiều
gen có trên nhiễm sắc thể X nhưng không có trên
nhiễm sắc thể Y. Những
gen nầy được gọi là liên kết giới
tính. Phương
thức di truyền của những tính trạng
được kiểm soát bởi các gen liên kết
giới tính hoàn toàn khác với những tính trạng
được kiểm soát bởi các gen trên nhiễm
sắc thể thường vì những lý do rõ rệt.
Cá thể cái có hai bản sao ( 2 alen) của
mỗi gen liên kết giới tính, mỗi bản sao
nhận từ một cá thể bố hoặc mẹ.
Con đực chỉ có một bản sao của
mỗi gen và bản sao nầy luôn luôn nhận từ
mẹ vì bố chỉ cung cấp nhiễm sắc
thể Y cho con trai. Do
đó ở con đực, các gen lặn không bị
lấn át sẽ luôn luôn biểu hiện ra kiểu hình
vì vậy kiểu hình lặn xuất hiện ở
giới đực phổ biến hơn là ở
giới cái.
Sự di truyền liên kết giới tính
được phát hiện vào năm 1910 bởi nhà di
truyền học người Mỹ là Thomas Hunt Morgan.
Ông là người đầu tiên sử dụng
ruồi giấm vào việc nghiên cứu di truyền.
Tính trạng đột biến đầu tiên
Morgan quan sát được trên ruồi giấm là màu
mắt trắng. Tính
trạng nầy được kiểm soát bởi alen
lặn w, màu mắt đỏ ở ruồi hoang dại
được kiểm soát bởi alen trội W.
Nếu một ruồi cái đồng hợp có
mắt màu đỏ được
lai với một ruồi đực mắt trắng,
tất cả các cá thể F1 (không phân biệt giới
tính) đều có mắt màu đỏ vì chúng đều
nhận một nhiễm sắc thể X mang alen W từ
mẹ. (Cá thể cái cũng
nhận được alen w từ bố nhưng vì W
trội nên lấn át sự biểu hiện của w, còn
cá thể đực chỉ nhận từ bố
một nhiễm sắc thể Y không mang gen qui định
màu mắt). Khi xét phép
lai ngược lại, thế hệ bố mẹ là
ruồi cái mắt trắng và ruồi đực
mắt đỏ, ở F1 tất cả các ruồi cái
đều có mắt đỏ còn toàn bộ ruồi
đực đều có mắt trắng.
So sánh kết quả của hai phép lai nầy chúng
ta thấy rõ trong trường hợp có sự di
truyền liên kết giới tính, kết quả của
phép lai thuận và nghịch khác nhau tùy thuộc vào
kiểu hình của bố và mẹ.
Ngược lại trong trường hợp gen
nằm trên nhiễm sắc thể thường, kết
quả của phép lai thuận và nghịch hoàn toàn
giống nhau. P
XWXW
x
XwY
P
XwXw
x
XWY
cái đỏ
đực trắng
cái trắng
đực đỏ Gt
XW
Xw ,
Y
Gt
Xw
XW
, Y
F1
XW Xw XW
Y
F1
XW Xw Xw
Y
100% đỏ
1 cái đỏ
1 đực trắng
Hai trường hợp được biết rõ
nhất về các tính trạng lặn liên kết
giới tính ở người
là bệnh mù màu và bệnh máu khó đông.
Các tính trạng này biểu hiện ở nam
nhiều hơn ở nữ. ·
Gen
trên nhiễm sắc thể Y Các gen nằm trên nhiễm sắc thể Y nhưng không có trên nhiễm sắc thể X được gọi là gen holandric. Các tính trạng do chúng kiểm soát dĩ nhiên là chỉ xuất hiện ở giới đực. Ở người nhiễm sắc thể Y có một ít gen. a.
Liên kết gen Trong
mỗi tế bào số lượng gen lớn hơn
rất nhiều so với số lượng nhiễm
sắc thể. Thật
vậy, mỗi nhiễm sắc thể có đến hàng
trăm hoặc hàng ngàn gen. Các
gen cùng nằm trên một nhiễm sắc thể có
khuynh hướng di truyền cùng với nhau trong các phép
lai. Các gen nầy
được gọi là các gen liên kết và tất
cả các gen cùng nằm trên một nhiễm sắc
thể tập hợp thành một nhóm gen liên kết.
Chúng ta hãy xem một thí nghiệm khác của Morgan
trên ruồi giấm để xem liên kết gen ảnh
hưởng như thế nào đến sự di
truyền của hai cặp tính trạng màu thân và
dạng cánh. Ruồi
kiểu dại có thân xám, cánh dài.
Kiểu hình đột biến về hai tính
trạng nầy là thân đen, cánh ngắn.
Các alen kiểm soát các tính trạng nầy
được ký hiệu: B = thân xám, b = thân đen, V =
cánh dài, v = cánh ngắn.
Morgan cho lai giữa ruồi đực dị
hợp về hai tính trạng (BbVv) với ruồi cái có
hai tính trạng lặn (bbvv).
Nếu theo định luật phân ly độc
lập của Mendel, phép lai nầy sẽ cho ra bốn
loại kiểu hình ở đời con với tỉ
lệ xấp xỉ 1 xám, dài : 1 xám,ngắn : 1 đen, dài
: 1 đen, ngắn. Kết
quả thực tế lại hoàn toàn khác hẳn.
Ở đời con chỉ xuất hiện hai
kiểu hình giống với bố mẹ là xám, dài và
đen, ngắn. Morgan
kết luận rằng trong trường hợp nầy
màu thân và dạng cánh được di truyền chung
với nhau trong một tổ hợp đặc biệt
vì các gen qui định hai tính trạng nầy nằm
trên cùng một nhiễm sắc thể.
b.
Hoán vị gen
Trong
một thí nghiệm khác, khi Morgan cho lai giữa ruồi
cái dị hợp về hai tính trạng (BbVv) với
ruồi đực có hai tính trạng lặn (bbvv),
ở đời con thu được 4 kiểu hình
với số lượng là:
965
con thân xám, cánh dài
944 con thân đen, cánh ngắn
206 con thân xám, cánh ngắn
185 con thân đen, cánh dài Chúng
ta có thể giải thích như thế nào về
kết quả của phép lai nầy? Nếu các gen qui
định hai tính trạng nằm trên các nhiễm
sắc thể khác nhau và phân ly độc lập,
tỉ lệ kiểu hình ở đời con phải là
1:1:1:1. Nếu hai gen cùng
nằm trên một nhiễm sắc thể và liên
kết hoàn toàn, đời con phải có hai kiểu hình
giống bố mẹ với tỉ lệ 1:1.
Kết quả của phép lai hoàn toàn khác hai trường
hợp trên.. Phần
lớn các cá thể con có hai kiểu hình giống
bố mẹ, cho thấy có sự liên kết giữa
hai gen, nhưng khoảng 17% lại có kiểu hình tái
tổ hợp. Như
vậy, mặc dù có sự liên kết nhưng nó có
vẽ không hoàn toàn. Morgan
cho rằng phải có cơ chế làm trao đổi hai
đoạn giữa hai nhiễm sắc thể tương
đồng, phá vở sự liên kết giữa hai gen.
Các thí nghiệm tiếp theo đã chứng minh
rằng chính
sự trao đổi đoạn đã dẫn đến
sự tổ hợp lại của các gen liên kết
(xem chương 6). Khi các
nhiễm sắc thể tương đồng bắt
cặp trong quá trình tiếp hợp ở kỳ trước
của giảm phân I, hai chromatid của hai nhiễm
sắc thể có thể trao đổi với nhau hai
đoạn tương ứng.
Sự trao đổi đoạn giữa hai
nhiễm sắc thể tương đồng phá
vỡ nhóm gen liên kết trên nhiễm sắc thể
của bố mẹ, tạo thành các nhiễm sắc
thể tái tổ hợp có mang các alen trong các tổ
hợp mới. Các
sự kiện tiếp theo của giảm phân sẽ phân
bố các nhiễm sắc thể tái tổ hợp
về các giao tử. Có thể tóm tắt kết quả thí nghiệm bằng sơ đồ sau: c.
Bản đồ di truyền Việc
khám phá ra các gen liên kết và sự tái tổ hợp
do trao đổi chéo đã giúp cho nhóm nghiên cứu
của Morgan tìm ra phương pháp xây dựng bản
đồ di truyền. Một
bản dồ di truyền liệt kê trình tự của
các locus gen dọc theo chiều dài của mỗi
nhiễm sắc thể. Trong
phần nầy chúng ta sẽ tìm hiểu xem bằng cách
nào có thể dùng các dữ liệu trao đổi chéo
để xây dựng một loại bản đồ
di truyền gọi là bản đồ gen liên kết. Như
đã xét ở phần trên, gen qui định màu thân
của ruồi giấm liên kết với gen qui định
dạng cánh. Tần
số tái tổ hợp giữa hai locus gen khoảng 17%.
Cùng nằm trên một nhiễm sắc thể
với hai gen nầy có một locus gen thứ ba qui định
màu mắt. Tần
số tái tổ hợp giữa gen c (mắt màu son)
với gen b (thân đen) là 9%.
Như vậy, tần số trao đổi chéo
giữa b và v (cánh ngắn) gấp khoảng hai lần
tần số trao đổi chéo giữa b và c (17% so
với 9%). Năm 1917
Alfred H. Sturtevant (một
trong những học trò của Morgan) đã suy luận
ra rằng tần số tái tổ hợp khác nhau
phản ánh khoảng cách khác nhau giữa hai gen trên
một nhiễm sắc thể; nghĩa là hai gen xa nhau trên
nhiễm sắc thể sẽ có khả năng tái
tổ hợp cao hơn hai gen gần nhau.
Nếu cho rằng tần số trao đổi chéo
giữa hai gen tỉ lệ trực tiếp với
khoảng cách giữa chúng thì khoảng cách giữa b và
v sẽ xấp xỉ gấp 2 lần khoảng cách
giữa b và c. Từ những suy luận trên, Sturtevant bắt đầu dùng các dữ liệu tái tổ hợp để xây dựng vị trí các gen trên một bản đồ. Ông định nghĩa một đơn vị bản đồ là 1% tần số tái tổ hợp. Như vậy, locus b và c cách nhau 9 đơn vị, còn b và v cách nhau 17 đơn vị. Nhưng trình tự sắp xếp của ba gen nầy trên nhiễm sắc thể như thế nào? Chúng ta có thể loại trừ trình tự b - v - c vì c nằm gần b hơn là v. Hai trình tự còn lại có thể có là c - b - v và b - c - v. Tần số tái tổ hợp giữa c và v sẽ giúp chúng ta xác định đúng trình tự của 3 gen nầy. Ở trình tự thứ nhất ( c - b - v ) khoảng cách giữa c và v phải là (26 đơn vị (17 + 9) trong khi ở trình tự thứ hai ( b - c - v ) khoảng cách giữa c và v là ( 8 đơn vị (17 - 9). Sturtevant đã xác định được tần số tái tổ hợp giữa c và v là 9,5% vì vậy ông cho rằng 3 gen nầy được sắp xếp trên nhiễm sắc thể theo trình tự b -c -v. Chẳng bao lâu, phương pháp nầy đã được mở rộng để xây dựng bản đồ các gen khác trên ruồi giấm
Các
tác nhân vật lý, hóa học của môi trường cũng
như các sai sót trong giảm phân có thể làm biến
đổi cấu trúc và số lượng nhiễm
sắc thể trong một tế bào.
Trong phần nầy chúng ta sẽ tìm hiểu
những biến đổi đó và ảnh hưởng
của chúng đối với một số rối
loạn di truyền ở
người. a.
Ðột biến cấu trúc nhiễm sắc thể Sự
phá hủy nhiễm sắc thể có thể dẫn
đến bốn kiểu thay đổi trong cấu trúc
của nhiễm sắc thể.
Sự mất đoạn (deletion) xảy ra khi
một đoạn nhiễm sắc thể bị đứt
ra (đoạn không có tâm động) và bị mất
đi trong quá trình phân bào. Ðoạn
còn lại sẽ thiếu một số gen nhất định.
Trong một số trường hợp khác đoạn
bị đứt có thể nối vào một nhiễm
sắc thể tương đồng gây ra sự
lặp đoạn (duplication).
Ðoạn nầy cũng có thể được
nối với nhiễm sắc thể ban đầu nhưng
theo chiều ngược lại, tạo ra sự đảo
đoạn (inversion).
Dạng thứ tư là đoạn nầy nối
với một nhiễm sắc thể khác không tương
đồng, gọi là sự chuyển đoạn
(translocation).
Có thể minh
họa bốn dạng biến đổi cấu trúc như
sau:
Một cơ thể bị mất đoạn thường
thiếu một số gen nhất định dẫn
tới sự mất cân
bằng giữa các gen và thường bị chết.
Thí dụ: ở người, một hội
chứng gọi là cri du chat
(cry of the cat) do nhiễm sắc thể số 5 bị
mất một đoạn. Trẻ
sơ sinh mắc phải hội chứng nầy thường
có đầu nhỏ, si đần và tiếng khóc như
tiếng mèo kêu, chết sớm (trước tuổi
dậy thì).
Lặp đoạn và chuyển đoạn cũng
gây ra những hậu quả có hại.
Chẳng hạn ở người, hiện tượng
chuyển một đoạn nhỏ của nhiễm
sắc thể số 9 gắn vào nhiễm sắc
thể số 22 gây ra bệnh ung thư bạch cầu.
Trong trường hợp đảo đoạn
mặc dù tất cả các gen đều hiện
diện (nhưng trình tự thay đổi) nên chúng cũng
làm biến đổi kiểu hình vì sự biểu
hiện của một gen thường bị ảnh hưởng
bởi vị trí của nó so với các gen kế
cận. b.
Ðột biến số lượng nhiễm sắc
thể Trong
quá trình giảm phân đôi khi xảy ra hiện tượng
không phân ly (nondisjunction), trong đó hai nhiễm sắc
thể của một cặp tương đồng không
tách ra và phân ly trong giảm phân I hoặc hai chromatid
của một nhiễm sắc thể kép không phân ly
trong giảm phân II. Trong
những trường hợp nầy, một giao tử
sẽ nhận được 2 nhiễm sắc thể cùng
loại (n + 1) và một giao tử sẽ không nhận
được nhiễm sắc thể nào thuộc
loại nầy (n - 1). Khi
các giao tử đột biến tổ hợp với
giao tử bình thường, hợp tử được
hình thành sẽ dư (2n + 1) hoặc thiếu (2n - 1)
một nhiễm sắc thể, được gọi là
thể dị bội
(aneuploidy). Nếu sinh
vật sống sót, chúng sẽ mắc phải
các hội chứng do số lượng gen không
bình thường nằm trên nhiễm sắc thể
thừa hoặc thiếu. Sự
không phân ly cũng có thể xảy ra trong nguyên phân.
Nếu một sai sót như thế xuất hiện
vào giai đoạn sớm của sự phát triển phôi,
một số lượng lớn tế bào trong cơ
thể sẽ ở tình trạng dị bội và
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh
vật.
Ở người, một số rối loạn
trong di truyền thường có liên quan đến các
trường hợp đột biến thể dị
bội. Hội
chứng Down (Down syndrome) chiếm tỉ lệ khoảng
1/700 trẻ sơ sinh ở Mỹ.
Hội chứng nầy thường là do sự gia
tăng thêm một nhiễm sắc thể thứ 21 làm
cho số lượng nhiễm sắc thể tromg
mỗi tế bào của cơ thể là 47.
Mặc dù đây là nhiễm sắc thể nhỏ
nhất trong tế bào của người, sự tăng
thêm một nhiễm sắc thể nầy làm biến
đổi nghiêm trọng kiểu hình của cơ
thể: lùn, đầu to, cổ ngắn, gáy rộng,
mắt lồi, lưỡi dài và dầy, si đần,
vô sinh và chết sớm. Tần
số mắc hội chứng Down ở con thường
có liên quan đến tuổi của người mẹ
(Bảng 2)
Bảng 2. Tuổi
người mẹ và tần số mắc hội
chứng Down ở con
Ngoài hội chứng Down còn một số rối
loạn khác ở người cũng do đột
biến thể dị bội trên nhiễm sắc
thể thường. Hội
chứng Patau (3 nhiễm sắc thể số 13) có
tần số khoảng 1/5000.
Người mắc hội chứng nầy thường
có những khuyết tật nghiêm trọng ở
mắt, não, hệ tuần hoàn và thường sứt môi.
Hội chứng Edwards (3 nhiễm sắc thể
số 18) xảy ra với tần số 1/10000 và có
ảnh hưởng đến hầu hết các cơ
quan trong cơ thể. Trong
cả hai hội chứng nầy, đứa trẻ thường
hiếm khi sống hơn một năm.
Ðột biến thể dị bội cũng có
thể xảy ra trên nhiễm sắc thể giới tính,
gây ra các hội chứng: Hội chứng Klinefelter có
tần số 1/2000, người nam có nhiễm sắc
thể XXY, cơ quan sinh dục nam nhưng dịch hoàn
rất nhỏ và thường vô sinh.
Người mắc hội chứng nầy thường
rất cao, vú và một số đặc điểm khác
trên cơ thể là của nữ.
Hội chứng 3X xảy ra với tần số
1/1000, người nữ có buồng trứng và dạ
con không phát triển, thường rối loạn kinh
nguyệt và khó có con.
Hội chứng Turner xảy ra với tần
số 1/5000, người nữ lùn, cơ quan sinh dục
không phát triển, các đặc tính sinh dục thứ
cấp phát triển sai lệch, vô sinh.
Trong trường hợp toàn bộ số lượng
nhiễm sắc thể trong tế bào đều nhân
đôi nhưng không phân ly trong quá trình phân bào, số
lượng nhiễm sắc thể của tế bào con
sẽ tăng lên gấp đôi.
Nếu hiện tượng nầy xảy ra trong
giảm phân, giao tử được hình thành sẽ là
lưỡng bội (2n) thay vì đơn bội (n).
Khi giao tử nầy thụ tinh với một giao
tử đơn bội sẽ tạo ra một hợp
tử tam bội (3n). Nếu
được thụ tinh bởi một giao tử lưỡng
bội khác, một hợp tử tứ bội (4n)
sẽ được tạo ra.
Nói chung, các tế bào có nhiều hơn 2 bộ
nhiễm sắc thể (3n, 4n, 5n...) đều được
gọi là đa bội (polyploidy).
Hầu
hết các trường hợp đa bội thể trong
tự nhiên thường xảy ra ở thực vật,
hiếm thấy ở động vật.
Trong phòng thí nghiệm, người ta có thể
tạo ra các thể đa bội bằng cách xử lý
các thực vật với những loại hóa chất
thích hợp để cản trở sự phân ly
của các nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào.
Hiện tượng đa bội và vai trò của
chúng trong tiến hóa sẽ được đề
cập thêm trong chương 14. |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||