Sinh tổng hợp protein |
|
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
CHƯƠNG IVSINH TỔNG HỢP PROTEIN
Như chúng ta đã xem ở chương trước,
một phức hệ enzim tạo ra các bản sao
mới ADN trong các nhiễm sắc thể và sửa
chữa hầu hết các sai sót.
Nhưng tất cả trình tự baz quan trọng
trong ADN không chỉ được sao chép và sửa
chữa mà còn phải được dùng để
tạo ra các protein cấu trúc của tế bào và các
enzim cho sự biến dưỡng của tế bào.
Trong chương này chúng ta sẽ xem xét làm
thế nào thông tin thật sự được mã hóa
ở ADN, và làm thế nào thông tin được phiên
mã thành ARN trong đó một số được
sử dụng trực tiếp và số còn lại
được giải mã thành protein. I.
SỰ PHIÊN MÃ (TRANSCRIPTION) Vào
đầu những năm 40, các nhà sinh học phân
tử đã cho thấy tế bào tụy tạng
của động vật có xương sống, nơi
sự tổng hợp protein xảy ra hết sức tích
cực, có chứa một lượng lớn ARN.
Vì acid nucleic này chỉ có với một lượng
giới hạn trong những tế bào không sản
xuất protein, như trong các tế bào cơ và thận
nên dường như có một mối liên hệ
chặc chẽ giữa sự tổng hợp protein và
ARN. Hơn nữa, không
giống như ADN, ARN có cả trong tế bào chất cũng
như trong nhân. Những
thí nghiệm đánh dấu bằng đồng vị
phóng xạ đã chứng minh rằng ARN được
tổng hợp trong nhân và được chuyển
từ nhân vào tế bào chất.
Tất cả những bằng chứng nầy cho
thấy rằng ARN là chất liên lạc giữa ADN
của nhân và ribô thể ở tế bào chất trong
sự tổng hợp protein. ARN
được phiên mã từ ADN nhờ
phức hệ enzim ARN polymeraz.
Phức hệ nầy vừa liên kết với
ADN, vừa mở xoắn. Giống
như ADN polymeraz, phức hệ phiên mã di chuyển
từ đầu 3 đến đầu 5 của ADN và
tổng hợp một sợi có chiều ngược
lại (5 - 3) trong trường hợp nầy là một
sợi gồm các ribonucleotid.
Ở nhóm sơ hạch, một loại ARN polymeraz
chịu trách nhiệm cho sự tổng hợp tất
cả các ARN. Ở nhóm
chân hạch, ARN polymeraz II chịu trách nhiệm đối
với sự tổng hợp mARN.
Hai loại ARN polymeraz khác tổng hợp t ARN và
rARN và các ARN khác sử dụng trong cấu trúc tế bào
hoặc enzim. Tuy
có những điểm khác biệt, ADN vẫn có
thể dễ dàng làm khuôn cho sự tổng hợp ARN.
Ngày nay chúng ta biết rằng sự tổng
hợp ARN xảy ra theo cách thức tương tự như
sự tạo thành ADN mới : hai sợi của phân
tử ADN tách rời nhau ra, ARN được tổng
hợp dọc theo một trong hai sợi nhờ enzim ARN
polymeraz. Ứng với
adenin trên sợi khuôn của ADN là uracil trên sợi ARN,
với timin là adenin, với guanin là cytosin và với
cytosin là guanin. Những
điểm vừa mô tả trên làm nảy sinh ra
một câu hỏi quan trọng : làm thế nào ARN
polymeraz nhận biết nơi bắt đầu và
kết thúc thông tin? Câu trả lời là những trình
tự kiểm tra chuyên biệt chỉ nơi bắt
đầu và kết thúc trên sợi ADN.
Hình 1. Tín hiệu phiên mã ở ADN của E. coli
Trước tiên là vùng khởi động
(promotor). Các vị trí
hoạt động của ARN polymeraz gắn vào vùng mang
trình tự baz của vùng này.
Vùng khởi động của E.coli, đọc
từ
Ở phần lớn nhóm sơ hạch, sự
tổng hợp mARN tiếp tục đến khi polymeraz
gặp tín hiệu kết
thúc (Hình 1B). Tín
hiệu nầy gồm hai thành phần.
Ðầu tiên có một vùng với một trình
tự baz cho phép các baz tương ứng ở đuôi
của mARN bắt cặp và liên kết với nhau để
tạo thành một vòng hình kẹp tóc (hairpin loop).
Tiếp theo là sự phiên mã trên mạch khuôn 4
đến 8 adenin. Khi
ARN polymeraz di chuyển vào vùng adenin thì do vòng vừa
được tạo ra ở mARN và do sự sốc
vật lý, vùng nầy gắn vào phức hệ enzim, làm
chậm hoặc dừng hẳn sự phiên mã.
Lúc nầy có 2 việc xảy ra làm ngừng
sự tổng hợp ARN: một là trình tự của vòng
kéo ra khỏi ADN, hai là do sự liên kết yếu
giữa các adenin của ADN và các uracil của mARN
(mỗi cặp baz chỉ có hai liên kết hydro) không
đủ sức để giữ ARN trên ADN khuôn.
Sự dừng và sự kéo làm cho bản phiên mã
(ARN) và enzim polymeraz tách rời khỏi nhiễm sắc
thể (Hình 1C). Cơ
chế của sự tổng hợp mARN vừa mô
tả được tìm ra ở nhóm sơ hạch,
ở ty thể và lục lạp trong tế bào của
nhóm chân hạch. Sự
phiên mã trong nhân của nhóm chân hạch thì phức
tạp hơn. Sự
phức tạp đó là mARN ở nhóm chân hạch
được làm dấu ở
cả hai đầu : một đầu gồm mũ 7
methylguanosin được thêm vào ở đầu 5
trong khi cái đuôi có khoảng 100-200 adenin ở đầu
3. Sản phẩm
tạo thành là bản phiên
mã sơ cấp, còn là một bản thông tin chưa
sử dụng được, nói cách khác chỉ là
bản nháp.
(A)
(B) Hình
2. Sự di dời intron
và nối exon ở nhóm chân hạch Năm
1977 A. Sharp (Viện
kỹ thuật Massachustte) trong khi nghiên cứu gen của
nhóm chân hạch bị nhiễm siêu khuẩn đã khám
phá ra là mặc dù bản nháp có khoảng 6.000 baz nhưng
mARN thực sự được giải mã chỉ
bằng khoảng 1/3 chiều dài nầy.
Những công trình tiếp theo đã cho thấy
sự phiên mã gen của nhóm chân hạch bình thường
cũng tương tự: những vùng chuyên biệt
lớn trong bản nháp của nhóm chân hạch bị di
dời đi trong nhân để tạo ra một phân
tử mARN chức năng (Hình 2A).
Những vùng của bản nháp còn tồn tại
và hoạt động trong suốt quá trình tổng
hợp protein được gọi là
exon (vì chúng
được biểu hiện)
còn vùng
của bản nháp đã bị di dời đi
trong nhân được gọi là intron. Nhiều
thí nghiệm cho thấy mặc dù bị dời đi
rất sớm, nhiều intron rất cần thiết cho
hoạt động của ARN: các mARN được phiên
mã từ các gen tổng hợp nhân tạo thiếu
intron không vào được tế bào chất trong khi các
gen có vài intron nguyên vẹn thì sự phiên mã thường
chính xác và bản phiên mã len lõi qua lỗ nhân vào
tế bào chất. Sự
di dời các intron là một công việc độc
đáo. Một số
gen có đến 50 intron và chỉ sai sót một baz trong
quá trình cắt intron cũng làm cho mARN trở nên vô
dụng. Nơi bắt
đầu và kết thúc của intron trên bản nháp
được đánh dấu bằng những tín
hiệu để có thể nhận biết và tách ra.
Tín hiệu ngoại vi của intron được
nhận diện bởi một đoạn ngắn
của ARN trong phức hệ ARN-Protein, những hạt
nhỏ riboprotein nhân được ký hiệu là snRNP
(small nuclear ribonucleoprotein particles).
Có ít nhất 4 loại snRNP tham gia trong việc
cắt ráp. ARN trong
hạt nầy giống như ARN ribô thể, vì nó
được sử dụng trực tiếp và có
cả hai chức năng enzim và cấu trúc.
Phức hệ snRNP được biết nhiều
nhất có một trình tự baz bổ sung cho vùng ranh
giới giữa phần cuối của exon và nơi
bắt đầu intron. Phức
hệ snRNP phá vỡ các cầu nối giữa các
nucleotid trên bản nháp tại mỗi ranh giới
exon-intron. Intron
được tách ra và bị tiêu hủy bởi
những enzim khác. Kế
đó những thành phần khác của snRNP ráp 2 exon
lại. Một khi
tất cả các intron đã được loại
bỏ thì mARN hoàn chỉnh được đưa vào
tế bào chất (Hình2B). Như
chúng ta đã thấy, sự phiên mã được
bắt đầu khi một ARN polymeraz gắn vào vùng
khởi động, phức hệ polymeraz bắt đầu
tạo ra một bản sao ARN tại trình tự mở
đầu và ngừng lại tại tín hiệu kết
thúc. Trong nhóm chân
hạch, bản nháp nầy được biên tập
để tách các intron, trong khi đó ở nhóm sơ
hạch công việc nầy không cần thiết.
ARN thông tin được tạo ra có chứa trình
tự các baz qui định thành phần và thứ
tự các acid amin trong phân tử protein do gen mã hóa.
Trước trình tự nầy là phần mở
đầu và cuối nó là phần kết thúc ngắn.
Trình tự này được giải mã trên ribô
thể bởi một quá trình gọi là quá trình
giải mã.
Thông tin được phiên dịch từ một
ngôn ngữ phân tử nầy sang một ngôn ngữ phân
tử khác. Chúng ta
sẽ xem hai ngôn ngữ và quá trình giải mã. a.
Ðơn vị mã (Codon) Khi
Watson và Crick khám phá ra rằng ADN gồm 4 loại baz có
N : adenin, cytosin, guanin và timin xếp theo đường
thẳng thì rõ ràng là trình tự của các acid amin
trong một phân tử protein phải được mã hóa
bởi những nhóm baz.
Nếu như mỗi baz của ADN qui định
một acid amin thì phải có 20 loại baz thay vì chỉ
có 4 loại. Nếu cùng
một lúc 2 baz qui định 1 acid amin thì chỉ có
thể có 16 tổ hợp : AA, AC, AG, AT...
Vì có 20 loại acid amin thường hiện
diện trong protein nên thông tin phải được mã
hóa dưới dạng bộ 3 hoặc nhiều hơn.
Những đơn vị mã nầy gọi là codon. Crick
& CSV (Ðại học Cambridge) đã xác lập số
nucleotid của một codon vào năm 1961.
Vi khuẩn bị nhiễm siêu khuẩn được
xử lý với những hợp chất gọi là
Acridin, chất nầy có thể làm mất hoặc thêm
nucleotid trên ADN. Crick lý
luận rằng sự thêm hoặc bớt 1 nucleotid
sẽ làm cho thông tin trở nên vô nghĩa vì nó có
thể làm ngừng quá trình giải mã do có sự thay
đổi điểm khởi đầu đối
với các đơn vị mã kế tiếp.
Giả sử thông tin là
TỐI
NAY TÔI DẠO PHỐ VỚI BẠN ...
Bỏ ký tự I ở chữ TỐI (mã mở
đầu) sẽ làm thông tin trở thành :
TỐN AYT ÔID
ẠOP HỐV ỚIB ẠN...
Chỉ xóa một nucleotid làm xáo trộn trình
tự các codon theo sau và nếu nó xảy ra gần nơi
bắt đầu của thông tin, trình tự của các
acid amin trong phân tử protein hoàn toàn bị đảo
lộn. Mất hai
nucleotid cũng sẽ dẫn tới kết quả tương
tự nhưng nếu số lượng nucleotid bị
mất bằng với chiều dài của codon và
nếu chúng xảy ra gần nơi bắt đầu,
sự giải mã sẽ tạo protein gần đúng, có
lẽ có một enzim duy trì hoạt động nầy
TxÍxAx TÔI DẠO PHỐ VỚI BẠN ...
Crick & CSV đã dùng acridin với nhiều
nồng độ khác nhau làm mất số
nucleotid để xác định những nồng độ
nào tạo ra enzim hoạt động.
Từ những kết quả được phân tích
thống kê, họ đã kết luận rằng codon có
độ dài bằng 3 baz. b.
Sự chuyển đổi đơn vị mã Vấn
đề tiếp theo trong sự giải mã là phải xác
định mối tương quan chính xác giữa các
codon và các acid amin. M.
W. Nirenberg và H.
Matthaei (Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ) đã
sử dụng phương pháp enzim của Ochoa (Ðại
học New York) để liên kết các nucleotid tổng
hợp ra ARN. Thí dụ
khi chỉ dùng một loại nucleotid là uracil thì một
chuỗi polyuracil sẽ được tạo thành.
Tương tự như vậy đối với
adenin. Khi
dùng polyuracil được tạo ra bằng phương
pháp nầy (thay vì mARN bình thường) để
tổng hợp protein trong một môi trường nhân
tạo có đủ tất cả các loại acid amin,
chỉ có chuỗi polypeptid với 1 loại acid amin là
phenylalanin được tạo ra, điều này cho
thấy codon UUU mã hóa cho phenylalanin.
Nirenberg và Matthaei cũng cho thấy AAA mã hóa cho
lysin, GGG cho glycin và CCC cho prolin. Tuy
nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn để giải
thích codon cấu tạo từ hai hoặc ba loại
nucleotid khác nhau. Thí
dụ nếu dùng nucleotid uracil và guanin với tỉ
lệ 2 : 1 thì mARN nhân tạo được tổng
hợp sẽ chứa chủ yếu các codon GUU, UGU và
UUG. Khi mARN nầy
được dùng làm khuôn để tổng hợp
polypeptid thì chuỗi polypeptid sẽ có chủ yếu là
các acid amin cystein, valin và leucin, nhưng bằng cách
nầy không thể xác định được
bộ ba nào đã mã hóa cho acid amin nào. Năm
1964 Nirenberg và P. Leder
đã đưa ra một kỹ thuật cho ribô
thể gắn vào bộ 3 nucleotid ARN có thành phần
đã được xác định (3 nucleotid liên
kết nhau theo trình tự). Từng
ba nucleotid hoạt động như là một đoạn
ngắn của mARN sẽ làm cho ribô thể gắn
với một loại acid amin chuyên biệt - giai đoạn
đầu của sự giải mã.
Thí dụ, nếu dùng một ribô thể gắn
với 3 nucleotid gồm UUU thì phenylalanin sẽ liên
kết với ribô thể đó.
Việc tổng hợp 3 nucleotid theo một trình
tự baz riêng tương đối dễ nên từng
bộ 3 trong số 64 tổ hợp bộ ba có thể
được tổng hợp và liên kết với các
ribô thể, từ đó sự tổ hợp các acid
amin có thể được xác định.
Tuy nhiên, có một số bộ ba nucleotid không hoàn
toàn chuyên biệt trong sự liên kết, vì vậy còn
một vài tồn tại trong sự giải thích các
đơn vị mã.
Sau kỹ thuật gắn các bộ ba nucleotid, H.
G. Khorona (Ðại
học Wiscosin) đưa ra phương pháp trùng hợp
mARN với những trình tự lặp lại đã
biết trước (chẳng hạn AAGAAGAAG) và nhờ
đó đã giải quyết được những
vấn đề còn tồn tại về mã di
truyền.
Bảng 9.1 tổng kết các codon đã được
xác định. Bảng
1. Mã di truyền (trong
mARN)
Bảng mã di truyền cho thấy, trừ hai acid amin là methionin và tryptophan, tất cả các acid amin còn lại đều được mã hóa bởi nhiều hơn một bộ ba. Những mã đồng nghĩa (mã hóa cho cùng một acid amin) thường có hai baz đầu tiên giống nhau nhưng khác nhau ở baz thứ ba. Thí dụ: CCU, CCC, CCA, CCG cùng mã hóa cho prolin. Cần lưu ý thêm là bốn codon AUG, UAA, UAG, UGA dùng để chỉ nơi bắt đầu và kết thúc thông tin trên mARN.
Sự giải mã xảy ra ở ribô thể.
Mỗi ribô thể gồm hai bán đơn vị
lớn và nhỏ. Khi không
có sự tổng hợp protein, mỗi bán đơn
vị tồn tại riêng rẽ trong tế bào chất
(Hình3A, B). Ribô thể
ở nhóm sơ hạch gồm hai bán đơn vị
50S và 30S hợp thành ribô thể 70S (S = Svedberg, là
đơn vị đo độ lắng của ribô
thể khi đem ly tâm). Ở
nhóm chân hạch hai bán đơn vị 60S và 40S hợp
thành ribô thể 80S. Mỗi
bán đơn vị có các phân tử rARN riêng.
Các rARN này kết hợp với các protein để
tạo thành các bán đơn vị.
Ribô thể của nhóm sơ hạch có các rARN 23S,
16S và 5S trong khi ribô thể của nhóm chân hạch có các
rARN 28S,18S, 5.8S và 5S (Bảng 2). Bảng
2. Các thành phần
của ribô thể ở nhóm sơ hạch và chân
hạch
Hình
3. Tổng hợp
sợi polypeptid ở ribô thể
Ở nhóm sơ hạch, đầu 5 của mARN bám
vào bán đơn vị nhỏ (Hình 3 B, C), sau đó
sẽ liên kết phần nầy với bán đơn
vị lớn. ARN thông
tin bám vào bằng sự bắt cặp baz của rARN và
một tín hiệu của mARN (thường là AGGAGGU)
gần đầu của mARN.
Tín hiệu nầy gắn trong khe của bán
đơn vị nhỏ, rồi đến mã mở
đầu AUG nằm cách đó vài baz trên mARN.
Các protein chuyên biệt gọi là yếu tố
mở đầu tham gia vào quá trình nầy.
Khi việc liên kết với bán đơn vị
lớn hoàn tất thì sự giải mã có thể
bắt đầu (Hình 3D). AUG
mã hóa cho methionin vì methionin luôn luôn là acid amin đầu
tiên trong suốt quá trình giải mã.
Về sau, một enzim khác tách methionin ra khỏi
đầu của chuỗi polypeptid.
Vì nhóm sơ hạch không có màng nhân, quá trình phiên
mã không bị tách biệt với ribô thể và các
yếu tố giải mã khác trong tế bào chất nên
ribô thể có thể bám vào một đầu của
phân tử mARN và bắt đầu giải mã tạo ra
protein trong khi ARN polymeraz vẫn phiên mã phần thông tin còn
lại từ NST (trường hợp tương tự
cũng xảy ra trong sự giải mã ở lục
lạp và ty thể của nhóm chân hạch).
Ở
nhóm sơ hạch và các bào quan của nhóm chân
hạch, trong khi ribô thể đầu tiên bám vào và
đang giải mã phần sau của thông tin, các ribô
thể khác có thể bám vào và bắt đầu
giải mã (Hình 4). Trường
hợp nầy khác với mARN được tổng
hợp trong nhân của nhóm chân hạch.
Dù rằng phần lớn ribô thể của nhóm
chân hạch được tổng hợp trong nhân,
sự giải mã không thể xảy ra ở đây vì
bước cuối cùng tập hợp ribô thể
xảy ra trong tế bào chất.
Hình
4. Phiên mã và giải mã
cùng lúc
Ở nhóm chân hạch có 4 bước đan xen vào
nhau trong sự phiên mã và giải mã.
Chúng ta đã đề cập 3 bước đầu:
thay đổi của bản phiên mã ở đầu 5,
thay đổi ở đầu 3, và sự nối các
đoạn ARN sau khi tách bỏ intron (Hình 2).
Bước thứ tư là sự di chuyển
của mARN qua các lỗ của màng nhân để đi
vào tế bào chất, nơi đây các ribô thể
tự do sẵn sàng giải mã.
Phần lớn ARN được giải mã
bởi ribô thể trong tế bào chất nhưng mARN mã
hóa cho một số protein đặc biệt luôn luôn
được giải mã ở mạng nội chất
sần. Các mARN loại
nầy bắt đầu quá trình giải mã theo phương
thức thông thường bằng cách gắn với các
bán đơn vị nhỏ của ribô thể trong
tế bào chất, từ đó liên kết với bán
đơn vị lớn và bắt đầu giải mã,
nhưng sự giải mã hầu như đình chỉ
ngay: đầu đoạn protein vừa được
tổng hợp chứa một trình tự gắn vào
một phức hệ nhận diện làm cho quá trình
giải mã bị ngừng lại.
Sau đó, tổ hợp phức hệ nhận
diện mARN-ribô thể nầy bám vào mạng nội
chất sần. Phần
protein vừa được tổng hợp chui vào
mạng nội chất, sự giải mã lại bắt
đầu và chuỗi acid amin dài ra được
đưa vào các khoang của mạng nội chất.
Khi chấm dứt sự giải mã, các bán
đơn vị nhỏ tách khỏi mARN và rời
mạng nội chất. Các
protein được tổng hợp ở
mạng nội chất sần không có nhiệm
vụ trong tế bào chất mà chúng có thể hòa tan,
hoặc trôi nổi trong khoang của mạng nội
chất hoặc được tích tụ lại trong
mạng nội chất láng và bị bao lại thành các
túi chuyên chở. Mặt
khác, chúng có thể bám vào màng của mạng nội
chất, nơi đây chúng có chức năng, hoặc
bị bao lại bởi màng của mạng nội
chất hay chính màng tế bào.
Ngược lại, phần lớn protein được
tổng hợp tại ribô thể trong tế bào
chất đều ở lại trong đó.
Như đã biết, trong nhóm chân hạch, mARN
được tổng hợp từ ADN trong nhân, di
chuyển đến ribô thể và làm khuôn cho sự
tổng hợp protein. Các
nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng mỗi acid
amin được gắn vào một tARN tương
ứng trước khi đến ribô thể. Họ cũng
đã kết luận rằng mỗi phân tử tARN
chỉ mang một phân tử acid amin, hoạt hóa nó
với năng lượng ATP và chuyên chở nó đến
ribô thể. Tại ribô
thể acid amin này gắn thêm các acid amin khác để
tạo chuỗi polypeptid.
Hình
5. Sự gắn
acid amin vào tARN tương ứng Các
enzim (aminoacyl tARN synthetaz) xúc tác phản ứng ghép
mỗi acid amin với tARN tương ứng.
Mỗi enzim chuyên biệt với một loại
acid amin và tARN tương ứng, và xúc tác phản
ứng kết hợp cả hai lại với nhau.
Ðầu tiên enzim phản ứng với một acid
amin và một phân tử ATP, tạo ra một phức
hợp giàu năng lượng AMP- acid amin vẫn còn
gắn với enzim. Sau
đó enzim xúc tác sự chuyển acid amin từ AMP sang
gắn vào đầu 3 của tARN.
Cuối cùng enzim sẽ phóng thích tARN đã gắn
acid amin (Hình 5). ARN
vận chuyển mang acid amin đến ribô thể đã
bám vào sợi mARN. Tại
đây tARN sẽ gắn vào mARN bằng sự bắt
cặp giữa các baz bổ sung.
Chúng ta đã thấy rằng mỗi codon mã hóa cho
một acid amin là một trình tự của ba baz trên
sợi đơn mARN. Mỗi
tARN có bộ 3 baz gọi là đối mã
(anticodon-một bộ 3 chưa bắt cặp) bổ sung
codon trên mARN cho acid amin riêng biệt.
Thí dụ mã trên mARN là CCG mã hóa cho prolin thì tARN
chuyên chở prolin có đối mã là GGC để
bổ sung cho CCG. Khi phân
tử tARN vận chuyển prolin đi đến gần
mARN thì đối mã GGC của tARN chỉ có thể liên
kết với mARN tại bộ 3 CCG... Mỗi acid amin có
một hay nhiều hơn một ARN chuyên chở mang nó
(vì mã di truyền có 64 mã) vì hầu hết acid amin có
nhiều hơn một đơn vị mã.
Hai ARN chuyên chở mang một loại acid amin
được gọi là isoacceptor. Sự
gắn phân tử tARN vào mARN và nối các acid amin mà chúng
mang đến lại với nhau được thực
hiện từng bước ở bán đơn vị
lớn của ribô thể sau khi các bước cơ
bản sau được hoàn tất: trước
hết tARN có đối mã cho methionin gắn vào bán
đơn vị nhỏ. Ở nhóm sơ hạch và nhóm
chân hạch thì trình tự nầy bổ sung cho mã
mở đầu trên mARN, đồng thời làm cho bán
đơn vị nầy gắn vào mARN.
Sau đó bán đơn vị lớn được
gắn vào bán đơn vị nhỏ.
Khi sự giải mã tiến hành, ribô thể di
chuyển dọc theo sợi mARN với phần thông tin
đang được giải mã nằm trong khe giữa
hai bán đơn vị.
Hai vị trí gắn tARN (trên bán đơn vị
lớn của ribô thể) - vị trí P và vị trí A -
kế cận nhau ráp các trình tự nucleotid (mã) lại
với nhau. Khi chu trình
bắt đầu, đối mã của tARN thứ
nhất bắt cặp với mã mở đầu
của mARN tại vị trí P. Vị trí A kế sau mang
một tARN có đối mã thích hợp với mã
kế tiếp trên mARN. Khi tARN nầy gắn vào vị
trí A, enzim peptidyl transferaz chuyển acid amin từ tARN
ở vị trí P và gắn nó vào acid amin ở vị trí
A, tARN ở vị trí P phóng thích acid amin và được
giải phóng. Trong khi
ribô thể chuyển dịch dọc mARN được
một mã, mang mã ở vị trí A (và tARN với
chuỗi polypeptid đang được tổng hợp)
đến vị trí P. Kết quả là mã được
phiên dịch tiếp vào ở vị trí A. Cứ 1 giây,
sợi polypeptid được gắn thêm khoảng 15
acid amin. Sự giải mã sẽ kết thúc
khi ribô thể gặp mã kết thúc với sự
tham gia của một protein gọi là yếu tố
giải phóng (release factor) làm cho sợi polypeptid vừa hình
thành được phóng thích (Hình 6). Các
chi tiết về ribô thể hoạt động như
thế nào, chúng chọn lựa các tARN thích hợp trong
số rất nhiều phân tử chuyên chở ra sao,
hoặc nó di chuyển trên mARN theo từng mã như
thế nào thì chưa biết hết, mặc dù ảnh
hưởng của các kháng sinh trên các bước khác
nhau trong sự giải mã đã cung cấp thêm một
số thông tin trong quá trình nầy.
Thí dụ : tetracyclin gắn vào vị trí A trên ribô
thể vi khuẩn mà không tách ra khỏi vị
trí nầy được, streptomycin khóa mã mở đầu
lại còn erythromycin thì
ngăn cản sự di chuyển từ vị trí A &
P trên ribô thể vi khuẩn và ribô thể bào quan.
Mặc dù việc làm giảm tỉ lệ giải
mã ở các vi khuẩn gây bệnh có giá trị lớn
trong điều trị nhưng nếu nồng độ
kháng sinh quá cao thì sẽ giết chết các ty thể). Khả
năng sản xuất protein của ribô thể rất
to lớn. Trung bình
một ribô thể có thể tổng hợp một
sợi protein có 300-500 acid amin chỉ trong khoảng 25-35
giây. Trong tế bào
số ribô thể nhiều hơn mARN gấp 10 lần và
một mARN có thể được giải mã bởi
nhiều ribô thể cùng một lúc, do đó một
chuỗi polypeptid được tạo ra từ một
mARN chỉ trong khoảng 3 giây.
Một tế bào chân hạch ở trạng thái
hoạt động tích cực có khoảng 300.000 phân
tử mARN tham gia vào sự tổng hợp protein cần
thiết, do đó nếu đủ nguyên liệu, 100.000
protein có thể được tổng hợp mỗi giây.
Ở những tế bào tiết thì hoạt động
còn tích cực hơn nữa.
Hình
6. Chu kỳ giải mã
trên ribô thể Tóm
tắt sự phiên mã và giải mã ở nhóm chân
hạch
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||