Kiểm soát sự biểu hiện của gen |
|
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga |
|
||||||||||||||||||||||||||||
CHƯƠNG
V
KIỂM
SOÁT SỰ BIỂU HIỆN CỦA GEN
Mỗi tế bào trong cơ thể của một
sinh vật đa bào đều nhận trọn vẹn
một bộ nhiễm sắc thể, một bản sao
của ADN trong tế bào ban đầu mà từ đó
sinh vật phát triển. Các
trình tự nucleotid của ADN nầy chứa đựng
toàn bộ thông tin di truyền, đó chính là cơ
sở của tiến hóa tế bào.
Dù cho mỗi tế bào trong cơ thể nhận
được một bộ thông tin giống nhau nhưng
tế bào nầy khác với các tế bào kia và mỗi
tế bào hoạt động theo những phương
thức hoàn toàn khác nhau. Thật
vậy, chỉ có một số gen trong bộ gen của
tế bào là sản xuất protein và ở từng
thời điểm chỉ có vài phần trăm
ADN nầy hoạt động.
Chúng ta đã thấy nhiều sự điều
chỉnh nhỏ hóa học của tế bào bằng
sự thay đổi trong hoạt động của các
enzim, nhưng những điều chỉnh lớn đòi
hỏi sự thay đổi biểu hiện của gen
trong tế bào.
Trong chương này chúng ta sẽ khảo sát tính
logic và cơ chế của sự kiểm soát gen,
một quá trình mà ngày nay chúng ta đã biết có
những chất hóa học liên kết trực tiếp
hoặc gián tiếp với ADN hoặc mARN. I.
KIỂM SOÁT SỰ BIỂU HIỆN GEN Ở VI KHUẨN Trước
đây các nhà nghiên cứu về sự biểu
hiện của gen ở vi khuẩn đã đưa ra
nhiều giả định về quá trình mà họ tìm
hiểu. Thứ
nhất, chỉ những gen mà sản phẩm của chúng
cần thiết ở thời điểm đó mới
được biểu hiện.
Thứ hai, vì hầu hết các gen mã hóa cho
một enzim mà enzim kiểm soát chỉ một bước
trong quá trình sinh hóa, nên các gen mã hóa cho nhiều enzim
trong cùng quá trình phải được kiểm soát thành
một nhóm. Những
giả định này đã được chứng
minh là đúng trong nhiều trường hợp phiên mã
ở vi khuẩn. Mô hình
đầu tiên về sự kiểm soát gen được
hình thành từ các nghiên cứu trên vi khuẩn
đường ruột E. coli.
a.
Sự cảm ứng gen: mô hình của Jacob và Monod Trong
một công trình nghiên cứu kéo dài
về sự tổng hợp protein ở E. coli,
từ cuối những năm 1940, hai nhà sinh hóa người
Pháp là François Jacob và Jacques Monod đã xây dựng
một mô hình gen điều hòa trong tế bào vi
khuẩn. Họ tập
trung vào (-galactosidaz là
loại enzim xúc tác sự phân giải lactoz thành glucoz và
galactoz. Lactoz
không phải lúc nào cũng có sẵn cho E. coli.
Vì vậy gen qui định (-galactosidaz thường
được phiên mã với một tỉ lệ
rất thấp. Jacob và
Monod nhận thấy rằng
sự sản xuất thêm loại enzim tiêu hóa này
thường được mở đầu bởi
sự có mặt của một chất gọi là
chất cảm ứng (inducer), trong trường hợp
này là allolactoz, một dẫn xuất của lactoz,
được sản xuất tự động trong
tế bào khi có lactoz. Như
vậy (-galactosidaz là một enzim cảm ứng (inducible
enzim).
Jacob và Monod đã chứng minh được
sự tham gia của 4 gen trong việc sản xuất (-
galactosidaz và 2 enzim khác tham gia vào sự phân giải
lactoz: có 3 gen gọi là gen
cấu trúc (structure gen), mỗi gen chuyên biệt cho trình
tự acid amin của một loại enzim, và một
gen điều hòa (regulator gen) kiểm soát hoạt động
của các gen cấu trúc. Họ
giả định rằng gen điều hòa nằm ngoài
các gen cấu trúc, điều khiển tổng hợp
chất ức chế (repressor)
là một loại protein ngăn cản
sự phiên mã của các gen cấu trúc.
Jacob và Monod cũng khám phá ra rằng có một vùng
đặc biệt của ADN, nằm giữa vùng
khởi động (promotor) và các gen cấu trúc của
(- galactosidaz xác định khi nào sự phiên mã của
gen được tiến hành.
Họ gọi vùng đặc biệt này là vùng
chỉ huy (operator) và
tập hợp của vùng chỉ huy và ba gen cấu trúc
được gọi là operon.
Khi chất ức chế gắn vào vùng chỉ huy,
ARN polymeraz không bám được vào vùng khởi động
của ADN và sự phiên mã bị ngừng lại (Hình
1 A).
Hình
1. Một thí dụ
về operon cảm ứng: Lac operon
Nếu có mặt chất cảm ứng, nó sẽ
liên kết với chất ức chế gây ra một
sự thay đổi hình thể của chất ức
chế làm chúng không thể gắn vào vùng chỉ huy.
Nói cách khác, chất
cảm ứng làm bất hoạt chất ức chế
(Hình 1 B). Lúc này khi
được tự do liên kết với vùng
khởi động, ARN polymeraz có thể mở đầu
sự phiên mã của các gen cấu trúc để
tổng hợp mARN (Hình 1C). Phân
tử mARN có mang thông tin của cả ba gen cấu trúc,
chúng bám vào các ribô thể trong tế bào chất,
tại đây thông tin của chúng được
giải mã và ba enzim cần thiết cho sự biến dưỡng
lactoz được tổng hợp. b.
Sự ức chế gen
Hình
2. Operon ức chế Không
phải tất cả các operon đều được
điều hòa theo cách thức giống như lac operon
(một loại operon cảm ứng), nghĩa là nó
bất hoạt cho đến khi được bật lên
bởi một chất cảm ứng.
Nhiều operon hoạt động liên tục
trừ phi bị đóng lại bởi một chất
đồng ức chế (corepressor).
Một thí dụ là operon mà 5 gen cấu trúc
của nó mã hóa cho các enzim cần thiết để
tổng hợp acid amin tryptophan.
Bình thường operon này hoạt động nhưng
khi E. coli được nuôi cấy trong môi trường
có tryptophan thì operon đóng lại.
Các enzim được mã hóa bởi các gen mà bình
thường thì hoạt động nhưng có thể
bị ức chế được gọi là enzim
ức chế (repressible enzim).
Trong trường hợp này, protein ức chế
được mã hóa bởi gen điều hòa sẽ không
hoạt động lúc mới được tổng
hợp. Chỉ khi có
một chất đồng ức chế gắn vào và
hoạt hóa nó làm nó có thể gắn vào operon, do đó
cản trở sự bám của ARN polymeraz (Hình 2).
Không giống các enzim cảm ứng chỉ
được tổng hợp nếu operon của chúng
được kích hoạt bởi một chất
cảm ứng, các enzim ức chế được
tổng hợp tự động trừ phi operon của
chúng bị đóng bởi một chất đồng
ức chế. Trong
sự tổng hợp tryptophan, chính tryptophan hoạt hóa
protein ức chế, làm cho nó
có thể gắn vào vùng chỉ huy.
Một chất cảm ứng thường hoặc
là cơ chất đầu tiên trong quá trình sinh hóa
hoặc là một số chất có quan hệ mật
thiết với cơ chất đó.
Ngược lại một chất đồng
ức chế thường là sản phẩm cuối cùng
của quá trình sinh hóa hoặc là một chất có quan
hệ mật thiết với quá trình đó. Cả
hai trường hợp chúng ta vừa thảo luận là
những thí dụ của sự kiểm soát âm
tính: một chất
ức chế gắn vào vùng chỉ huy làm đóng
sự phiên mã. Trong
một trường hợp thì sự kiểm soát do
sự khử hoạt tính của chất ức chế
bởi một chất cảm ứng và trong một trường
hợp khác là do sự hoạt hóa nó bởi một
chất đồng ức chế.
Sự kiểm soát âm tính dù loại này hoặc
một loại kia là cách phổ biến nhất về
sự điều hòa biểu hiện của gen ở nhóm
sơ hạch. Tuy nhiên,
một vài hệ thống được điều hòa
bởi sự kiểm soát
dương tính: một protein kiểm soát gắn
trực tiếp vào ADN để hoạt hóa operon.
Bây giờ chúng ta hãy xem hệ thống kiểm soát
dương tính làm việc như thế nào? Chúng
ta đã thấy rằng ARN polymeraz nhận biết và
gắn vào trình tự của vùng khởi động
kế cận vùng chỉ huy.
Vùng khởi động của nhiều gen thường
có các trình tự nucleotid giống hệt nhau (trình
tự phổ biến). Các
gen mà vùng khởi động có trình tự khác với
trình tự phổ biến thường ít được
phiên mã vì ARN polymeraz sẽ gắn vào chúng một cách
lỏng lẽo. Trong
sự kiểm soát dương tính của những gen như
vậy, một protein kiểm soát được gọi
là yếu tố phiên mã (transcription factor-TF) gắn vào vùng
hoạt hóa (activator) ở phía trước vùng khởi
động củng cố trình tự của vùng
nầy, giúp cho polymeraz gắn vào và làm cho sự phiên
mã thuận lợi hơn.
Có 2 kiểu kiểm soát dương tính đã
được biết:
Trong kiểu thứ nhất, một chất hóa
học gắn vào TF, gây biến dạng và hoạt hóa
TF, giúp nó có thể gắn vào ADN và làm thuận
lợi cho sự phiên mã. Thí
dụ một TF thường gặp là CAP (catabolic gene
activator protein: protein kích động gen biến dưỡng)
của E. coli.
Khi glucoz, một thức ăn được (ưa
thích( của vi khuẩn (nghĩa là được
biến dưỡng nhanh chóng và hiệu quả
nhất), trở nên khan hiếm, một chất
liên lạc là AMP vòng được sản
xuất. AMP vòng gắn
vào và hoạt hóa CAP, sự phiên mã của các operon
biến dưỡng các chất dinh dưỡng tăng
lên nhanh chóng (Hình 3).
Trong kiểu thứ hai, một protein kiểm soát bình
thường thì hoạt động nhưng bị
bất hoạt khi có một phân tử nhỏ gắn vào.
Khi bị bất hoạt, protein này không thể giúp
ARN polymeraz gắn vào trình tự của vùng khởi
động và vì vậy sự phiên mã bị giảm
đến tối thiểu .
Thí dụ tín hiệu AMP vòng, thông qua CAP, hoạt hóa
các operon của những gen tiêu hóa các chất dinh dưỡng,
đồng thời làm bất hoạt protein TF.
Lúc này hệ thống biến dưỡng các
nguồn thực phẩm được hoạt hóa và
hệ thống biến dưỡng glucoz tạm thời
bị ngưng hoạt động.
Hình
3. Sự cảm ứng
phiên mã bởi CAP II.
KIỂM SOÁT SỰ BIỂU HIỆN CỦA GEN Ở
TẾ BÀO CHÂN HẠCH a.
Vai trò của các protein nhiễm sắc thể Như
ta đã biết ở chương 6, nhiễm sắc
thể bao gồm ADN và protein.
Protein của nhiễm sắc thể gồm hai
loại: histon và phi histon. Một
số bằng chứng cho thấy histon thành phần
chủ yếu của thể nhân có thể tham gia vào
sự biểu hiện gen nhưng vai trò của chúng có
vẻ thụ động : với lõi là thể nhân,
sự phiên mã không thể tiến hành vì sự
duỗi xoắn là cần thiết để ARN polymeraz
gắn vào ADN. Những
bằng chứng gần đây nhất cho thấy
rằng các protein phi histon giữ vai trò quan trọng hơn
nhiều, như là các tác nhân chọn lọc trong
sự điều hòa gen. Một
số protein này
được gắn trực tiếp vào ADN trong khi
một số khác được liên kết với
lõi của thể nhân.
Chúng biểu hiện rất đa dạng vì
vậy chúng có tính chuyên biệt cần thiết
của các yếu tố kiểm soát.
Hơn nữa, các protein phi histon dường như
tham gia rất ít trong cấu trúc của chất
nhiễm sắc, nên có lẽ vai trò của chúng là
điều hòa. Ít
nhất một vài protein phi histon liên kết với
những vùng kiểm soát chuyên biệt trong ADN làm
nới lỏng các vòng (loop) của nhiễm sắc
thể. b.
ADN có trình tự lặp lại cao Tổ
chức của nhiễm sắc thể ở tế bào
chân hạch đã được phát hiện phần
lớn nhờ vào kỹ thuật lai ADN (ADN hybridization).
Các kỹ thuật lai ADN đã cho thấy rằng
lịch sử tiến hóa của nhiễm sắc
thể nhóm sơ hạch và
ở nhóm chân hạch rất khác nhau.
Có lẽ sự tương phản rõ nhất là
bộ gen (genome) của nhóm chân hạch có các trình
tự không bao giờ phiên mã,
các trình tự này có nhiều bản sao.
Chẳng hạn khoảng 10% của phần lớn
ADN trong tế bào chân hạch chứa các trình
tự baz được tìm thấy không phải
chỉ một mà là hàng ngàn lần trong bộ gen, nên
được gọi là ADN có trình tự lặp
lại cao.
Có ít nhất 4 loại ADN kiểu nầy.
Loại thứ nhất bao gồm các bản sao
của loại trình tự ngắn nằm ở tâm
động (centromere) và ở nhánh nhiễm sắc
thể (chromosome arm), đặc biệt là ở đầu
tận cùng (telomere) (Hình 4A).
Các ADN nầy không bao giờ phiên mã, chức năng
của chúng là làm thuận lợi hơn các bước
đặc biệt trong quá trình phân chia tế bào và duy
trì sự bền vững của nhiễm sắc
thể.
Loại thứ hai có các đơn vị lặp
lại dài, nối tiếp nhau.
Những vùng này có mang gen mã hóa cho rARN nhỏ
nhất là 5S ARN (Hình 4B). Trong
một công trình nghiên cứu ở các loài ếch,
mỗi gen 5S được kết hợp với
một vùng phi chức năng gọi là gen giả
(pseudogene) và một đoạn đệm (spacer) rất
dài. Gen giả và đoạn
đệm cũng không bao giờ được phiên mã
(phần lớn các vùng này trên nhiễm sắc thể
dường như không giữ nhiệm vụ gì).
Phần lớn tế bào chân hạch có khoảng
25.000 bản sao của trình tự này.
Loại thứ ba có các trình tự của vài ngàn
baz và được tìm thấy hàng chục ngàn
lần trong các nhiễm sắc thể của
tế bào chân hạch.
Chức năng của chúng đến nay vẫn chưa
rõ (Hình 4C). Hình
4. Tổ chức
nhiễm sắc thể ở nhóm chân hạch
Loại thứ tư tương đối
ngắn (300 cặp baz) rãi rác suốt bộ gen.
Loài người có khoảng 500.000 bản sao
của trình tự này, đó là một gen nhảy
(transposon) được sinh sản và lan rộng,
hầu như không thể kiểm soát ở một
số giai đoạn trong quá trình tiến hóa, dường
như không có chức năng. c.
ADN có trình tự lặp lại trung bình Khoảng
20% bộ gen của nhóm
chân hạch có chứa ADN có trình tự lặp lại
trung bình. Mỗi trình
tự này được tìm thấy hàng trăm lần
và gồm 2 loại. Loại
thứ nhất là một trình tự lặp lại
nối tiếp của một số gen; đặc
biệt là các gen qui định 3 loại rARN được
lặp lại nối tiếp theo thứ tự rARN 18S,
rARN 6S, rARN 28S, một đoạn đệm dài, 18S, 6S,
28S, đoạn đệm dài ...
(Hình 4D ). Vì
mỗi ribô thể phải có một trong bốn
loại rARN nên khi các ribô thể được cần
đến, đoạn nhiễm sắc thể có trình
tự nầy được sao chép lặp lại (không
phụ thuộc vào các phần còn lại của
nhiễm sắc thể) tạo ra một vùng polyten
gồm 25-250 bản sao của vùng lặp lại.
Quá trình này dẫn đến kết quả là làm
tăng tổng số 25.000 bản sao của mỗi gen
trong các tế bào
hoạt động. Ðoạn
nhiễm sắc thể được sao chép lặp
lại tạo thành một cấu trúc là hạch nhân.
Loại thứ hai lạ hơn, khác biệt
rất lớn về kích thước và tần số
giữa các loài. Những
trình tự này (khoảng 5.000 loại khác nhau) chỉ dài
từ 300-3.000 baz, bằng 1/10 chiều dài của gen
chức năng. Mỗi
loại nằm rãi rác trên nhiễm sắc thể
giữa các gen chức năng ở
30-500 vị trí khác nhau ( Hình 4E ). d.
ADN sao chép đơn Mặc
dù 70% của một bộ gen nhóm chân hạch chứa các
trình tự sao chép đơn (Hình 4F ),
phần lớn ADN
nầy không bao giờ được phiên mã; hầu
hết là các gen giả. Khi
các nhà nghiên cứu tính toán số lượng các
intron được cắt bỏ sau khi phiên mã, họ
đặc biệt thấy rằng chỉ khoảng 1%
của ADN ở nhóm chân hạch mã hóa cho mARN chức năng. a.
Các kiểu hoạt động của nhiễm sắc
thể ở nhóm chân hạch Những
nghiên cứu tế bào học cho thấy cấu trúc bên
trong của một nhiễm sắc thể không đồng
nhất và sự khác biệt nầy phản ánh
hoạt động của gen.
Thí dụ một số vùng của nhiễm
sắc thể bắt màu rất nhạt với phẩm
nhuộm kiềm, trong khi những vùng khác bắt màu
đậm. Những vùng
không bắt màu được gọi là vùng đồng
nhiễm sắc chất
(euchromatin) và các vùng bắt màu là vùng dị nhiễm
sắc chất (heterochromatin).
Trong vài năm qua, bản đồ nhiễm
sắc thể đã cho thấy vùng đồng
nhiễm sắc chất mang các gen hoạt động
trong khi vùng dị nhiễm sắc chất không hoạt
động. Lúc
đầu một số nhà nghiên cứu nghĩ
rằng các vùng dị nhiễm sắc chất không mang
gen, chỉ giữ vai trò đơn giản là thành
phần cấu trúc của nhiễm sắc thể.
Ðiều nầy có lẽ đúng đối
với vùng dị nhiễm sắc chất có trình
tự các baz lặp lại cao nằm chung quanh tâm động.
Nhưng phần lớn các vùng dị nhiễm
sắc chất không thiếu gen, mà đơn giản là
các gen (thường là một dãy nhiều gen) không
hoạt động. Thí
dụ: nhiều vùng dị nhiễm sắc chất
ở sinh vật trưởng thành là vùng đồng
nhiễm sắc chất ở những giai đoạn
đầu trong quá trình phát triển.
Ngay cả trong vùng đồng nhiễm sắc
chất, chỉ vài gen cách xa nhau có thể hoạt động;
còn sự tập hợp các gen gần nhau thành operon như
ở vi khuẩn thì hiếm có ở nhóm chân hạch.
Thật vậy, trong nhiều trường hợp các
enzim có chức năng tương tự được
mã hóa bởi các gen cách xa nhau.
Các gen qui định hai chuỗi polypetid của
một protein (chẳng hạn như chuỗi ( và (
của hemoglobin) thường nằm trên các nhiễm
sắc thể khác nhau. b.
Nhiễm sắc thể chổi đèn và các chỗ phình
trên nhiễm sắc thể Ở
nhiều động vật có xương sống
các tế bào trứng đang phát triển tổng
hợp một lượng lớn mARN để sử
dụng về sau và hoạt động nầy có
thể quan sát được với một kính
hiển vi tương phản pha.
Ðoạn nhiễm sắc thể có mang các gen
được phiên mã lặp lại (các vùng đồng
nhiễm sắc) tạo thành các vòng (loop) ở hai bên
trục chính của nhiễm sắc thể trong khi
những vùng khác thắt chặc.
nhiễm sắc thể với nhiều vòng
được gọi là nhiễm sắc thể
chổi đèn (lampbrush chromosome). Các nhiễm sắc thể đa sợi (nhiễm sắc thể không lồ) ở tế bào tuyến nước bọt của ấu trùng ruồi (Diptera) được xem như là sự sắp xếp của các nhiễm sắc thể được sao chép và dính vào nhau. Ðể tạo ra một nhiễm sắc thể đa sợi cần có khoảng 10 chu kỳ sao
chép, tạo ra 1.024 bản sao của mỗi gen.
Kết quả là khả năng tổng hợp
nhanh một lượng lớn ARN.
Khi các vùng trên nhiễm sắc thể nầy
hoạt động, tất cả các phân tử ADN tương
tự thành lập các vòng ở những vùng nầy, làm
nhiễm sắc thể phình lên, có thể quan sát rõ dưới
kính hiển vi. Vị
trí của các chỗ phình trên nhiễm sắc thể
khác nhau tùy loại mô, tùy giai đoạn phát triển.
Tuy vậy ở mỗi thời điểm, các
tế bào của cùng một mô có cùng một kiểu
phình của nhiễm sắc thể. Chỗ phình là vị trí của các gen hoạt động và là nơi tổng hợp ARN tích cực. Như vậy, các chỗ phình cho thấy tác động của môi trường ngoài nhân tác động đến cách thức hoạt động của gen. Thí dụ, nếu ecdyson (loại hormon gây ra sự lột xác ở côn trùng) được tiêm vào ấu trùng của ruồi, các nhiễm sắc thể sẽ nhanh chóng biến đổi kiểu phình của chúng, giống như kiểu tiêu biểu ở thời điểm lột xác của những cá thể bình thường không xử lý hormon. Nếu việc xử lý bị ngừng, đặc điểm của các chỗ phình nầy biến mất. Nếu được xử lý lại chúng sẽ tái xuất hiện. Sự phình có thể bị ngăn cản hoàn toàn bằng cách xử lý với actinomycin (chất ức chế sự tổng hợp acid nhân). Tế
bào phân chia nhanh trong một cơ thể đang phát
triển phải có cách để duy trì kiểu nới
lỏng các vòng và hoạt động của gen tạo
cho chúng hóa tính thích hợp với loại mô của chúng.
Có những bằng chứng chắc chắn
rằng kiểu mẫu của đồng nhiễm
sắc chất và dị nhiễm sắc chất có
thể được truyền trực tiếp từ
một tế bào mẹ đến
hai tế bào con bằng một quá trình gọi là
sự in dấu (imprinting). Một
thành phần của hệ thống in dấu nầy
ở động vật có xương sống là
sự methyl hóa cytosin trong trình tự C-G ở những
gen không hoạt động.
Sự methyl hóa có thể chuyển các kiểu
hoạt động đến các tế bào con : vì
chỉ có trình tự C-G có thể bị methyl hóa
bởi enzim và vì C-G luôn luôn bắt cặp với G-C trên
một sợi khác nên kiểu methyl hóa
tồn tại trên cả hai sợi của ADN:
m
│
: :
: A : T : C : G : T : C : A :
: :
: :
: T : A : G : C : A : G : T :
: :
│
m
(Chữ m để
chỉ cytosin đã bị methyl hóa bằng cách thêm vào
một nhóm (CH3). Sự
sao chép tạo ra một cấu trúc lai ở những nơi
ADN bố mẹ bị methyl hóa
m
│
:
: : A : T :
C : G : T : C : A :
: :
sợi bố mẹ
: :
: T : A : G : C : A : G
: T : :
: sợi
mới
│
m
Một loại enzim đặc biệt là methylaz tác
dụng vào ADN có cytosin bị methyl hóa trong trình tự
C-G và methyl hóa cytosin tương ứng trên sợi
mới. Như vậy,
cách thức của sự methyl hóa (sự bất
hoạt của gen) được truyền lại nguyên
vẹn. Tuy nhiên,
nếu cả hai nhóm methyl tại một vị trí tình
cờ bị mất, hoạt động của gen
bị biến đổi
ở tế bào con. Có
bằng chứng chắc chắn rằng một số
vấn đề có liên quan đến sự lão hóa là
do sự methyl hóa mất dần theo thời gian và
từ đó dẫn tới sự hoạt hóa của
những gen không thích hợp trong tế bào.
Sự khử methyl hóa trong các giao tử có thể
truyền kiểu hoạt hóa gen sai đến thế
hệ con và ngày nay nhiều bệnh được xem là
do các sai sót trong sự in dấu nầy.
Sự
nới lỏng các vòng của nhiễm sắc thể
(yếu tố đầu tiên cần thiết cho sự
phiên mã) được
hiểu biết rất ít. Vài
chất hóa học như ecdyson có thể tạo ra
những thay đổi chính trong sự tạo vòng nhưng
chúng hoạt động như thế nào vẫn còn là
một bí mật. Tuy nhiên những kiến thức
về cơ sở của sự điều hòa gen trong
sự nới lỏng các
vòng đang phát triển nhanh chóng. Như
chúng ta đã nói, nhóm chân hạch phụ thuộc
chủ yếu vào sự kiểm soát dương tính:
sự phiên mã chỉ xảy ra khi có sự giúp đỡ
tích cực của yếu tố phiên mã để giúp
polymeraz gắn vào vùng khởi động.
Ngoài ra, nhóm chân hạch kiểm soát sự gắn
TF bằng sự chuyên biệt gen từ hai vùng khác nhau
trên nhiễm sắc thể. Vùng
kiểm soát thứ nhất là một vùng
cảm ứng (inducer region) nằm ngay phía trên trình
tự của TF (Hình 5A). Nó
bao gồm một hoặc nhiều điểm cá
biệt mà protein kiểm soát chuyên biệt có thể
gắn vào. Một vài
phân tử kiểm soát nầy giúp cho protein TF gắn vào
(Hình 5B), trong khi một số khác ngăn cản
lại.
Một vùng khác cách xa vài ngàn nucleotid nằm trên cùng
vòng. Nó là tập
hợp của các điểm gọi là
vùng tăng
cường (enhancer
region). Những
điểm nầy biểu hiện ảnh hưởng
của chúng khi vòng cuộn lại làm cho cả vùng
nầy tiếp xúc với vùng khởi động và các
điểm cảm ứng. Một
số gen tăng cường giúp gắn các protein TF, do
đó giúp cho sự gắn polymeraz, một số
trực tiếp giúp polymeraz gắn vào.
Còn một số khác thêm 1 protein gọi là yếu
tố mở đầu (initiation factor) vào phức
hệ polymeraz. (Hình 5C). Yếu
tố mở đầu tăng cường mạnh
mẽ hiệu quả của polymeraz trong sự phiên mã
(Hình 5D, E). Các chất
điều hòa khác có thể gắn vào vùng tăng cường
làm kìm hãm 1 trong các bước nầy. Hình
6. Cách nối của
một mARN ở ruồi giấm Những thảo luận của chúng ta về các cơ chế kiểm soát ở mức tế bào đã tập trung phần lớn vào sự điều hòa số lượng mARN được tổng hợp. Nhưng còn nhiều điểm khác trong dòng thông tin của tế bào, nơi sự kiểm soát có thể được thực hiện. Thí dụ: một số phiên bản sơ cấp có thể được xử lý theo nhiều cách, tạo ra các sản phẩm hơi khác nhau, tùy theo nhu cầu của tế bào. Chẳng hạn ở ruồi giấm Drosophila, cách thức nối của một mARN kiểm soát sự biểu hiện của một nhóm gen giúp cho sự phát triển thành ruồi đực hoặc ruồi cái. Hiện tượng nầy xảy ra khi phức hệ chuẩn bị để nối đầu tận cùng của exon 3 với chỗ bắt đầu của exon kế tiếp. Nếu một gen đặc biệt (transformer hay là tra) được biểu hiện đầy đủ, nó làm cho exon 4 được thêm vào nhưng lại đình chỉ sự kết hợp sau đó. Nếu sản phẩm của gen Tra không sẵn sàng, exon 4 bị bỏ qua và tất cả các exon còn lại nối lại bình thường. Chính sản phẩm tra được tạo ra
để đáp ứng các tín hiệu trong nhân,
phản ánh sự phát triển của sinh vật là con
đực hay con cái (Hình 6).
Ngay cả sau khi
nối lại, hầu như phân nửa số mARN trưởng
thành được sản xuất trong nhân của
phần lớn các tế bào không bao giờ đến
tế bào chất để giải mã.
Phải có một hệ thống có thể ngăn
chận một cách chọn lọc sự chuyển các
phân tử mARN chuyên biệt từ nhân vào tế bào
chất, có thể để đáp ứng với
những dấu hiệu hóa học phản ánh các nhu
cầu của tế bào. Ngay
cả khi mARN đến tế bào chất, nó có thể
không được giải mã.
Những chất kìm hãm gắn vào mARN trong tế bào
chất và ngăn cản chúng gắn vào ribô thể
hoặc ngăn cản sự giải mã hoàn toàn.
Cách nầy có thể làm giảm đáp ứng
của tế bào khi điều kiện thay đổi
bằng cách duy trì một số mARN sẵn sàng để
bắt đầu hoặc hoàn tất sự giải mã
khi có một tín hiệu hóa học thích hợp gắn
vào chất ức chế và làm cho nó tách rời mARN.
Trong đa số trường hợp, chất
ức chế giải mã là một protein, nhưng trong
một ít trường hợp, nó là một đoạn
của ARN có trình tự bổ sung cho mARN.
Cuối
cùng, sự biểu hiện của mARN có thể
được điều hòa bởi tốc độ
làm chất truyền tin bị phá vỡ: một số
loại mARN có thời gian tồn tại lâu trong khi
một số khác bị phá hủy chỉ trong vài phút.
Ðộ đề kháng của mARN đối
với tác dụng của ARN polymeraz được mã hóa
ở phần cuối của mARN: một trình tự
với phần lớn là adenin và uracil của mARN bị
phá hủy trước, trong khi đó trình tự
thiếu những nucleotid nầy không bị tiêu hóa.
Sự kiểm soát cũng có thể được
tiến hành sau khi giải mã: sự tồn tại
của protein (nghĩa là kháng được proteaz),
được ghi trong trình tự của bán đơn
vị và thay đổi từ vài phút đến vài ngày,
hay vài năm đối với một số protein
cấu trúc. Như chúng
ta đã thấy nhiều lần, hoạt động
của các enzim được tạo ra bởi sự
giải mã thường được điều hòa
bởi các chất hoạt hóa hoặc các chất
ức chế. Ngay
cả tập hợp của một số protein cấu
trúc (như collagen chẳng hạn) được điều
hòa bởi các tín hiệu hóa học.
Vì vậy, sự biểu hiện của một gen
trong một số trường hợp có thể
được kiểm soát từng bước từ trước
khi phiên mã đến sau khi giải mã.
Sự thất bại của hệ thống điều
khiển nầy có thể dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng, gây ra nhiều thứ
bệnh mà quan trọng nhất là ung thư (cancer). Các
nhà sinh học hy vọng học được nhiều
về cách hoạt động của hệ thống
kiểm soát ở tế bào bình thường bằng
việc nghiên cứu xem làm thế nào các hệ
thống kiểm soát trong tế bào bình thường
trở nên xáo trộn dến mức cho phép các tế bào
ung thư phát triển. Ðặc
điểm nổi bật nhất của các tế bào
ung thư là sự tăng sinh không kìm hãm, kết
quả là sự hình thành các khối u ác tính và sự
lan rộng của các tế bào nầy từ vùng ban
đầu đến các phần khác nhau của cơ
thể, một quá trình được gọi là sự
di căn (metastasis). Những
nghiên cứu các tế
bào nầy dẫn đến
cách thức ngăn ngừa hoặc xử lý ung thư
tốt hơn. Một
trong những cách thích hợp nhất trong việc nghiên
cứu tính chất của các loại tế bào đặc
biệt là nuôi cấy chúng trong phòng thí nghiệm.
Phần lớn các dòng tế bào động
vật được nuôi cấy ngừng phân chia khi chúng
trở nên đông đúc, hoặc sau một số
thế hệ sự đông đúc bị chặn
lại (số thế hệ thiì chuyên biệt cho loài và
mô). Sự
phát triển của các tế bào nuôi cấy cho
thấy có hai cơ chế ngăn cản sự phát
triển không giới hạn của tế bào trong cơ
thể. Một
là phản ứng của tế bào đối với
ảnh hưởng của sự đông đúc,
được gọi là sự
ức chế tiếp xúc (contact inhibition).
Khi các thụ thể trong màng tế bào nhận ra
các dấu hiệu trong các lớp vỏ tế bào
của các tế bào kế cận cùng loại, các
thụ thể truyền tín hiệu cho nhân và sự phân
bào bị đình chỉ. Tuy
nhiên, sự ức chế nầy không tuyệt đối:
chẳng hạn khi thêm vào các yếu tố tăng trưởng
với nồng độ cao có thể kích thích tiếp
sự phân bào ngay cả trong mẻ cấy quá đông. Cơ chế thứ hai: sự tự ngừngû phân bào sau một số lần phân chia, là một hệ thống độc lập giới hạn sự tăng sinh của tế bào; trong phần lớn các mô hệ thống này hoạt động khi sự ức chế tiếp xúc không hoạt động bình thường. Các tế bào được nuôi cấy tiếp tục phân chia mãi, rơi vào một trong hai trường hợp: hoặc bị mất hệ thống kiểm soát số lần phân chia và tiếp tục phát triển khi số lượng chúng còn ít, hoặc bị mất cả hai hệ thống kiểm soát. Các loại tế bào nầy trở nên bất tử trong môi trường nuôi cấy, trở thành các khối u lành tính (benign tumor) hoặc trở thành ung thư: chúng sẽ phân cắt không ngừng để tạo ra khối mô. Một
đặc tính của tế bào ung thư được
nuôi cấy là hầu như luôn luôn có một bộ
nhiễm sắc thể không bình thường.
Thí dụ các tế bào của một dòng ung thư
ở người gọi là HeLa có 70-80 nhiễm
sắc thể thay vì bình thường là 46.
Ðiều thú vị là các dòng tế bào không ung thư
trải qua giai đoạn khủng hoảng trong môi trường
và trở nên bất tử cũng có số nhiễm
sắc thể phụ trội, và dường như
số nhiễm sắc thể này giải phóng các
tế bào nuôi cấy vượt qua sự kìm hãm phát
triển. Tuy nhiên, trong
các mô ung thư của cơ thể, sự gia tăng
số lượng nhiễm sắc thể như thế
là không điển hình. Thay
vào đó, thường có sự sắp xếp lại
của các nhiễm sắc thể bình thường.
Thí dụ khoảng 90% bệnh nhân Burkitt(s lymphoma
(ung thư của tế bào trong hệ thống miễn
dịch) đầu của nhiễm sắc thể 8
đã được chuyển đến phần
cuối của nhiễm sắc thể 14.
Ðiểm gắn trên nhiễm sắc thể 14
gần một gen mã hóa cho một polypeptid của hệ
thống miễn dịch, trong khi vùng chuyển vị
chứa một gen thường có trong các tế bào ung
thư. 10% bệnh nhân
của bệnh nầy có các vùng chuyển vị khác trên
nhiễm sắc thể 8. Ðiều
nầy có nghĩa là vị trí này ở nhiễm
sắc thể 8 có một vùng kiểm soát có thể gây
ung thư bằng cách kích thích sự phiên mã của các
gen đặc biệt nầy. Bên
cạnh những sự khác biệt trong nhân, các tế
bào ung thư và các tế bào bình thường còn khác
biệt có ý nghĩa về hình dạng tế bào và
bản chất của bề mặt tế bào.
Thí dụ: các tế bào ung thư nuôi cấy thường
có dạng hình cầu, hình dạng này chỉ gặp
ở các tế bào bình thường trong một giai
đoạn ngắn ngay khi tế bào phân cắt.
Ðặc điểm hình dạng nầy có thể là
do số vi sợi (microfilament)
quá ít, do đó làm cho các tế bào linh động hơn
các tế bào bình thường.
Thật vậy, phần lớn các tế bào bình
thường phải bám vào một bề mặt để
phát triển vì chúng cần
giá đỡ để thực hiện những
chức năng thích hợp.
Các tế bào ung thư không bị hạn chế
bởi điều kiện nầy và vì vậy chúng có
thể phát triển trong các chất dịch hoặc trên
bề mặt mềm.
Các tế bào ung thư, với bề mặt khác
thường của chúng, không có khả năng
phản ứng thích hợp với những thay đổi
của môi trường. Ðặc
biệt các tế bào ung thư có glycolipid và glycoprotein
khác nhau và ít hơn trong lớp vỏ tế bào.
Những khác
biệt nầy có lẽ có quan hệ với việc
thiếu ức chế tiếp
xúc bình thường trong sự phân bào và sự
mất khả năng nhận biết những tế bào
trong cùng loại mô. Sự
vắng mặt ái lực tế bào bình thường có
thể là một trong những lý do vì sao các tế bào
ác tính của nhiều loại ung thư có thể lan
rộng (Hình 7). Ðể
di căn trong một cơ thể và cũng để
thoát khỏi mô hay cơ quan ban đầu của nó,
tế bào ung thư thường phải có khả năng
sản xuất và chuyển đến màng của nó
một thụ thể gọi là laminin, làm cho tế bào
ung thư gắn vào một lớp màng nền cứng
nằm dưới hoặc bao quanh mô, cơ quan và
mạch máu trong hệ tuần hoàn.
Sau đó nó phải tiết ra collagenaz để tiêu
hóa lớp màng nầy và làm cho tế bào xuyên qua ranh
giới để tạo khối u.
Ðặc biệt, khả năng phá vỡ lớp màng
bao quanh các mao mạch cho phép các tế bào ung thư lan
khắp cơ thể. Vì
phần lớn các tế bào bình thường không
thể tạo ra laminin cũng như không tiết
collagenaz nên các khối u nằm ở vị trí ban đầu
và vì vậy chúng lành tính.
Những
hiểu biết về ung thư hiện nay cho rằng
sự biến đổi một tế bào bình thường
thành một tế bào ung thư bao gồm nhiều
sự thay đổi: mất đi hệ thống
kiểm soát số lần phân bào, mất hoặc
giảm sự ức chế tiếp xúc, mất khả
năng bám và đôi khi, thay đổi bề mặt
tế bào. Nhưng trong
nhiều mô, những
thay đổi nầy cũng chỉ tạo ra các u lành
tính phát triển chậm và rồi ngừng hẳn vì các
tế bào không sản xuất tín hiệu hóa học
hoặc các tín hiệu tạo mao mạch.
Ngay cả khi có mao mạch, khối u cũng không
thể di căn nếu không có khả năng gắn và
phá hủy lớp màng nền.
Tất cả các thay đổi nầy xảy ra là
kết quả của một sự kiện di truyền
hay mỗi thay đổi là kết quả của
một hoặc nhiều sự kiện riêng rẽ? A.
Knudson (Viện nghiên cứu ung thư ở
Philadelphia) đã chỉ rõ, nếu sự phát triển
của 1 khối u ác tính
chỉ do một sự kiện di truyền
đơn độc, xác suất một cá thể
bị ung thư phải tăng tỉ lệ với
tuổi. Thí dụ
nếu xác suất bị ung thư da là 1% mỗi năm
thì cơ hội mắc bệnh phải là 2% cho người
2 tuổi, 3% cho người 3 tuổi ....
Tuy
nhiên, trong thực tế tỉ lệ bị ung thư
trong quần thể không tăng theo kiểu tuyến tính
nầy. Thay vào đó,
ung thư thường là một bệnh của tuổi
già. Knudson đã
kết luận rằng bệnh ung thư do nhiều
sự kiện di truyền độc lập.
Ðường cong sẽ là sản phẩm của các
xác suất của các sự kiện riêng rẽ.
Chắc chắn rằng một số trường
hợp ung thư (như ung
thư máu, ung thư hệ thống miễn nhiễm)
chỉ đòi hỏi 2 hoặc 3 sự kiện di
truyền, trong khi một số khác cần từ 4 đến
7. Có sự nhất trí
cao là cần 2 đến 7 mức độ kiểm soát
tham gia: số lần phân bào nhất định, ức
chế tiếp xúc, sự bám, ái lực loại mô, nhu
cầu cho các protein gắn màng, enzim tiêu hóa collagen, và
sự tạo mao mạch.
Tuy nhiên, chỉ những nghiên cứu thống kê
không thể cho chúng ta biết về thành phần
của sự kiện di truyền dẫn đến
bệnh ung thư, cũng không có nghiên cứu nào cho ta
biết hiệu quả chính xác của các sự
kiện. Những nghiên
cứu gần đây cho thấy phần lớn các bước
có dính líu trực tiếp đến sự mất
hoặc thiếu mức độ sự kiểm soát.
Những dữ liệu tốt nhất của
việc nầy đến từ các nghiên cứu trên các
gen gây ung thư.
Sự
khám phá ra gen gây ung thư có một lịch sử
phức tạp. Năm
1910 Peyton Rous (Viện Rockefeller, New York) đã tìm ra siêu
khuẩn Rous sarcoma, có thể gây ung thư ở gà.
Kết luận của Rous không được công
nhận rộng rãi trong nhiều thập kỷ.
Ngày nay chúng ta biết rằng tác nhân gây bệnh
trong trường hợp nầy là một siêu khuẩn
phiên mã ngược (siêu khuẩn phiên mã ngược),
chúng sản sinh ra một bản sao cADN từ ARN của
nó, rồi tổ hợp vào nhiễm sắc thể
của vật chủ. Một
vài chủng siêu khuẩn Rous gây ra ung thư nhanh chóng,
với tỉ lệ cao vì cADN có mang oncogen (gọi là v-src
- v là gen của siêu khuẩn).
Sự biểu hiện của gen nầy trong
nhiễm sắc thể chủ tạo ra tế bào ung
thư. Các siêu
khuẩn phiên mã ngược thông thường
(những loại không có oncogen) cũng có thể gây ung
thư, nhưng chỉ với một tỉ lệ độ
thấp và sau một giai đoạn tiềm ẩn dài.
Sự phối hợp của cADN vào bộ gen
chủ rất ngẫu nhiên và ung thư từ siêu
khuẩn phiên mã ngược bình thường chỉ
xuất hiện khi sự phối hợp xảy ra
gần một trong một số gen đặc biệt
ở nhiễm sắc thể chủ, gọi là gen
tiền ung thư (proto-oncogene).
Có lẽ vùng kiểm soát tích cực trên cADN
biến đổi sự biểu hiện của
một hoặc nhiều gen nầy.
Oncogen là những gen chắc chắn gây ra ung thư;
ngược lại, protooncogen có khả năng gây ung thư
nhưng cần một vài thay đổi để
biến chúng thành oncogen. Hình
7. Sự phát triển
của một khối u ác tính Có
lẽ khám phá đáng ngạc nhiên nhất về gen gây
ung thư v-src là nó đặc biệt giống với
một gen bình thường ở gà.
Thật vậy, gen bình thường nầy (ký
hiệu là c-src để chỉ rằng nó là của
tế bào ban đầu) là một gen tiền ung thư,
phối hợp của cADN bình thường ở
gần c-src có thể gây ung thư.
Từ năm 1970 người ta đã khám phá hơn
20 loại siêu khuẩn phiên mã ngược gây ung thư,
lây nhiễm ở chim và hữu nhủ, mỗi loại
mang một gen gây ung thư gần giống hệt
với gen tiền ung thư ở vật chủ bình thường. Những
nghiên cứu các khối u của người được
nuôi cấy và các khối u ở động vật không
do siêu khuẩn gây nên
đã cho thấy những điểm rất giống
với các tập tính được quan sát của siêu
khuẩn phiên mã ngược: một số thay đổi
di truyền làm các tế bào nuôi cấy thành các tế
bào ung thư mang các gen gây ung thư như đã
tìm thấy trong siêu khuẩn phiên mã ngược gây
ung thư. Một
số gen gây ung thư không do siêu khuẩn dường
như do đột biến ở
gen tiền ung thư làm biến đổi, làm
mất hoặc thêm vào trình tự của một baz.
Một số khác có lẽ là gen tiền ung thư
đã được di chuyển khỏi vị trí bình
thường và do đó không còn các kiểm soát bình thường
của chúng và trở thành các gen gây ung thư.
Ngược lại, đột biến lẫn
sự chuyển vị xảy ra ở một vùng
kiểm soát gần một gen tiền ung thư có
thể biến đổi một gen tiền ung thư thành
một gen gây ung thư. Sự
chuyển vị dường như bao gồm sự di
chuyển một gen cấu trúc và vùng kiểm soát
của nó đến một bên gen tiền ung thư
hoặc sự di chuyển gen tiền ung thư đến
bên gen cấu trúc và vùng kiểm soát của nó.
Cuối cùng, có các gen kháng ung thư (anti-oncogen) là
các gen mã hóa cho các protein khử hoạt tính các sản
phẩm của gen gây ung thư.
Sự bất hoạt của một gen ưcï
chế thì tương đương với sự
hoạt hóa một gen tiền ung thư. Các
cơ chế khác nhau có thể dẫn đến sự
xuất hiện của một gen gây ung thư trong
bộ gen được tóm tắt như sau:
I. Gen bị
biến đổi dẫn đến sự biến
đổi của sản phẩm
1. Sự phốiø
hợp của gen gây ung thư ở siêu khuẩn phiên
mã ngược
2. Sự đột
biến của gen tiền ung thư bình thường
tạo ra gen gây ung thư
II. Sự
biểu hiện của gen bị biến đổi,
trong đó một gen được phiên mã ở
một thời
điểm
sai hoặc với một tỉ lệ quá cao
1. cADN của siêu
khuẩn phiên mã ngược có một vùng kiểm soát
tích cực được
gắn vào gần bên
một gen tiền ung thư
2. Sự
chuyển vị gen
tiền ung thư đến một vị trí gần bên
vùng kiểm soát tích
cực.
3. Sự
chuyển vị của một vùng kiểm soát tích
cực đến một vùng gần một gen
tiền
ung thư
4. Sự đột
biến của một vùng kiểm soát gần bên gen
tiền ung thư
III. Sự
mất hoạt động của gen kháng ung thư
Nghiên cứu hiện nay cho thấy phần lớn
các gen gây ung thư mã hóa cho các sản phẩm
thuộc một trong bốn loại : (1) các yếu
tố phát triển (các phân tử tín hiệu ngoại
bào để kích thích sự tăng sinh của tế bào),
(2) các thụ thể (cho các yếu tố phát triển,
ức chế tiếp xúc, hoặc bám trên bề
mặt), (3) các hệ thống tín hiệu trong tế bào
(truyền thông tin từ thụ thể đến các
enzim nội bào hoặc các protein gắn), (4) các phân
tử ADN gắn (điều hòa sự phiên mã của các
gen đặc biệt hoặc sự sao chép trọn
bộ gen).
Bằng chứng đầu tiên liên quan đến
hoạt động của gen gây ung thư là công trình
của Raymon Erikson và Marc Collett (Ðại học Colorado) trên
gen gây ung thư src. Họ
đã phát hiện rằng enzim được mã hóa
bởi src là một loại phân tử tín hiệu
nội bào gọi là một protein kinaz.
Enzim này phosphoryl hóa tyrosin.
Tyrosin được phosphoryl hóa cũng được
tìm thấy trong các tế bào bình thường.
Tuy nhiên trong các tế bào có gen src, sự phosphoryl
hóa tyrosin tăng ít nhất 10 lần hơn mức bình
thường. Ngày nay người
ta đã biết một số gen gây ung thư khác mã hóa
cho các tyrosin- kinaz, trong khi một vài loại khác mã hóa
cho các serin kinaz.
Một số gen gây ung thư dường như mã
hóa cho các sản phẩm làm cầu nối hai bước
từ các tín hiệu ngoại bào đến gắn ADN.
Thí dụ thụ thể EGF (Epidrmal Growth
Factor-yếu tố tăng sinh biểu bì) có một thành
phần ngoại bào gắn vào EGF, và một phần
nội bào hoạt động như một kinaz.
Ít nhất có một gen gây ung thư để mã
hóa cho một enzim rất giống với phần kinaz
của thụ thể EGF được hoạt hóa nhưng
thiếu phần ngoại bào gắn vào EGF.
Sản phẩm của gen gây ung thư nầy có
thể hoạt động bằng cách tạo tín
hiệu cho tế bào phân chia liên tục, dù EGF có
hiện diện hay không. Như
chúng ta đã thấy, đột biến, chuyển
vị và siêu khuẩn phiên mã ngược đều có
vai trò trong việc khởi phát ung thư.
Chúng ta cũng biết rằng nhiều đột
biến và chuyển vị được tạo ra do các
tác nhân bên ngoài - bức xạ và
hóa chất gây đột biến.
Nhưng liên kết các hóa chất hoặc
nguồn bức xạ với ung thư ở người
và đánh giá sự nguy hiểm tương đối
của mỗi yếu tố rất khó khăn.
Không phải mỗi đột biến đều
xảy ra ở vị trí gây ung thư, và
một đột biến ở một vị trí
như thế sẽ chỉ khởi phát một trong
những bước cần thiết để phát
triển ung thư. Chúng
ta đã thấy rằng cần có từ 2 đến 7
sự kiện di truyền độc lập; bước
cuối cùng có thể xảy ra nhiều năm sau khi có
sự tiếp xúc đầu tiên với một bức
xạ hoặc một hóa chất gây đột
biến.
Sự thiếu của các mối liên hệ nhân
quả chặc chẽ giữa tác nhân gây đột
biến và ung thư đã làm cho sự nhận diện
và sự đánh giá của các tác nhân có khó khăn,
ngay cả trong những trường hợp rõ nhất.
Một cách để đánh giá khả năng gây
ung thư của các hóa chất và
bức xạ là dùng các động vật (thường
là chuột) để đo liều lượng của
các tác nhân nầy. Cách
nầy đắc tiền và tốn thời gian, thêm vào
đó ta phải giả định rằng những gì
gây ung thư trên chuột cũng tác động tương
tự trên người. Một
phương pháp khác nữa là xét nghiệm Ames: dùng vi
khuẩn và những chất có khả năng gây ung thư
để xem có sự đột biến hay không,
với giả định là một chất gây đột
biến trên E. coli là chất gây ung thư trên người.
Xét nghiệm Ames đã phát hiện ra nhiều
chất có khả năng gây ung thư.
Các thành phần của nhựa than trong các
thuốc nhuộm tóc và các mỹ phẩm, xà phòng
hexachlorophen, các hóa chất chống cháy trong quần áo
ngủ của trẻ em, protein trong thịt nướng,
khói cháy rừng, và vài hóa chất trong một số
rau cải và gia vị là một số trong các chất
được xác định có thể gây ung thư
bằng xét nghiệm Ames. |
||||||||||||||||||||||||||||