Sự trao đổi vật chất qua màng tế bào |
|
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga |
CHƯƠNG
3
SỰ
TRAO ÐỔI VẬT CHẤT QUA MÀNG TẾ BÀO
Có một lúc màng tế bào chỉ được
xem như một cái túi chứa các vật chất
hữu cơ tạo sự sống.
Thật ra màng tế bào rất khác một màng bao
thụ động, màng có vai trò quyết định
về sự chuyển động của tế bào, và
tế bào trao đổi với môi trường chung
quanh. Hơn nữa, nó
đóng vai trò căn bản điều hòa sự di
chuyển của vật chất qua màng theo yêu cầu
của tế bào, và môi trường ngoài không
thuận lợi và thường xuyên bị phá vở.
Tất cả các chất muốn vào ra tế bào
đều phải đi qua các kênh hay bơm theo một
tỉ lệ và một hướng nhất định.
Màng tế bào kiểm soát sự vào ra của các
chất bằng hai cách: bằng quá trình khuếch tán
tự nhiên và bằng những cách chuyên chở đặc
biệt. I.
KHÁI NIỆM VỀ SỰ KHUẾCH TÁN VÀ THẨM
THẤU Nhiệt
độ ảnh hưởng lên tốc độ
của những phản ứng hóa học do làm gia tăng
động năng của các phân tử tham gia.
Tưởng tượng có một cái hộp có
chứa các viên bi được gom vào một góc (Hình
1A). Khi ta lắc cái
hộp, các viên bi sẽ bị phân tán về khắp nơi
của đáy hộp (Hình 1B).
Có thể hình dung các viên bi là những phân
tử, lắc là thêm vào động hay nhiệt năng.
Sự lắc làm phân tán các hòn bi tương
tự sự di chuyển của các hạt vật
chất nào đó đi từ vùng có nồng độ
cao đến vùng có nồng độ thấp hơn
của vật chất đó, kết quả là những
hạt vật chất có xu hướng phân phối cách
đều nhau trong một khoảng không gian nhất
định. Khi mật
độ gần như đồng đều, hệ
thống được cân bằng nhưng các hạt
vẫn tiếp tục chuyển động, nhưng có
sự thay đổi nhỏ trong hệ thống.
A
B Hình
1. Mô hình cơ học
của sự khuếch tán
Sự chuyển động của các hạt
với kích thước phân tử từ nơi này
đến nơi khác theo cách trên được
gọi là sự khuếch tán.
Chất khí khuếch tán nhanh nhất, rồi đến
chất lỏng và cuối cùng là chất rắn.
Trong một cơ thể sống, các phân tử thường
ở trong dung dịch lỏng, ấm và khoảng cách
của phân tử được đo bằng những
phân số của milimet nên sự
khuếch tán là một quá trình rất quan
trọng; một acid amin hay một nucleotid trong môi trường
lỏng sẽ khuếch tán chừng bằng đường
kính của một tế bào (10 - 50 (m) ít hơn 0,5 giây. Trên
đây là sự khuếch tán theo khuynh độ
nồng độ. Tuy
nhiên, trong cơ thể sinh vật, sự khuếch tán
không đơn thuần là do nồng độ mà còn tùy
thuộc vào các điều kiện ít khi ổn định
nơi mà các quá trình sống diễn ra.
Ðiều này cần thiết để hiểu
được sự khuếch tán theo nghĩa năng lượng
tự do của các phân tử tham gia.
Năng lượng tự do (free energy) là năng lượng
trong một hệ thống có thể dùng để
thực hiện một hoạt động nào đó dưới
một điều kiện nhiệt độ và áp
suất nhất định.
Năng lượng tự do được
chứa trong các cầu nối cộng hóa trị
của đường như glucoz, hay một điện
tử được hoạt hóa bởi năng lượng
ánh sáng mặt trời lên một qũy đạo cao hơn,
hay trong vành đai bao quanh nhân của nguyên tử trong
phản ứng hạt nhân.
Sự khuếch tán xảy ra một cách tự phát
vì những phân tử sắp xếp có trật tự và
có nồng độ cao có năng lượng tự do
cao hơn những phân tử phân tán.
Một hổn hợp (hay sản phẩm) có năng
lượng tự do thấp hơn các chất riêng
rẻ ban đầu (hay chất phản ứng).
Tốc độ khuếch tán của hai chất
nhanh nhất vào lúc bắt đầu phản ứng và
chậm dần khi hổn hợp tới mức cân
bằng hoàn toàn. Nếu
có thể quan sát sự khuếch tán ở mức độ
phân tử thì khi cho các viên đường vào cà phê,
lúc đầu các phân tử đường sẽ
khuếch tán trong cà phê, sau đó khi các chất
được trộn đều hơn, phản
ứng ngược lại sẽ bắt đầu tăng
cho đến khi cân bằng; nhưng do năng lượng
tự do của phản ứng sau thấp hơn nên
phản ứng được biểu diễn như
sau:
Thật vậy, sự khuếch tán là một
phản ứng hóa học với năng lượng
tự do riêng của nó và nó tùy thuộc vào tính
chất của vật chất khuếch tán.
Năng
lượng tự do là cơ sở
có thể ứng dụng rộng rải hơn
khuynh dộ nồng độ để hiểu sự
khuếch tán. Khuynh
độ nồng độ một hướng và khuynh
độ nhiệt độ theo chiều ngược
lại. Hiệu quả
trái ngược của hai khuynh độ tạo ra
chuyển động thực của phân tử hoàn toàn
tùy thuộc vào năng lượng tự do của hai
khuynh độ từ nơi có nhiệt độ cao
sang nơi có nồng độ cao.
Trong hình 3.2, có hai bình cầu thông nhau, bên Y
với Hình
2. Ða khuynh độ và
năng lượng tự do
nồng độ cao hơn bên Z, nhưng nhiệt
độ bên Z cao hơn nhiều so với bên Y.
Nếu chỉ có nồng độ là quan
trọng, sự khuếch tán sẽ từ Y sang Z.
Nhưng nhiệt độ cao làm gia tăng động
nhiệt của các phần tử trong hệ thống, và
động nhiệt càng tăng, năng lượng
tự do càng tăng. Do
sự khác biệt về năng lượng tự do
kết hợp với khuynh độ nhiệt độ
từ Z sang Y lớn hơn sự khác biệt về năng
lượng tự do với khuynh độ nồng
độ từ Y sang Z nên sự khuếch tán sẽ
từ Z sang Y. Trong
hình 3 dùng một ống hình chữ U, đáy được
ngăn cách bằng một màng
thấm chọn lọc (differentially/selectively permeable), màng
này chỉ cho các phân tử nước đi qua.
Giả sử bên A chỉ chứa nước và bên
B chứa dung dịch đường, cả hai ở cùng
một điều kiện nhiệt độ và áp
suất. Nếu màng
chỉ cho nước đi qua mà không cho các phân tử
đường đi qua thì các phân tử nước
sẽ qua lại được cả hai chiều.
Ðầu tiên lượng chất lỏng ở hai bên
tương đương nhau (hình bên trái), hình
giữa số lượng các phân tử nước va
chạm vào màng phía bên A nhiều hơn phía bên B, hình
bên phải vì số phân tử dịch chuyển từ
A sang B nhiều hơn từ B sang A nên mực chất
lỏng bên A tụt xuống trong khi bên B tăng lên.
Hình
3. Thi nghiệm mô
tả sự thẩm thấu
Sự di chuyển của một dung môi (thường
là nước) xuyên qua một màng thấm chọn
lọc được gọi là sự thẩm thấu.
Màng sinh học cũng là một màng thấm
chọn lọc nên sự di chuyển qua lại của nước
cũng theo kiểu thẩm thấu.
Một số chất hòa tan, như các phân tử
nhỏ tan trong lipid cũng đi xuyên qua màng sinh học.
Ðầu tiên theo sự khuếch tán nước
sẽ đi từ bên A qua bên B, vì nước tinh
khiết có năng lượng tự do cao hơn nước
trong dung dịch đường.
Năng lượng tự do của các phân tử
nước bị giảm đi khi có sự hiện
diện của những chất thẩm thấu tích
cực (osmotically active substance) như các hạt hòa tan
hay các hạt keo lơ lững.
Trong ống hình chữ U sự
giảm năng lượng tự do của phân
tử nước tỉ lệ với nồng độ
thẩm thấu (osmotic concentration).
Nguyên nhân của sự giảm này là do các
hạt thẩm thấu tích cực làm mất trật
tự sắp xếp của các phân tử nước.
Do đó nước sẽ đi từ nơi có
nồng độ cao sang nơi có nồng độ
thấp hơn. Nồng
độ thẩm thấu của một dung dịch là
số lượng của
những hạt thẩm thấu tích cực trên một
đơn vị thể tích dung dịch.
Sau một thời gian mực chất lỏng bên B
sẽ cao hơn trong A. Trong
điều kiện bình thường mực nước
này sẽ dâng lên đến một mức nào đó thì
dừng lại, lúc này cột chất lỏng có xu hướng
bị kéo xuống do trọng lực, do áp suất
thủy tỉnh (hydrostatic pressure).
Khi áp suất này tăng, năng lượng
tự do của nước trong dung dịch đường
cũng gia tăng vì áp suất cũng là một
dạng của năng lượng tự do, kết
quả là nước sẽ di chuyển từ B qua A
nhanh hơn từ A qua B. Khi
nước đi qua màng theo hai hướng ngược
nhau với cùng một tốc độ, hệ thống
ở trạng thái cân bằng động với bên A có
năng lượng tự do là tiềm năng thẩm
thấu của nước tinh khiết và bên B có
tiềm năng thẩm thấu và áp suất thủy
tỉnh. II.
SỰ THẨM THẤU VÀ
MÀNG TẾ BÀO
Màng tế bào cũng là một màng thấm
chọn lọc, các quá trình khuếch tán và thẩm
thấu là nền tảng cho sự sống của
tế bào. Tính thấm của màng thay đổi
rất lớn tùy theo loại tế bào.
Thí dụ màng của tế bào hồng cầu có
tính thấm đối với nước cao hơn trăm
lần so với màng của Amoeba, một sinh vật
đơn bào. Mỗi
dung dịch đều có một năng lượng
tự do nhất định, dưới một điều
kiện nhiệt độ và áp suất nhất định,
năng lượng này có thể đo được và
được gọi là tiềm năng thẩm
thấu (osmotic potential). Nước
tinh khiết có tiềm năng thẩm thấu bằng
không. Vì tiềm năng
thẩm thấu giảm khi nồng độ thẩm
thấu tăng nên các dung dịch có tiềm năng
nhỏ hơn không. Nước
sẽ di chuyển từ vùng có tiềm năng thẩm
thấu cao sang vùng có tiềm năng thẩm thấu
thấp hơn. Tuy nhiên, để dễ hình dung, khái niệm áp suất thẩm thấu (osmotic pressure) thường được sử dụng nhiều hơn. Aïp suất thẩm thấu của một dung dịch là giá trị để chỉ lượng nước có xu hướng đi vào trong dung dịch bởi sự thẩm thấu. Do đó dưới một điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định, nước sẽ di chuyển từ dung dịch có áp suất thẩm thấu thấp sang dung dịch có áp suất thẩm thấu cao khi hai dung dịch được ngăn cách bởi một màng thấm chọn lọc. Trong
dung dịch đẳng trương
Dung dịch ưu trương
Dung dịch nhược trương Hình
4. Tế bào hồng
cầu trong các dung dịch khác nhau Tính
thấm chọn lọc của màng tế bào giúp cho
tế bào giữ được các đại phân
tử tổng hợp được.
Mặt khác, nước có thể thẩm thấu
qua màng tế bào, do đó khi đặt tế bào vào
một dung dịch ưu trương (hypertonic), là dung
dịch có nồng độ của các hạt thẩm
thấu tích cực cao; tế bào sẽ bị co lại
(Hình 4). Nếu để
quá lâu tế bào sẽ chết.
Ngược lại, nếu đặt tế bào
trong dung dịch nhược trương (hypotonic), là môi
trường chứa nhiều nước và có ít các
hạt thẩm thấu tích cực, nước sẽ
thấm thấu vào làm tế bào phồng lên và có
thể vỡ ra trừ khi tế bào có một cơ
chế nào đó có thể trục xuất nước
ra khỏi tế bào hay có một cấu trúc đặc
biệt ngăn cản sự trương phồng (như
ở hầu hết tế bào thực vật).
Tế bào ở trong môi trường đẳng trương
(isotonic), là môi trường có sự cân bằng về
thẩm thấu với tế bào, vì chúng có chứa cùng
một nồng độ các hạt thẩm thấu tích
cực, khi đó không có sự khác biệt về lượng
nước đi vào và đi ra khỏi tế bào.
Thật vậy, sự liên hệ về thẩm
thấu giữa tế bào và môi trường chung quanh là
một yếu tố quyết định đến
đời sống của tế bào.
Các tế bào sống trong môi trường đẳng
trương thì sự thẩm thấu không là vấn
đề nghiêm trọng như các tế bào hồng
cầu sống trong môi trường huyết tương
(blood plasma). Nhưng
ở một số thực vật và động
vật sống trong các đại dương cũng
có nồng độ thẩm thấu gần như
bằng với nước biển.
Các sinh vật sống trong môi trường nước
ngọt thì thường tích tụ nhiều nước
trong tế bào do đó phải có cách để
thải bỏ hoặc có các cấu trúc giúp cho nó không
bị trương phồng lên.
Thật ra sự di chuyển của nước
chỉ là một vấn đề.
Màng tế bào còn phải kiểm soát sự trao
đổi qua màng rất nhiều vật chất khác
nhau, do đó phải cần rất nhiều cơ
chế để vận chuyển khác nhau. III. SỰ VẬN CHUYỂN VẬT CHẤT QUA MÀNG TẾ BÀO
a.
Khuếch tán đơn giản Một
chất khuếch tán sẽ khuếch tán từ nơi có
nồng độ cao đến nơi có nồng độ
thấp hơn. Cách
khuếch tán này chỉ tùy thuộc vào khuynh độ
nồng độ, cũng như không cần có sự
tham gia của một tác nhân nào khác.
Khuếch tán là một quá trình tự phát vì nó làm
giảm năng lượng tự do và sự khuếch
tán của một chất chỉ tùy thuộc vào khuynh
độ nồng độ của chính nó và không
bị ảnh hưởng bởi khuynh độ
nồng độ của những chất khác (Hình 5). Hình
5. Mô hình của sự
khuếch tán đơn giản Một
trong những thí dụ quan trọng là sự hấp thu
oxy của những tế bào đang thực hiện
chức năng hô hấp. Oxy
hòa tan khuếch tán vào trong tế bào qua màng tế bào,
vì sự hô hấp tiêu thụ oxy do đó sự
khuếch tán oxy vào tế bào sẽ liên tục vì khuynh
độ nồng độ cho phép sự di chuyển
theo hướng đi vào trong tế bào.
Sự khuếch tán của một chất qua màng
tế bào được gọi là sự vận
chuyển thụ động
bởi vì tế bào không tiêu tốn năng lượng
cho quá trình này. Trong quá
trình di chuyển các phân tử hòa tan không bị
biến đổi hóa học cũng không kết
hợp với một loại phân tử nào khác.
Tuy nhiên, do màng tế bào là màng thấm chọn
lọc nên tốc độ khuếch tán biến thiên
theo các loại phân tử khác nhau.
Vận tốc tùy thuộc vào sự chênh lệch
của khuynh độ nồng độ và tùy thuộc
vào vận tốc khuếch tán qua vùng kỵ nước
của lớp lipid kép. Nước
là phân tử khuếch tán một cách tự do xuyên qua
màng, đây là một yếu tố rất thuận
lợi đối với đời sống của
tế bào, ngoài ra có một số chất cũng
được khuếch tán qua màng theo như cách trên
như những phần tử không phân cực như O2,
N2 và những chất hòa tan trong lipid, còn những
chất phân cực nhưng có kích thước nhỏ
như glycerol có thể đi qua màng phospholipid giữa các
phân tử này. b.
Khuếch tán có trợ lực (facilitated diffusion) Nhiều
phân tử phân cực và các ion không thể khuếch tán
qua màng phospholipid, khi đó phải có sự trợ
lực của những protein vận chuyển trên màng,
hiện tượng này được gọi là sự
khuếch tán có trợ lực.
Một
protein vận chuyển có nhiều đặc điểm
của một enzim. Vì
có đặc điểm của một enzim nên chuyên
biệt đối với cơ chất của nó,
một protein màng thì chuyên biệt đối với
một chất mà nó vận chuyển và có những
điểm gắn đặc biệt tương tự
như hoạt điểm của một enzim.
Giống enzim, protein vận chuyển có thể
bị bảo hòa
khi vận tốc vận chuyển đạt tới Hình
6. Mô hình sự
khuếch tán có trợ lực
mức tối đa mà nó có thể thực
hiện. Protein vận
chuyển cũng có thể bị ức chế bởi
những phân tử giống như cơ chất
cạnh tranh và gắn vào protein vận chuyển. Tuy
nhiên, không giống enzim, protein vận chuyển không xúc
tác các phản ứng hóa học.
Chức năng của nó là xúc tác cho một quá
trình vật lý giúp sự vận chuyển được
nhanh chóng. Trong
nhiều trường hợp protein kênh có thể thay
đổi hình dạng đôi chút, chuyển vị
điểm gắn các chất từ phía này sang phía khác
của màng (Hình 3.6). Sự
thay đổi hình dạng có tác dụng như một
lực đẩy để phóng thích chất được
vận chuyển. Một
kiểu protein vận chuyển khác chỉ là một cái
kênh đơn giản, cho phép đúng chất nào đó
đi qua mà thôi. Một
số protein hoạt động như một kênh đóng
mở. Các kích thích hóa
học hay điện sẽ làm mở các cổng này.
Thí dụ, sự kích thích của tế bào
thần kinh, làm mở cổng của kênh để
trợ lực cho sự khuếch tán của ion Na+ vào
trong tế bào. Ở
một số bệnh di truyền, các hệ thống
vận chuyển đặc biệt có thể thiếu
hay không có. Thí dụ,
như bệnh cystinuria, một bệnh của người
là do sự vắng mặt của protein vận
chuyển cystein và những acid amin khác xuyên qua màng
tế bào thận. Tế
bào thận thường tái hấp thu những acid amin này
từ urin và đưa trở vào máu, những người
mắc bệnh trên bị đau đớn vì những
hòn sỏi do từ những acid amin tích tụ và
kết tinh trong thận. Tuy có sự trợ lực của các protein vận chuyển, sự khuếch tán có trợ lực vẫn là sự vận chuyển thụ động vì các chất vẫn đi theo chiều của khuynh độ nồng độ. Tốc độ khuếch tán tùy thuộc vào cơ chế vận chuyển của các protein kênh nhưng không làm thay đổi chiều di chuyển của các chất được vận chuyển. Hình
7. Mô hình sự vận
chuyển tích cực hai chất vào và ra khỏi màng Một
số protein có thể chuyển các chất đi ngược
lại khuynh độ nồng độ của chất
đó, xuyên qua màng tế bào một chất từ nơi
có nồng độ thấp đi đến nơi có
nồng độ cao. Sự
vận chuyển này tương tự như sự lên
dốc. Ðể bơm các
chất đi ngược lại chiều của xu hướng
khuếch tán theo khuynh độ nồng độ nên
tế bào phải sử dụng năng lượng, vì
thế sự vận chuyển theo cách này được
gọi là sự vận chuyển tích cực
(Hình 7).
Sự vận chuyển tích cực là một
khả năng quan trọng của tế bào để
giữ lại trong
tế bào một chất nào đó ở một
nồng độ rất khác với nồng độ
của chúng trong môi trường chung quanh. Thí dụ,
nếu so sánh với môi trường chung quanh, một
tế bào động vật có thể chứa một
nồng độ rất cao của ion K+ và rất
thấp ion Na+. Mức
khuynh độ này vẫn giữ được là
nhờ các bơm trên màng và ATP cung cấp năng lượng.
ATP
có thể tham gia vào sự vận chuyển bằng cách
chuyển một gốc phosphat cuối cùng vào protein
vận chuyển. Sự
gắn gốc phosphat này gây ra một cảm ứng làm
cho protein vận chuyển thay đổi hình dạng theo
kiểu chuyển vị nơi gắn vào của các
chất. Bơm ion Na+-
ion K+ là một thí dụ về sự trao đổi ion
Na+ và ion K+ xuyên qua màng tế bào động vật (Hình
11).
Một bơm sinh ra được một hiệu
điện thế xuyên màng được gọi là bơm
sinh điện (electrogenic
pump). Bơm Na - K là bơm
sinh điện chính của tế bào động
vật. Ở
thực vật, vi khuẩn và nấm bơm sinh điện
là bơm proton, chuyển ion H+ ra khỏi tế bào.
Bơm proton vận chuyển điện tích dương
từ tế bào chất ra môi trường ngoài tế
bào (Hình 8).
Hình 8. Bơm sinh
điện
Hình 9. Mô hình
sự đồng vận chuyển
Một loại protein vận chuyển không phải
là bơm có thể kết hợp sự khuếch tán
của một chất để vận chuyển
một chất đi ngược với khuynh độ
nồng độ của nó.
Thí dụ, tế
bào thực vật dùng khuynh độ của ion H+
được sinh ra bởi bơm proton của nó để
vận chuyển tích cực acid amin, đường và
vài chất dinh dưỡng khác vào trong tế bào (Hình9).
Những protein này có thể chuyển sucroz vào trong
tế bào ngược với khuynh độ nồng
độ, nếu nó kết hợp được
với ion H+ , ion H+ vận chuyển theo kiểu
khuếch tán theo khuynh độ nồng độ đã
được bơm ra nhờ bơm proton.
Thực vật dùng cách này để tải sucroz
được tạo ra bởi sự quang tổng
hợp đi vào trong những tế bào của gân lá,
sau đó đường có thể được đem
đến mô libe để vận chuyển đến
các mô không quang hợp được như rễ. IV.
NGOẠI XUẤT BÀO (exocytosis) Ðối
với các đại phân tử như protein và
polysaccharid, sự di chuyển qua màng theo một cơ
chế khác. Sự
thải ra các đại phân tử qua màng tế bào
được gọi là sự ngoại xuất bào.
Các túi chuyên chở được tách ra từ
hệ Golgi được mang đến màng tế bào
nhờ cytoskeleton. Khi màng
của các túi chuyên chở và màng tế bào tiếp xúc
nhau, các phân tử lipid của màng đôi lipid sắp
xếp lại. Sau đó
hai màng phối hợp lại và trở nên liên tục
và nội dung được chuyên chở trong túi
được thải ra ngoài (Hình 10).
Nhiều
tế bào tiết dùng cách ngoại xuất bào này để
thải các sản phẩm của chúng. Thí dụ,
một số tế bào trong tụy tạng tiết ra
hormone insulin và đưa chúng vào máu bằng sự
ngoại xuất bào này. Các
tế bào thần kinh dùng cách ngoại xuất bào để
kích thích tế bào thần kinh khác hay tế bào cơ
(Hình 11). Khi tế bào
thực vật tạo vách, các carbohydrate từ các túi
chuyên chở từ Golgi được đưa ra
ngoài màng tế bào cũng bằng cách này.
Hình
10. Ngoại xuất bào
Hình 11. Sự
tiếp nhận tín hiệu ở synaps Nội nhập bào là cách tế bào bắt lấy các đại phân tử hay các vật liệu bằng cách tạo ra các túi từ màng tế bào. Có ba cách nội nhập bào: ẩm bào (pinocytosis), nội nhập bào qua trung gian của thụ thể và thực bào (phagocytosis).
Trong
sự ẩm bào, tế bào hớp từng ngụm
nhỏ dịch lỏng bên ngoài tế bào trong từng túi
nhỏ (Hình 12). Vì các
chất phần lớn được hòa tan trong các
giọt được đưa vào trong tế bào nên
sự ẩm bào là một kiểu vận chuyển không
chuyên biệt. Hình 12. Ẫm bào Sự
nội nhập bào có sự tham gia của các thụ
thể rất chuyên biệt (Hình 13).
Gắn trên màng là những thụ thể với
vị trí tiếp nhận chuyên biệt lộ ra phía ngoài
của màng. Chất bên
ngoài tế bào gắn vào thụ thể được
gọi là ligand (một từ chung để chỉ phân
tử đặc biệt gắn vào điểm tiếp
nhận của một phân tử khác, từ tiếng
Latin ligare có nghĩa là to bind: gắn).
Protein tiếp nhận thường tập họp
trên một vùng của màng, tạo ra một cái lỏm
(pit) có một lớp áo protein bao bọc (coat protein).
Thí dụ, tế bào ở người dùng cách
vận chuyển này để nhận cholesterol để
tổng hợp màng hay dùng để tổng hợp ra các
steroid khác. Cholesterol
ở trong máu dưới dạng những hạt
nhỏ được gọi là low-density lipoprotein (LDL),
một phức hợp của lipid và protein, như
vậy ligand ở đây là LDL.
Phức hợp LDL gồm khoảng 2.000 phân tử
cholesterol kết hợp với một protein, protein này
được gọi là apoprotein.
Những hạt nhỏ này gắn vào thụ
thể trên màng và sau đó đi vào bên trong tế bào
bằng sự nội nhập bào.
Ở người có một bệnh tên là familial
hypercholesterolemia là một bệnh di truyền, với
đặc điểm là có nồng độ cholesterol
trong máu cao, là do không có thụ thể để
tiếp nhận LDL nên cholesterol không vào tế bào
được. Cholesterol
tích tụ trong máu, tạo ra hiện tượng mỡ
trong máu (và khi tích tụ nhiều làm xơ cứng thành
động mạch). Trong sự thực bào, tế bào tạo ra giả túc (pseudopodia) để bao lấy vật liệu là những mảnh vật chất to hay những vi sinh vật hình thành một cái túi (Hình 14). Sự thực bào chỉ xảy ra khi protein thụ thể trên màng gắn với vật liệu phù hợp giống như việc gắn cơ chất với enzim. Ở động vật có xương sống sự thực bào thường gặp ở những tế bào bạch cầu (leucocyte) để tiêu hóa các mảnh vụn lớn hay những vi sinh vật.
Hình 13. Nội nhập bào qua trung gian của thụ thể Hình 14. Thực bào
|