Tổ chức cơ thể của thực vật bậc cao và sự thích nghi |
Gs. Bùi Tấn Anh - Võ Văn Bé - Phạm Thị Nga |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sinh học cơ thể thực vậtCHƯƠNG
1
TỔ
CHỨC CƠ THỂ CỦA THỰC VẬT BẬC CAO VÀ
SỰ THÍCH NGHI Cơ
thể của hầu hết sinh vật đa bào
được tổ chức thành mô (tissue), cơ quan
(organ) và hệ cơ quan (system).
Mô gồm nhiều tế bào giống nhau về
cấu trúc và chức năng và được liên
kết lại với nhau. Cơ
quan bao gồm nhiều mô khác nhau, liên kết lại
để hình thành một Ðơn vị cấu trúc và
chức năng. Tương
tự, một hệ gồm một số các cơ quan
phối hợp lại là một phức hệ chức
năng trong đời sống của sinh vật. Sự
phân loại mô của thực vật thay đổi tùy
theo các nhà thực vật học dựa trên đặc
điểm tế bào thực vật.
Có nhiều dạng trung gian giữa các loại
tế bào khác nhau và ngay cả một tế bào có
thể thay đổi từ loại này sang loại khác
trong quá trình sống của nó.
Do đó các loại mô khác nhau được
tạo ra từ các tế bào trên có cùng đặc
điểm cấu trúc và chức năng.
Mô thực vật có thể đơn giản
nếu chỉ gồm một loại tế bào, hay
phức tạp nếu chứa nhiều loại tế bào.
Tóm lại, sự phân loại mô thực vật không
thể chỉ căn cứ vào một đặc điểm
về cấu trúc, chức năng, vị trí hay
nguồn gốc xuất xứ.
Mô
thực vật có thể được chia làm hai
loại: mô phân sinh (meristematic tissue) và mô chuyên hóa hay mô
vĩnh viễn (permanent tissue). Mô phân sinh gồm những tế bào còn non, phân cắt tích cực để tạo ra những tế bào mới. Mô phân sinh có ở nơi có sự tăng trưởng mạnh như ở ngọn rễ và ngọn thân, ở vỏ cây, ở giữa phần vỏ và gỗ. Những tế bào được sinh ra từ mô phân sinh lớn lên và chuyên hóa thành mô trưởng thành vĩnh viễn thường vẫn giữ đặc điểm về cấu trúc và chức năng trong suốt đời sống của chúng và không phân chia nữa. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa mô phân sinh và mô chuyên hóa không hoàn toàn tuyệt đối. Một số mô chuyên hóa có thể trở lại hoạt động phân sinh trong một số điều kiện nào đó.
Mô
phân sinh bao gồm những tế bào phôi có khả năng
phân cắt. Sự phân
cắt tế bào xảy ra trong khắp phôi còn non, nhưng
khi cây phát triển, nhiều vùng trở nên chuyên hóa
để thực hiện các chức năng khác nhau và
ngừng phân cắt. Kết
quả là sự phân cắt tế bào chỉ còn
diễn ra ở một số vùng nhất định
được gọi là vùng phân sinh (meristems).
Tùy theo vị trí có thể chia làm mô phân sinh
ngọn (apical meristems) và mô
phân sinh bên (lateral meristems) (Hình 1). a.
Mô phân sinh ngọn Trong
suốt đời sống của cây, những vùng mô
phân sinh luôn luôn có ở đầu rễ và đầu
thân. Mô phân sinh
ngọn tạo ra tế bào mới giúp cho cây tăng trưởng
theo chiều dài. Mô
được tạo ra bởi mô phân sinh ngọn
gọi là mô sơ cấp (primary tissues).
Ở các cây họ Hòa bản (Poaceae) còn có thêm mô
phân sinh lóng. b.
Mô phân sinh bên
Ở nhiều cây, có những vùng mô phân sinh vòng
quanh ngoại vi của rễ và thân,
chúng có thể nằm giữa gỗ và vỏ của cây
và ngay trong vùng vỏ. Mô
phân sinh bên hay tượng tầng.
Tượng tầng phân cắt bằng cách ngăn
vách theo mặt ngoài và mặt trong tạo ra những
tế bào sẽ chuyên hóa thành hai loại mô khác nhau
ở hai mặt của tượng tầng.
Có hai loại tượng tầng: tượng
tầng libe gỗ nằm giữa gỗ và libe sơ
cấp, tạo ra libe thứ cấp ở ngoài và gỗ
thứ cấp ở trong; tượng tầng sube nhu bì
ở vùng vỏ, tạo ra sube ở ngoài và nhu bì ở
trong. Tượng
tầng chỉ hiện diện ở cây Song tử
diệp. Tượng
tầng giúp cho cây tăng trưởng theo đường
kính và tạo ra mô thứ cấp (secondary tissues). Mô
chuyên hóa có thể được chia làm ba loại: mô
che chở (surface tissue), mô
căn bản (fundamental tissue) và mô dẫn truyền
(vascular tissue). Mỗi
loại mô có thể chứa vài loại mô khác nhau. a.
Mô che chở Mô
che chở nằm ở bề mặt ngoài để
bảo vệ cho cây. Ở
những cây còn non hay các cây cỏ trưởng thành, mô
che chở ở rễ, thân, lá là biểu bì (epidermis).
Tế bào biểu bì ở những phần
tiếp xúc với không khí của cây thường
tiết ra chất cutin, là một loại chất béo tương
tự như sáp không thấm nước tạo thành
lớp cutin (cuticle) trên mặt ngoài của chúng. Lớp
này và phần vách ngoài dày của biểu bì giúp
bảo vệ cây, chống lại sự mất nước,
các tổn thương cơ học và sự xâm
nhập của nấm ký sinh. Biểu
bì làm thành một hàng rào chắn nhờ hình dạng
không đều và gắn khít vào nhau giữa các tế
bào mà không tạo ra khoảng trống giữa các
tế bào. Thường
biểu bì chỉ là một lớp tế bào, đôi
khi có thể dày hơn như ở một số cây
sống ở vùng quá khô phải chống lại sự
mất nước.
Một số tế bào biểu bì có thể
biến dạng làm thành những cấu trúc lông để
bảo vệ cây chống lại côn trùng.
Một số tế bào biểu bì, đặc
biệt ở lá, chuyên hóa thành tế bào khẩu (guard
cells) để điều tiết kích thước
của khí khẩu (stomata); khí khẩu là những
lỗ nhỏ trên biểu bì nơi các khí có thể
đi ra hay đi vào các mô bên trong của lá (Hình 2). Tế
bào biểu bì của rễ không có lớp cutin và làm
nhiệm vụ hấp thu nước được
gọi là căn bì, thường mang lông hút (root hairs) làm
tăng rất nhiều bề mặt hấp thu của
rễ. Mỗi lông hút
là một tế bào căn bì mọc dài và len lỏi
giữa các khoảng trống trong đất, có
chứa nước hoặc khí (Hình 3).
b.
Mô căn bản Hầu
hết những mô căn bản là mô đơn
giản, thường chỉ gồm một loại
tế bào. Các
loại mô này cũng được tìm thấy trong các
mô phức tạp như mô gỗ và mô libe.
Mô căn bản gồm ba loại chính: nhu mô, giao
mô và cương mô. * Nhu mô (parenchyma) hiện diện ở hầu hết các phần của cây: hoa, trái, rễ, thân, lá... Tế bào nhu mô được sinh ra từ mô phân sinh ngọn và mô phân sinh bên, vì vậy nhu mô có thể là mô sơ cấp hay thứ cấp tùy theo nguồn gốc. Những tế bào này chưa chuyên hóa, chúng không mất khả năng phân cắt và trong một số trường hợp chúng có thể hoạt động như mô phân sinh. Ðôi khi chúng chịu sự chuyên hóa tiếp theo để tạo ra các loại tế bào khác. Tế bào nhu mô là những tế bào sống lúc trưởng thành chỉ có vách sơ cấp và không có vách thứ cấp. Giữa các tế bào thường có nhiều khoảng trống. Nhu mô ở lá là lục mô nơi xảy ra sự quang hợp. Nhu mô của rễ và thân có chức năng dự trử chất dinh dưỡng và nước. *
Giao mô (collenchyma; coll: keo) là một loại mô sơ
cấp đơn giản có vai
trò quan trọng trong sự nâng đỡ cho
những thân non và lá. Giống
như tế bào nhu mô, tế bào giao mô là những
tế bào sống gần như suốt thời gian chúng
hiện diện trong cây. Giao
mô có cấu tạo tương tự nhu mô nhưng
tế bào dài hơn và có vách sơ cấp dày không
đồng đều. Chỗ
dày nhất thường ở các góc của tế bào,
đây là đặc điểm của mô làìm
nhiệm vụ nâng đỡ (Hình 5).
* Cương mô (sclerenchyma; scler: cứng) là một
loại mô căn bản đơn giản, tương
tự giao mô, làm nhiệm vụ chống đỡ.
Ðặc điểm của tế bào cương mô
là có vách thứ cấp rất dày, thường
chiếm gần hết xoang tế bào.
Không giống giao mô và nhu mô, cương mô là
những tế bào chết khi trưởng thành.
Tế bào của cương mô được
tạo ra từ mô phân sinh ngọn và mô phân sinh bên nên
nó là mô sơ cấp hoặc thứ cấp, nhưng thường
là mô thứ cấp hơn (Hình 6).
Cương mô thường được chia làm
hai loại: sợi (fiber) và cương bào (sclereid).
Sợi là những tế bào dài, vách dày và thon
dần ở hai đầu. Sợi
cứng, chắc nhưng dai.
Sợi đai thường dùng là lấy từ
sợi cương mô của các cây Lanh, cây Gai... Cương
bào là những tế bào ngắn, hình dạng không
đều, được gọi là tế bào đá;
chúng thường có trong quả bì, bì của hột và
ở rải rác trong phần thịt của những trái
cứng như Ôøi, Lê... c.
Mô dẫn truyền Mô
dẫn truyền là đặc điểm của
thực vật có mạch, giúp chúng xâm chiếm
được môi trường đất liền.
Mô dẫn truyền gồm những tế bào hình
ống, dẫn truyền nước và các chất hòa
tan đi từ vùng này đến vùng khác trong cơ
thể thực vật. Có
hai loại mô dẫn truyền chính: mô gỗ và mô libe.
Cả hai loại mô này đều được
tạo ra từ mô phân sinh ngọn và mô phân sinh bên và
vì thế có thể là mô sơ cấp hay thứ
cấp tùy theo nguồn gốc của chúng.
Mô dẫn truyền là loại mô phức tạp
gồm nhiều loại tế bào. Mô
gỗ có nhiệm vụ dẫn truyền nước và
muối khoáng từ rễ lên.
Mô gỗ làm thành một đường dẫn
xuyên suốt chạy từ rễ lên thân và lá.
Ở thực vật có hoa chỉ có hai loại
tế bào dẫn truyền là sợi mạch (tracheid) và
mạch (vessel) (Hình 7A). Các
tế bào sợi mạch và mạch nối tiếp nhau
để tạo ra các ống dài vận chuyển các
chất đi lên. Tế
bào chất và nhân của những tế bào này đều
thoái hóa khi trưởng thành, vách tế bào với
lớp thứ cấp vách tẩm mộc tố dày.
Ở các sợi mạch chất mộc tố
tạo thành các đường tròn hay đường
xoắn, còn ở mạch tẩm theo các đường
bậc thang hay tẩm cả vào vách chỉ trừ
vị trí của các lỗ.
Mô gỗ cũng gồm nhiều tế bào nhu mô
gỗ và sợi gỗ. Chỉ
có những tế bào nhu mô chưa ngấm mộc
tố là những tế bào sống trong mô gỗ. Mô
gỗ cũng rất quan trọng trong chức năng nâng
đỡ, đặc biệt là ở những phần
khí sinh của cây. Nhiều
sợi gỗ chuyên làm nhiệm vụ này.
Các tế bào dẫn truyền có vách dày nên
vừa làm nhiệm vụ dẫn truyền vừa làm
nhiệm vụ nâng đỡ.
Mô gỗ thì rất cứng nên tên thông thường
là gỗ (wood). II.
CƠ QUAN DINH DƯỠNG CỦA THỰC VẬT Cơ
quan dinh dưỡng của thực vật gồm
rễ, thân và lá. a.
Hình thái của rễ Rễ
là cơ quan dinh dưỡng của cây có nhiệm
vụ hấp thu nước và muối khoáng, vận
chuyển các chất này đi khắp trong cây đồng
thời giúp giữ chặt cây vào đất.
Hệ thống rễ của cây thường phân
nhánh rất nhiều và mọc rất xa vào trong đất.
Thí dụ ở cây Lúa, cao không quá 1m, người
ta ước tính có đến 14 triệu rễ con
với tổng chiều dài khoảng 600 km.
Rễ đầu tiên mọc từ cây con được gọi là rễ cái hay rễ sơ cấp (primary root). Sau đó, từ rễ cái mọc ra các rễ con hay rễ thứ cấp (secondary root) và hệ thống rễ được thành lập. Nếu sự phân nhánh tạo ra một hệ thống rễ với vô số những rễ nhỏ, không có một rễ cái được gọi là rễ chùm (fibrous root system) như ở các loài cỏ, Hành, Tỏi...(Hình 8B). Ngược lại, rễ sơ cấp là rễ chính to với những rễ thứ cấp phân nhánh nhỏ hơn, hệ thống rễ này được gọi là rễ trụ (taproot system) (Hình 8A), như ở các cây Song tử diệp như Cải, Ðậu, Dầu, Sao... Tất cả rễ có nhiệm vụ dự trử nhất là rễ củ là một kiểu rễ trụ đặc biệt.
Ðể thực hiện chức năng hấp thu,
ngoài sự phân nhánh thành rễ con và tăng dài ở
đầu rễ, rễ có một vùng mang các lông hút là
những tế bào căn bì mọc dài.
Vùng lông hút không dài nhưng tổng cộng các lông
hút trên tất cả các rễ con thì nó cung cấp cho
rễ một bề mặt hấp thu vô cùng lớn.
Người ta tính ra ở rễ cây Lúa có
khoảng 14 tỉ lông hút với tổng cộng
diện tích bề mặt hơn 400 m2.
Nơi đây là vùng hấp thu nước và
muối khoáng của rễ.
Ngoài ra lông hút còn giữ chặt rễ để
đầu rễ có thể mọc chui vào đất. b.
Cơ cấu của rễ Một
lát cắt ngang qua một rễ Song tử diệp còn
non cho thấy có nhiều loại mô khác nhau.
Ngoài cùng là một lớp tế bào căn bì, không
giống biểu bì của những phần khí sinh
của cây, căn bì của rễ không có lớp cutin
trên bề mặt của nó (căn bì của rễ
hấp thu nước, trong khi biểu bì của thân và
lá chống sự mất nước).
Một số tế bào căn bì dưới đầu
rễ mọc dài ra thành lông hút (Hình 3).
Bên dưới căn bì là vùng vỏ (cortex) dày
chỉ gồm nhu mô và vô số khoảng trống
giữa các tế bào. Các
tế bào nhu mô vỏ thường chứa nhiều tinh
bột. Vỏ thường
dày và quan trọng ở rễ non nhưng rất tiêu
giảm hay không còn ở những rễ già, khi đó
vỏ và căn bì được thay thế bằng chu
bì. Trong cùng của vùng vỏ là nội bì (endodermis) gồm một lớp tế bào (Hình 9A). Ðặc điểm của tế bào nội bì là có một khung Caspary, là dãi mộc tố và suberin không thấm nước. Ở rễ Song tử diệp khung ở vách bên và vách ngang của tế bào (Hình 9B). Ở rễ Ðơn tử diệp vách tế bào nội bì dày theo các phía trừ phía ngoài tạo ra một khung sube hình móng ngựa. Vách của tế bào nội bì trưởng thành rất dày và rắn chắc. Nội bì luôn luôn hiện diện trong rễ. Nước muốn vào trụ phải đi xuyên qua tế bào nội bì. Nội
bì là ranh giới ngoài của lõi của có chứa mô
dẫn truyền. Phần
lõi này được gọi là trụ (stele).
Ngay bên trong nội bì là một lớp tế bào
nhu mô vách mỏng được gọi là chu luân
(pericycle); những tế bào này có khả năng phân
sinh và có thể tạo ra những tế bào mới
mọc dài từ trụ ra ngoài để tạo ra
rễ con.
Ở
rễ cây Song tử diệp, phần giữa của trụ
thường chỉ có hai loại mô là mô gỗ và mô libe.
Các tế bào mô gỗ với vách dày thường
làm thành hình chữ thập hay hình sao và các mô libe
nằm xen kẻ với các mô gỗ.
Nhu mô ở giữa trụ (nhu mô tủy) chưa có
hoặc rất ít phát triển hơn
vùng vỏ
(Hình 10).
Rễ
to Ðơn tử
diệp thường có vùng nhu mô ở giữa trụ,
được gọi là tủy (pith), mô gỗ và mô
libe cũng xen kẻ nhau nhưng mô gỗ không có hình
sao như ở rễ Song tử diệp (Hình 11).
a.
Hình thái của thân Thân là cơ quan mang láï, nơi lá gắn vào thân là mắt, khoảng giữa hai mắt là lóng. Ở nách lá, nơi lá gắn vào thân có các chồi nách, chồi nách hoạt động cho ra nhánh. Ở ngọn thân và ngọn nhánh có chồi ngọn, chồi ngọn mọc cho ra lá và lóng khác làm cho thân cao lên. Thân thường được chia làm hai loại: thân cỏ (herbaceous stem) và thân gỗ (woody stem). Thân cỏ mềm, mọng nước, trong khi thân gỗ thì cứng và rắn chắc. Thân
cỏ gồm những
thân cỏ Song tử diệp và Ðơn tử diệp (Hình
12). Hầu hết cây
thân cỏ Ðơn tử diệp nhất niên (annual:
chỉ sống một mùa sau đó chết đi).
Tất cả các cây cỏ (gồm các loài cây lương
thực quan trọng như Lúa, Bắp...) đều là
những cây Ðơn tử diệp, kể cả các loài
như Lan, Huệ ... Phần lớn các cây Song tử
diệp thân cỏ cũng nhất niên như hoa màu:
Cải, Ðậu... Mộüt số cây Song tử diệp
thân cỏ khác thì đa niên.
Tất cả các Song tử diệp thân gỗ
đều đa niên. Những
cây có lá rụng theo mùa và những cây hầu hết
những thực vật có hoa là những cây Song tử
diệp thân gỗ. Một số cây Ðơn tử
diệp có thân gỗ như Cau, Dừa... là kiểu thân
gỗ tiến hóa từ thân cỏ (thân gỗ thứ
sinh) không có cơ cấu thứ cấp.
b. Cơ cấu của thân * Cơ cấu của thân cây Ðơn tử diệp
![]() Mô
ngoài cùng là biểu bì. Mô
dẫn truyền của thân làm thành những bó
thẳng đứng riêng biệt rải rác khắp
trong nhu mô của thân, tạo nên nhiều vòng bó libe
gỗ (bó mạch). Mỗi
bó mạch được bao quanh bởi bao bó mạch
(bundle sheath), trong đó gỗ chuyên hóa chu vi bao lấy
libe nên bó mạch có hình chữ V.
Khi thân gia tăng đường kính, nhiều bó
mới được thành lập về phía ngoại
biên. Tất cả
những mô này đều có nguồn gốc từ mô
phân sinh ngọn. Mô
của hầu hết cây Ðơn tử diệp là mô sơ
cấp. *
Cơ cấu của thân cây Song tử diệp
Ở lát cắt ngang một cây Song tử diệp thân cỏ (Hình 14A), mô ngoài cùng của thân là biểu bì. Kế đến là vùng vo,í ngay dưới biểu bì là nhu mô và vùng tế bào giao mô có vách dày. Bên trong của vùng vỏ là trụ với mô dẫn truyền. Tương tự như cây non Ðơn tử diệp, mô gỗ và mô libe của cây thân cỏ Song tử diệp cũng sắp xếp thành những bó riêng biệt. Tuy nhiên, giữa hai nhóm này sự khác biệt rất rõ ràng.
Các
bó mạch ở cây Song tử diệp sắp xếp trên
một đường tròn mô libe nằm ở phía ngoài,
mô gỗ hướng vào trung tâm, ở giữa chúng là
tượng tầng libe gỗ (vascular cambium) (Hình 14B).
Tượng tầng tạo ra mô thứ cấp liên
tục hai bên của tượng tầng chứ không
tạo ra bó mới như ở cây Ðơn tử
diệp. Vùng trung tâm của thân là tủy với các tế bào nhu mô làm nhiệm vụ dự trử.
Tượng
tầng của
nhiều cây Song tử diệp thân cỏ không bao
giờ hoạt động cũng như không tạo ra
thêm mô gỗ và mô libe. Ở
những cây này tất cả mô của cây đều là
mô sơ cấp. Tuy nhiên,
ở vài loài Song tử diệp thân cỏ tượng
tầng hoạt động.
Khi tế bào tượng tầng phân cắt, chúng
tạo ra tế bào mới ở cả hai mặt
của tượng tầng.
Tế bào mới ở phía ngoài chuyên hóa thành mô
libe thứ cấp; những tế bào mới phía trong
chuyên hóa thành mô gỗ thứ cấp.
Kết quả của sự hoạt động này
là thân gia tăng
đường kính. Mô
libe thứ cấp được tạo ra đẩy mô
libe sơ cấp ra ngoài và mô gỗ thứ cấp đẩy
mô gỗ sơ cấp vào giữa thân.
Ở cây thân cỏ có sự tăng trưởng
thứ cấp, thứ tự các mô từ ngoài vào trong
là biểu bì, nhu mô vỏ, mô libe sơ cấp, mô libe
thứ cấp, tượng tầng libe gỗ, mô gỗ
thứ cấp, mô gỗ sơ cấp và nhu mô tủy (Hình
15).
Trong cấu tạo của cây thân gỗ mô gỗ thứ cấp chiếm phần lớn. Ở các cây này trong năm đầu tiên sinh trưởng không có gì khác biệt với cây thân cỏ; các bó dẫn truyền sơ cấp xếp thành một vòng liên tục hay từng bó rải rác. Tuy nhiên, sự tăng trưởng thứ cấp làm cho các bó liên tục trong thân vì những tế bào trong mô cơ bản giữa các bó mạch hoạt động phân sinh tạo ra mô gỗ mới về phía trung tâm và mô libe mới về phía ngoại biên của thân. Những tế bào này cùng với tượng tầng libe gỗ trong bó mạch tạo thành một vòng tượng tầng liên tục quanh thân. Mô gỗ thứ cấp bên trong tượng tầng dày hơn libe thứ cấp và chiếm gần hết thân. Mô gỗ này thường được gọi là gỗ (Hình 16). Các tế bào mô gỗ được tạo ra sớm trong một mùa tăng trưởng có kích thước lớn hơn các tế bào được tạo ra cuối mùa. Tế bào vào mùa xuân to vì điều kiện sinh trưởng tốït và có nhiều nước, còn tế bào cuối mùa hè có kích thước nhỏ; sự khác biệt về kích thước này tạo ra các vòng hàng năm.
Sự lặp lại các vòng với các tế bào
to nhỏ hàng năm tạo nên các vòng đồng tâm
(vân) trên thân gỗ cắt ngang.
Ðếm các vòng này có thể ước lượng
tuổi của cây và được sử dụng trong
nghiên cứu khảo cổ học.
Ở các cây già, nhiều sự thay đổi
về hóa học và vật lý xảy ra ở trong các vòng
mô gỗ già hơn ở phía giữa thân.
Các tế bào nhu mô chết đi, các sắc
tố, resin, tanin, và chất gum lấp đầy
khoảng trống giữa các tế bào, khi đó các mô
gỗ già sẽ không còn dẫn nước và khoáng
nữa mà chỉ còn làm nhiệm vụ chống đỡ
cây, khi đó phần này được gọi là lõi
(heartwood) không còn hoạt động và các vòng gỗ
phía ngoài trẻ hơn vẫn còn hoạt động
gọi là dác (sapwood). Phần
lõi đậm màu hơn phần dác và cây vẫn có
thể tiếp tục sống sau khi phần lõi bị
mất đi, nhưng cây sẽ yếu đi và không
thể chống chịu gió to.
Khi cây gia tăng đường kính, một
lớp tế bào ở vùng vỏ hoạt động phân
sinh và tạo thành tượng tầng
sube nhu bì (cork cambium). Những
tế bào của tượng tầng này tạo ra
tế bào sube ở phía ngoài và nhu bì ở phía trong.
Tượng tầng và các tế bào được
nó tạo ra được gọi chung là chu bì.
Khi sự tăng trưởng tiếp tục, thì
biểu bì và vùng vỏ ngoài chu bì dần dần
bị bong ra. Tế bào của lớp sube là những
tế bào chết không thấm nước trở thành
lớp vỏ ngoài (outer bark).
Lớp vỏ trong (inner bark) là mô libe.
Lớp mô libe không bao giờ dày bằng lớp mô
gỗ vì tế bào mô libe được tạo ra ít hơn
so với mô gỗ thứ cấp, và vì tế bào có vách
mỏng này bị chèn ép khi thân lớn lên.
Chính vì thế mà các vòng tăng trưởng hàng
năm của mô libe không thể tìm được.
Không giống mô gỗ, mô libe ở cây già vẫn
hoạt động dẫn truyền tích cực và quan
trọng chứ không làm nhiệm vụ nâng đỡ.
Tóm lại, thân gỗ không có biểu bì, mặt
ngoài được bao bọc bởi mô sube (lớp
vỏ ngoài)ì. Bên dưới
của tượng tầng sube nhu bì là nhu bì và một
lớp mô libe mỏng (lớp vỏ trong) và bên dưới
nữa là tượng tầng libe gỗ, thường
chỉ là một lớp tế bào.
Phần còn lại hầu hết là mô gỗ
thứ cấp, và chỉ có những vòng ở phía ngoài
là còn chức năng dẫn truyền.
Lá
là cơ quan quang hợp chính của thực vật có
mạch.
a. Cách sắp xếp của lá trên thân Lá
gắn vào thân ở mắt.
Cơ cấu và cách sắp xếp của lá có xu
hướng sao cho nhận được ánh sáng
tối đa nhưng mất nước tối thiểu
và cho phép CO2 từ khí quyển vào được bên
trong. Lá sắp xếp
trên thân theo một trật tự nhất định,
kiểu sắp xếp này được gọi là
diệp tự (phyllotaxy) và đã được định
sẳn trong đỉnh ngọn của thân.
Các diệp tự đều có xu hướng
sắp xếp sao cho lá này che khuất lá khác một cách
ít nhất và nhận được ánh sáng nhiều
nhất. Lá có đời
sống giới hạn, thường là một mùa dinh dưỡng.
Ở các cây thường xanh (evergreen plant), cây liên
tục thay các lá già bằng các lá non mới còn ở
các cây có lá rụng theo mùa (deciduous trees) thì lá sẽ
rụng trước khi mùa đông hay mùa khô đến.
b. Hình thái của lá Lá
có hình dạng và kích thước rất biến thiên
tùy theo loài và tùy theo môi trường nơi chúng sinh
sống. Phần
lớn lá có một cuống (petiole) hẹp và một
phiến (blade) to, dẹp, mỏng, trên mặt có một
hệ gân lá. Lá cây
Song tử diệp thường có một gân chính to
từ đó phát xuất ra nhiều gân phụ nhỏ hơn,
trong khi ở lá Ðơn tử diệp thường các gân
gần bằng nhau và gần như song song theo trục
dọc của phiến lá. Lá
đơn (simple leaves) với một phiến duy nhất
như lá Mận, Xoài..., lá kép
(compound leaves) gồm nhiều lá phụ (leaflets) mỗi lá
có một cuống riêng như lá So đủa, Phượng...
Lá non có thể thay đổi hình dạng và màu
sắc khi trưởng thành.
Kích thước của lá thay đổi từ vài
mét ở lá Cau, Dừa... đến chỉ vài milimet
ở nhiều loài. c.
Cơ cấu của phiến lá (Xem
Hình 14 - Chương 4 - GT Sinh học đại cương
A1) Ðặc
tính cơ cấu của lá là có đối xứng hai
bên nhờ đó dễ phân biệt với rễ và thân
có đối xứng qua trục.
Một lá điển hình có cấu tạo gồm
biểu bì trên và biểu bì dưới bao lấy
diệp nhục có chứa lục lạp bên trong.
Mô dẫn truyền từ thân đi vào cuống lá,
vào lá chúng phân nhánh thành hệ gân lá.
* Biểu bì Thường
biểu bì chỉ là một lớp tế bào, trắc
diện có hình chữ nhật.
Tế bào biểu bì thường được
bao phủ bởi lớp cutin dày và sáp.
Trên biểu bì có các khí khẩu, nơi trao đổi
khí của lá. Mỗi
khí khẩu gồm hai tế bào hình thận, tế bào
khẩu có chứa lục lạp, còn tế bào biểu
bì thì thường không chứa lục lạp.
Số khí khẩu trên lá rất thay đổi,
ở mặt dưới có thể chứa từ 15 -
1.000/mm2. Tế bào
biểu bì có thể biến dạng thành lông
che chở hay những tế bào tiết... Ở lá cây
Ðơn tử diệp, biểu bì ở hai mặt lá
giống nhau; trong khi ở lá cây Song tử diệp
biểu bì dưới của lá có lớp cutin mỏng,
có nhiều lông che chở và khí khẩu hơn biểu
bì ở mặt trên của lá.
* Diệp nhục
(mesophyll) Diệp
nhục gồm các tế bào nhu mô có chứa lục
lạp (lục mô), đây là nơi diễn ra hầu
hết quá trình quang hợp của cây.
Ở lá cây Song tử diệp, diệp nhục có
hai loại: ở phía trên là lục mô hàng rào gồm
những tế bào hình trụ xếp thẳng đứng
(palisade mesophyll). Những
tế bào này chứa rất nhiều lục lạp.
Ở phía dưới là lục mô khuyết
(spongy mesophyll), tế bào diệp nhục có hình
dạng không đều xếp chừa ra các khoảng
trống. Các khoảng
trống giữa những tế bào của nhu mô
khuyết nối với khí khẩu nơi nhận CO2
từ không khí. Ở lá
cây Ðơn tử diệp chỉ có một loại
lục mô có đạo; riêng các loài thuộc họ Lúa
(Poaceae) và Lác (Cyperaceae) khi trời khô lá có
thể cuốn hay xếp lại là do biểu bì trên
có các tế bào hình bọt (bulliform cell).
Các tế bào này khi trương thì trải lá ra,
khi co thì cuốn lá lại. Lá
của Khuynh diệp, treo thòng trên nhánh nên hai mặt lá
hứng ánh sáng như nhau, có lục mô hàng rào ở
cả hai mặt với một ít mô khuyết ở
giữa và có lớp cutin dày như nhau ở cả hai
mặt. Ở nhiều
cây, đặc biệt là trong họ Mận (Myrtaceae)
trong lá có nhiều tuyến tiết. *
Mô dẫn truyền của lá Hệ
gân lá phân nhánh từ cuống lá vào phiến lá
tạo thành cái khung trong đó có mô dẫn truyền
của lá nối liền với mô dẫn truyền
của thân. Mỗi gân
lá có chứa mô gỗ nằm hướng ra bề
mặt trên và mô libe hướng về bề mặt dưới.
Mỗi bó dẫn truyền thường được
bao bởi bao bó mạch; ở các loài cỏ Ðơn
tử diệp nhiệt đới tế bào bao chứa
nhiều lục lạp và tham gia vào lộ trình quang
hợp kiểu cây C4. Ở
lá Song tử diệp và một số lá Ðơn tử
diệp như Mía, Sả, Cau, Dừa... hệ gân lá chia
thành gân chính ở giữa to và các gân phụ ở hai
bên nhỏ hơn. Tóm
lại, ở hầu hết lá cây Song tử diệp cơ
cấu của hai mặt lá khác nhau được
gọi là cơ cấu dị diện, trong khi lá cây Ðơn
tử diệp có cơ cấu đẳng diện. III.
SỰ THÍCH NGHI CỦA THỰC VẬT Thực
vật sống trong môi trường nên chịu tác
động trực tiếp của các yếu tố môi
trường. Ðể có
thể tồn tại, nhất là trong những điều
kiện khắc nghiệt các cơ quan phải có
những biến đổi hình thái để thích nghi. a.
Rễ cây sống trong môi trường nước Cây
Ðước (Rhizophora), một thực vật rừng sát
ven biển có rễ chân nôm giữ cây đứng
vững trong đất bùn luôn bị dao động
bởi sóng biển và thủy triều lên xuống và các
rễ mọc thẳng ra không khí từ các rễ trong
đất được gọi là phế căn
(pneumatophore) (Hình 17). Phế
căn có mô khí (aerenchyma) và có chức năng trao đổi
khí. Khi thủy
triều xuống, O2 khuếch tán từ không khí đi vào
trong phần rễ bị chôn sâu trong bùn.
Tương tự, ở phần vỏ của
rễ Lúa các tế bào bị tiêu hủy tạo ra
những khoảng trống to chứa khí giúp rễ trao
đổi khí trong đất bị ngập nước.
Những cây sống trong nước, đặc
biệt là những cây sống chìm, không mất nước
do sự thoát hơi nước, yêu cầu về nước
không quan trọng nữa, vì thế cơ cấu của
rễ rất đơn giản, rễ nhỏ, mô
gỗ không ngấm mộc tố.
Một số loài trôi nổi có rễ phao như
ở Rau dừa nước (Ludwidgia
adscendens).
Rễ còn chịu đựng độ mặn. Thí
dụ ở một loài Khuynh diệp (Eucalyptus
camaldulensis), rễ có ngoại bì (exodermis) là một
lớp tế bào ngấm suberin nằm dưới căn
bì. Ở những cây
chịu mặn, ngoại bì phát triển rất sớm
và ở gần chóp rễ, vùng tế bào không ngấm
suberin còn lại rất ít. Sự
hiện diện của ngoại bì có liên quan đến
khả năng loại ra những ion Cl- và lớp này như
một màng chắn cho cây chống lại nồng độ
muối cao. Ở
những cây mẫn cảm với muối, luôn luôn có
một vùng các tế bào không ngấm suberin ở
gần chóp rễ. b. Rễ khí sinh Ở những loài Lan bì sinh (epiphyte), căn bì của rễ khí sinh được gọi là mạc lan (velamen), rất dày với nhiều lớp tế bào bao phủ phần chót hấp thu của rễ Lan, chống lại sự mất nước (Hình 18).c.
Rễ dự trữ
Rễ dự trử thường do rễ cái phồng lên và đôi khi của rễ thứ cấp. Ở Carrot (Daucus carota) một tượng tầng libe gỗ, tạo ra một ít mô gỗ thứ cấp, phần còn lại là nhu mô dự trử. Ở rễ Khoai lang (Ipomoea batatas) có thêm một tượng tầng libe gỗ, chủ yếu tạo ra nhu mô chứa tinh bột làm rễ phồng lên thành củ. Rễ củ của cây Củ cải đường là kết quả hoạt động của nhiều tượng tầng đồng tâm, mỗi tượng tầng tạo ra một vòng sậm do nhu mô xen kẻ với vòng nhạt của mô dẫn truyền. d.
Rễ cộng sinh
* Nốt rễ (root
nodule): ở nhiều cây, đặc biệt là những
cây Ðậu, Keo bông vàng (Fabaceae) rễ có nốt (Hình19).
Nốt rễ có chứa vi sinh vật cố định
nitơ từ khí quyển thành hợp chất nitơ
hữu cơ để cây chủ có thể sử
dụng được. Thí
dụ, vi khuẩn Rhizobium ở rễ đậu hay
Frankia ở rễ các cây Phi lao (Casuarina equisetifolia) vi sinh
vật đi vào rễ qua lông hút, sự nhiễm này kích
thích tế bào rễ phân cắt nhanh chóng, làm cho
rễ phồng lên tạo thành nốt rễ.
Nốt rễ nối liền với mô dẫn
truyền của cây chủ.
Các tế bào nhiễm chứa nhiều bacteroid, là
những tế bào vi khuẩn được biến
đổi bên trong tế bào của nốt rễ.
Nốt rễ có màu hồng do protein vận
chuyển leghaemoglobin,
được tạo ra trong tế bào chủ để
duy trì lượng O2 vừa đủ, mà không làm
bất hoạt enzim nitrogenaz cần * Nấm rễ (mycorrhizae): là một kiểu cộng sinh giữa rễ và nấm. Sự cộng sinh này giúp cho rễ hấp thu được các chất dinh dưỡng đặc biệt là phospho từ đất. Sự cộng sinh này có ở hầu hết các cây đất liền. Có hai loại nấm rễ: nấm rễ ngoài (ectomycorrhizae) khuẩn ty thể phát triển trên bề mặt rễ ra bao nấm (fungal sheath) quanh vùng rễ (rhizosphere) và một phần bên trong rễ. Khi xâm nhập vùng vỏ khuẩn ty mọc giữa những tế bào tạo ra mạng Hartig (Hartig net). Nấm chỉ ở trong vùng vỏ, và không xâm nhập vào nội bì. Rễ bị nhiễm ngắn và thường phân nhánh lưỡng phân. Ngược lại, ở nấm rễ trong (endomycorrhizae) như ở các cây Lan, màng sinh chất của tế bào chủ bao quanh sợi nấm, tạo ra những vòng xoắn của sợi nấm ở bên trong tế bào.
b.
Thân cây sống ở vùng nóng và khô
Một
số thực vật sống ơ ívùng nóng và khô như
sa mạc và bán sa mạc, lá là một trở ngại
cho thân vì nó hấp thu quá nhiều sức nóng và làm
mất nước, do đó để thích nghi lá
nhỏ đi hay không còn lá và khi đó thân đảm
nhiệm vai trò quang hợp. Ở
cây Phi lao, lá tiêu giảm còn rất nhỏ như
những vảy mọc vòng quanh các mắt, cành dạng
lá kiểu này được gọi là diệp chi
(cladode) (Hình 21). Những
diệp chi này có khí khẩu nằm dọc theo các rãnh
giữa hai mắt.
Nhiều giống thuộc họ Xương
rồng (Cactaceae) như cây Xương rồng vợt
(Opuntia), hoàn toàn không có lá (Hình 22).
Cây thân mập của họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae) có nhiều nhu mô quang hợp được
(chlorenchyma) và các nhu mô dự trử nước nằm
trong vùng vỏ. Biểu
bì của các cây này thường có nhiều lớp và
được bao phủ bởi lớp cutin dày. c.
Thân cây sống trong nước Cây
thủy sinh chìm, trên biểu bì có lớp cutin mỏng,
khí có thể được trao đổi trực
tiếp, tế bào biểu bì chứa nhiều lục
lạp và quang hợp được.
Ở các loài cỏ sống trong nước mô
dẫn truyền rất tiêu giảm và mô gỗ không có
mộc tố, do vậy trong cấu tạo của thân
phần vỏ thường dày hơn phần trung
trụ. Các loài Sen, Súng, các bọng được thành
lập để chứa khí.
Ở Bèo cám thân chỉ là một phiến dẹp
màu lục, không có lá, rễ kém phát triển. Thân
của Bèo phấn chỉ là một khối hình
trứng rất nhỏ và không có rễ.
a.
Lá cây sống ngoài sáng hay trong bóng râm Lá
ở trong bóng râm thường có kích thước to hơn
và có lục lạp với các phiến thylakoid sắp
xếp thành các grana dày hơn nhiều so với các lá
lộ ra bên ngoài ánh sáng mặt trời.
Lá mọc ngoài sáng có lục mô hàng rào nhiều hơn
lá mọc trong bóng.
Ðộ dày của lớp cutin trên bề mặt cũng
chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi điều kiện nơi lá sinh sống.
Cùng một loài cây, cây trồng bên ngoài môi trường
có lớp cutin dày gấp 10 lần cây trồng trong nhà
kính; vì lớp cutin cần thiết cho cây tránh mất nước,
bảo vệ bề mặt chống sự xâm nhập
của các tác nhân gây bệnh. b.
Lá cây ở vùng sa mạc Cây
sống trong những môi trường khắc nghiệt
sa mạc và bán sa mạc có những thích nghi đặc
biệt: lá thường thu nhỏ lại hay biến thành
gai, hay trên bề mặt lá có phủ một lớp sáp
dày, hoặc lông che chở. Các
biến đổi trên đều nhằm giúp cây
giảm bớt được sự thoát hơi nước. c.
Lá của cây sống trong các rừng ẩm Cây
sống trong các rừng mưa nhiệt đới có
những thủy khẩu (hydathode) ở bìa lá và chót lá.
Vào buổi sáng điều kiện ẩm độ
quá cao mà sự thoát hơi nước thì quá thấp
áp lực của rễ quá mạnh, cây thường
thải bớt nước ra ngoài thành giọt ở các
thủy khẩu này. Ở
một số loài khác lá có những rảnh sâu, các
rảnh này làm cho nước mưa được
chảy đi dễ dàng mà không đọng lại
trên lá.
d. Lá biến đổi để
leo bám Ở
những dây leo, lá biến đổi thành những tua
cuốn, chúng quấn quanh những giá thể.
Thí dụ, ở Nho (Vitis), dưa leo (Cucumis) lá
biến đổi thành tua cuốn, ở đậu Hà
lan (Pisum) chỉ có lá phụ chót biến thành tua
cuốn. e.
Lá biến đổi để bắt mồi hay để
tự vệ Ở
một loài cây ăn thịt lá biến đổi hình
dạng thành những bộ phận để bắt
mồi như ở cây Bắt ruồi (Drosera) (Hình 23)
hay cây Nắp bình (Nepenthes) (Hình 24) các lông trên lá
tiết ra chất nhày để bắt côn trùng và
nhốt côn trùng lại, các tuyến tiết ra enzim
để tiêu hóa con mồi.
Ðây là kiểu thích nghi của các cây sống
ở các môi trường nghèo chất dinh dưỡng.
Ngoài ra lá cũng có thể tiết ra các chất
để ngăn chận các loài ăn cỏ.
Thí dụ, các chất được tiết ra
từ những tuyến trên lông của Khoai tây, Cà chua
và cây Hướng dương bảo vệ được
cây chống lại một số loài rệp, ấu trùng
của bướm và một số loài vật ăn
cỏ khác.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||