Sự sinh sản của thực vật có hoa |
|
Gs. Bùi Tấn Anh - Võ Văn Bé - Phạm Thị Nga |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
CHƯƠNG
2 SỰ
SINH SẢN CỦA THỰC VẬT CÓ HOA
Thực vật có hoa có thể sinh sản bằng
nhiều hình thức. Sự
đa dạng về các hình thức sinh sản này giúp
cho thực vật có hoa phân bố rộng rải và
chiếm ưu thế trên môi trường đất
liền. Trong sự sinh
sản hữu tính, hạt phấn được gió
hay động vật mang đi đến các bộ
phận cái của hoa để được thụ
tinh. Hợp tử
được phát triển thành phôi và được
bảo vệ trong hột. Ngoài
ra có nhiều thực vật có thể tự nhân
giống lên mà không qua sự thụ phấn hay thụ
tinh gọi là sự sinh sản vô tính. I.
SỰ SINH SẢN VÔ TÍNH (asexual reproduction)
Sinh
sản vô tính là một hình thức sinh sản mà trong
đó thế hệ con cháu xuất xứ từ một
cá thể cha mẹ duy nhất do sự nguyên phân
của tế bào, không có sự phối hợp giao
tử; do đó con cháu đồng nhất về
kiểu di truyền. Nhiều cây có thể được
nhân giống vô tính từ một phần của cây cha
mẹ. Hình thức sinh
sản vô tính này thường được gọi là
sinh sản dinh dưỡng (vegetative reproduction).
Ở cây Thuốc bỏng (Kalanchoe), cây con nẩy
chồi dọc theo bìa lá, những cây này khi chạm
đất sẽ mọc thành cây mới rời rạc.
Ðôi khi từ một hệ thống rễ bất
định của cây mọc ra nhiều rễ bất
định và sau đó trở thành hệ thống
rễ riêng biệt cho từng cây. Một
kiểu sinh sản vô tính khác như ở cây Taraxacum
họ Cúc và các loài cỏ tạo ra hột mà không
cần có sự thụ tinh, các tế bào lưỡng
bội trong noãn phát triển theo kiểu trinh sản
(parthenogenesis) thành phôi. Ở
các loài thuộc giống Citrus (Cam, Chanh...), những
tế bào kế cận phôi phân cắt tạo ra phôi
dinh dưỡng (phôi soma) và phát triển thành hột.
Sự sinh sản theo kiểu này được
gọi là sự tiếp hợp vô tính (apomixis).
Ðể
nhân giống trong trồng trọt người ta sử
dụng nhiều hình thức sinh sản dinh dưỡng
của thực vật để nhân giống các cây hoa
màu, cây ăn trái, cây cảnh... *
Giâm cành (clone from cuttings) Các
cành có thể được cắt từ thân, nhánh
hay từ đoạn thân có chồi ngọn.
Nơi vết cắt sẽ mọc ra một
khối tế bào không chuyên hóa gọi là mô sẹo
(callus), sau đó các rễ bất định mọc ra
từ mô sẹo này. Một
số cây có thể nhân lên từ lá thay vì thân.
Ở một số cây khác cành giâm có thể
được lấy từ những thân củ đặc
biệt như ở Khoai tây, Khoai tây được
cắt ra thành nhiều mảnh, mỗi mảnh có
một chồi, được gọi là mắt, từ
đây chúng có thể mọc thành một cây nguyên
vẹn.
* Chiết cành *
Ghép cành Một
chồi cành hay một cành nhỏ từ một cây này
có thể được ghép lên một cây khác của
các loài có quan hệ họ hàng gần hay các thứ khác
nhau của cùng một loài. Ghép
cây phải thực hiện lúc cây còn non.
Cây cho hệ thống rễ được gọi
là gốc ghép (stock), cành
hay chồi ghép được gọi là cành ghép (scion).
Ghép có thể kết hợp được
chất lượng tốt giữa cành ghép và gốc
ghép. Thí dụ Mảng
cầu ghép lên gốc Bình bát thì lợi dụng
được khả năng sống được
của Bình bát ở những môi trường đất
phèn. Hay Dưa hấu
ghép lên gốc Bầu là vì Bầu tăng trưởng
nhanh... Chất lượng của trái được xác
định bởi kiểu gen của cành ghép, không
bị kiểu gen của gốc ghép làm giảm đi. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp gốc ghép có
thể làm biến đổi đặc điểm
của cành ghép, như Dưa hấu ghép trên gốc
Bầu trái to nhưng thường không ngon.
* Cây trong ống nghiệm Là
một trong các kỷ thuật mới của ngành
thực vật học và công nghệ di truyền,
ứng dụng sự sinh sản dinh dưỡng của
thực vật. Người
ta có thể nuôi cấy tạo ra một cây hoàn
chỉnh từ một phần nhỏ của một cây;
từ một mảnh mô hay từ một tế bào.
Trong môi trường nhân tạo với các dưỡng
chất và hormon, các tế bào phân cắt tạo ra mô
sẹo, từ mô sẹo được nuôi tiếp
tục với các hóa chất và các chất kích thích tăng
trưởng, mô sẹo sẽ phát triển thành cây hoàn
chỉnh. Nhiều loài
cây được nhân giống theo kiểu này có
thể được trồng và tăng trưởng
tốt ngoài đồng (chi tiết được đề
cập trong chương 3).
Hoa
là một chồi cành tăng trưởng có hạn
định mang các lá biến đổi để đảm
nhiệm chức năng sinh sản.
Các lá biến đổi này được chia làm
bốn phần tử, được gắn trên đế
hoa (receptacle) là phần phù ra của cuống hoa (flower
stalk). Các thành phần
từ ngoài vào trong gồm: a.
Ðài hoa (calyx) Ðài
hoa gồm các lá đài (sepals) bao bọc và bảo
vệ các bộ phận của hoa khi còn trong nụ.
Các lá đài thường nhỏ, có màu lục và
giống như lá thường; nhưng ở một
số loài lá đài có thể có màu khác màu lục và
có hình dạng thay đổi.
Thí dụ ở hoa Ngọc nữ lá đài nhỏ
hơn lá thường và có màu trắng. b.
Tràng hoa (corolla) Tràng
hoa gồm các cánh hoa (petals).
Các cánh hoa thường có màu sặc sở và thường
dễ nhận diện, là phương tiện để
hấp dẫn côn trùng, chim và những động
vật khác đến với hoa.
Tràng hoa luôn luôn có màu khác màu lục.
Ở một số hoa không có tràng hoa thì
được gọi là hoa vô cánh. c.
Bộ nhụy đực Bộ
nhụy đực gồm các tiểu nhụy (stamens) là
bộ phận sinh sản đực của hoa.
Mỗi tiểu nhụy gồm phần cuống
được gọi là chỉ (filament) và bao phấn
(anther) ở tận cùng của chỉ.
Bao phấn chứa các túi phấn, túi phấn
tạo ra hạt phấn (pollen). d.
Bộ nhụy cái Bộ
nhụy cái gồm nhụy (pistil), một số loài cây
có nhiều nhụy trên cùng một hoa.
Mỗi nhụy gồm một bầu noãn (ovary)
ở đáy, kế đến là phần cuống
mảnh được gọi là vòi
(style) mọc ra từ bầu noãn và phần tận cùng
rộng ra được gọi là nướm (stigma). Nhụy
do một hay nhiều lá biến đổi mang bào
tử được gọi là lá noãn (carpel) . Nhiều
hoa có đủ bốn thành phần trên nhưng cũng
có hoa thiếu một hay vài thành phần trên.
Thí dụ hoa trần là hoa không có bao hoa (perianth)(đài
và tràng). Hoa lưỡng
phái có cả bộ nhụy đực và bộ
nhụy cái, còn hoa đơn phái chỉ có một trong
hai bộ phận trên hoặc có cả hai nhưng
một trong hai bộ phận không thụ (lép). Năm
1920 W. W. Garner và H. A. Allard (Bộ Nông nghiệp Hoa
Kỳ) tìm thấy cây Thuốc lá đột biến
được gọi là cây thuốc lá khổng
lồ, lớn một cách khác thường (cao 2m), nhưng
không trổ hoa khi trồng ngoài đồng vào mùa hè.
Họ nhân giống cây này lên và thấy chúng
trổ hoa vào mùa đông trong nhà kính.
Hai ông bắt đầu quan tâm và nhận thấy
rằng trong nhà kính vào mùa đông và ngoài đồng
vào mùa hè rất khác nhau về nhiệt độ,
độ ẩm, cường độ ánh sáng, độ
dài của ngày... Sau nhiều thí nghiệm loại
dần các yếu tố, cuối cùng họ kết
luận được rằng yếu tố kiểm soát
sự trổ hoa là độ dài của ngày; ngày
ngắn vào cuối thu và đầu mùa đông đã
cảm ứng sự trổ hoa của thứ Thuốc lá
khổng lồ này: cây trổ hoa vào mùa hè bằng cách
che nắng vào buổi sáng hay buổi chiều trong ngày.
Sau nhiều thí nghiệm người ta chia thực
vật ra làm ba nhóm:
+ Cây ngày ngắn: cây chỉ trổ hoa trong điều
kiện ngày ngắn, thường là các cây trổ hoa vào
mùa xuân và mùa thu như các cây Ðậu xanh (Vigna aureus),
Trạng nguyên (Poinsettia pulcherrima ), Thược dược
(Dahlia pinnata), Cải bắp (Brassica vulgaris), Thuốc lá(Nicotiana
tabacum) đột biến nêu trên ...
+ Cây ngày dài: thường là các cây trổ hoa vào
mùa hè như Hành (Allium cepa), Cà
rốt (Dacus carota), Thuốc lá(Nicotiana tabacum), Củ
cải đường (Beta vulgaris)...
+ Cây trung tính: không bị ảnh hưởng,
trổ hoa dù ngày dài hay ngắn như cây
Húng quế (Ocimum basilicum), Hướng dương
(Helianthus annuus), Cẩm chướng (Dianthus caryophyllus), Cà
chua (Lycopersicum esculentum)...
Sự phản ứng của thực vật đối
với độ dài ngày và đêm được hai ông
gọi là sự quang
kỳ (photoperiodism).
Từ ngày dài và ngày ngắnthường
được dùng, thật ra đối với cây
ngày dài, nếu ta che ánh sáng một giờ hay hơn
nữa trong ngày, cây vẫn trổ hoa bình thường.
Ngược lại, đối với cây ngày
ngắn, nếu được chiếu sáng vài phút,
thậm chí vài giây vào giữa đêm vào mùa trổ hoa
cũng làm cây không trổ hoa được.
Do đó, yếu tố thật sự quyết
định sự trổ hoa là độ dài của
đêm chứ không phải là độ dài của ngày.
Thay vì nói cây ngày dài, ngày ngắn nên nói cây đêm
ngắn và cây đêm dài.
Trong Hình 3 thanh trắng chỉ ngày, thanh đen
chỉ đêm. Giả
thiết cây ngày dài (đêm ngắn) ở đây có
độ dài tối đa của đêm là 13 giờ, và
cây ngày ngắn (đêm dài) có độ dài của
đêm bắt buộc là 8 giờ 30 phút.
Mặt khác, trong thí nghiệm này độ dài
bắt buộc của đêm cho cây đêm ngắn dài
hơn cho cây đêm dài. Sự
khác biệt này là độ dài bắt buộc của
đêm là giá trị tối đa cho cây đêm ngắn
và tối thiểu cho cây đêm dài.
Cây đêm ngắn sẽ trổ hoa khi độ dài
của đêm thấp hơn giá trị bắt buộc
(A) nhưng sẽ không trổ hoa khi cao hơn giá trị
bắt buộc (B); tuy nhiên, cây sẽ trổ hoa nếu
đêm bị gián đoạn bởi ánh sáng đèn làm
giảm thời gian tối liên tục thấp hơn giá
trị bắt buộc (C). Ngược
lại, cây đêm dài sẽ trổ hoa khi độ dài
của đêm cao hơn giá trị bắt buộc (D), nhưng
sẽ không trổ hoa khi thấp hơn giá trị
bắt buộc (E); cây sẽ không trổ hoa nếu
đêm bị gián đọan bởi ánh sáng đèn làm
giảm thời gian tối liên tục thấp hơn giá
trị bắt buộc (F). Năm 1936 M. H. Chailakhian (người Nga) làm các thí nghiệm ảnh hưởng quang kỳ trên cây Thu cúc (Hình 4). Cắt bỏ lá ở nửa phần trên và chừa lại ở nửa phần dưới. Ðể phần có lá trong điều kiện ngày ngắn, đồng thời phần không có lá để trong điều kiện ngày dài: cây trổ hoa (Hình 4A). Sau đó ông làm thí nghiệm ngược lại, để phần có lá trong điều kiện ngày dài và phần không có lá ở trong điều kiện ngày ngắn; cây không trổ hoa (Hình 4B). Từ các kết quả thí nghiệm ông kết luận rằng độ dài của ngày không ảnh hưởng trực tiếp trên nụ, mà làm lá tạo ra một hormon rồi di chuyển từ lá lên chồi và gây cảm ứng cho sự trổ hoa. Hormon giả thiết này được đặt tên là florigen. Cho
đến nay người ta chưa phân lập
được hormon cảm ứng sự trổ hoa.
Có lẻ kích thích trổ hoa có sự tham gia
của gibberellin, cytokinin và một số carbohydrat làm thành
một phức hợp hơn là chỉ riêng chất
florigen.
* Phytochrom giúp cho cây nhận ra sáng hay tối. Làm sao cây nhận ra ánh sáng, phân biệt ngày đêm? Các nhà nghiên cứu đã phân lập được một sắc tố nhạy cảm ánh sáng, được gọi là phytochrom, là một protein được tìm thấy trong nhân và trong tế bào chất của tế bào thực vật với một nồng độ rất nhỏ. Phytochrom hiện diện dưới hai dạng: một dạng hấp thu áng sáng đỏ (Pr) và một dạng hấp thu ánh sáng đỏ đậm (Pfr). Khi Pr hấp thu ánh sáng đỏ, chúng nhanh chóng đổi thành Pfr. Ngược lại, sự hấp thu của ánh sáng đỏ đậm bởi Pfr nhanh chóng đổi lại thành Pr. Dạng Pr là dạng bền vững hơn; trong tối một số Pfr trở lại dạng Pr và một số bị tiêu hủy bởi enzim.
Vì ánh sáng mặt trời và ánh sáng từ đèn
điện thường chứa nhiều ánh sáng đỏ
hơn ánh sáng đỏ đậm, phần lớn Pr
trong ngày sẽ được biến đổi thành
dạng Pfr. Tuy nhiên, ban
đêm Pfr chuyển thành Pr hay bị tiêu hủy đi.
Tỉ lệ Pfr /Pr là dấu hiệu cho cây
nhận ra ngày hay đêm. Nếu
hầu hết sắc tố là dạng Pfr thì là ngày,
nếu tỉ lệ trên giảm thì là đêm.
Từ lâu người ta nghỉ rằng thời
gian chuyển đổi Pfr thành Pr là thước đo
để đo độ dài của đêm.
Ngược lại thì ánh sáng có thể chuyển
đổi tất cả sắc tố thành Pfr.
Thật ra cơ chế để cây biết
rằng độ dài của ngày và đêm còn tùy
thuộc rất nhiều yếu tô,ú liên quan đến
đồng hồ bên trong của cây và chưa có
bằng chứng để giải thích một cách
đầy đủ. a.
Sự phát sinh giao tử đực Mỗi bao phấn thường có bốn túi phấn, trong đó có những tế bào đặc biệt chịu sự giảm phân tạo ra nhiều tiểu bào tử (microspore) đơn bội. Mỗi tiểu bào tử được bao quanh bởi một vách dày rắn chắc (Hình 5). Mỗi tiểu bào tử phân chia một lần tạo ra hai nhân đơn bội gồm một nhân dinh dưỡng và một nhân sinh dục. Tế bào này phát triển thành hạt phấn (pollen grain). Lúc bấy giờ hạt phấn là cây giao tử thực vật đực. Hạt phấn được phóng thích khi các túi phấn trưởng thành được mở ra. Khi hạt phấn được nướm tiếp nhận do sự thụ phấn (pollination), ống phấn mọc dài ra; sự tăng trưởng do nhân dinh dưỡng điều khiển, cùng lúc đó nhân sinh dục phân chia tạo ra hai tinh trùng.
b. Sự phát sinh giao
tử cái
Trong một bầu noãn có một hay nhiều noãn (ovule), được gắn vào vách của bầu noãn bằng một cuống ngắn. Mỗi noãn có chứa một tế bào sinh bào tử đặc biệt gọi là bào tử nang (sporangium), tế bào này chịu sự giảm phân (Hình 6). Sự giảm phân xảy ra một lần trong mỗi noãn tạo ra bốn đại bào tử (megaspore) đơn bội, ba trong số đó sẽ hoại đi. Ðại bào tử còn lại tiếp tục gián phân một vài lần. Ở
nhiều loài, có một cơ cấu gồm 7 tế bào
với 8 nhân là giao tử thực vật cái còn
được gọi là túi phôi (embryo sac), trong đó có
một tế bào lớn hơn nhiều so với các
tế bào khác và có chứa hai nhân, được
gọi là nhân cực (polar nuclei) (Hình 6E). .
Một tế bào ở đầu của túi phôi là
tế bào trứng, hai bên là hai trợ cầu đối
diện với chúng là ba đối
cầu. Túi phôi ở bên
trong bầu noãn và sự dinh dưỡng hoàn toàn
lệ thuộc vào bầu noãn. a.
Sự thụ phấn (pollination) Sự
thụ phấn là sự chuyển hạt phấn từ
bao phấn đến nướm của hoa. Vì cây không
di chuyển được nên chúng lệ thuộc vào các
tác nhân bên ngoài như gió, côn trùng, chim... mang hạt
phấn đi. Màu
sắc và hình dạng của hoa, thời gian nở hoa,
hương thơm của hoa... là đặc trưng cho
từng kiểu thụ phấn.
Thông thường các phần tử trong hoa trưởng
thành không cùng lúc, nên cũng là một trong những
yếu tố ngăn cản sự tự thụ
phấn. Thường các
hoa thụ phấn chéo hơn là sự tự thụ
phấn, nghĩa là hạt phấn từ cây này rơi
trên nướm của một cây khác trong cùng một
loài. b.
Sự thụ tinh (fertilization) Sự
thụ tinh ở cây hột kín là sự thụ tinh
đôi (double fertilization). Hạt
phấn rơi trên nướm của nhụy cái, nướm
thường sần sùi và có chất nhày dễ dính.
Sau đó hạt phấn nẫy mầm và mọc
ra ống phấn. Hai nhân
trong hạt phấn đi vào trong ống phấn:
một nhân dinh dưỡng (tube nucleus) điều
khiển sự mọc dài của ống phấn; nhân còn
lại phân cắt tạo ra hai tinh trùng (giao tử đực)
(Hình 5F). Ôúng phấn
mọc xuyên qua mô của nướm, vòi và vào trong
bầu noãn (Hình 7). Khi
đầu của ống phấn vào trong noãn, chúng phóng
thích hai tinh trùng vào túi phôi.
Sau đó sự thụ tinh đôi xảy ra:
một tinh trùng thụ tinh với trứng và thành
lập hợp tử lưỡng
bội, một loạt các phân cắt đẳng
nhiễm xảy ra, hợp tử phát triển thành phôi
(cây bào tử thực vật mới).
Tinh trùng thứ hai kết hợp với hai nhân
cực tạo thành một hợp tử tam bội.
Hợp tử này cũng trải qua một loạt
phân cắt đẳng nhiễm tạo ra một mô tam
bội được gọi là phôi nhũ (endosperm).
Phôi nhũ là nguồn dự trử chất dinh dưỡng
để nuôi phôi. Phôi
và phôi nhũ được một lớp vỏ
cứng bao bọc. Cơ
cấu này được gọi là hột (seed) (Hình
8). Hột là một cơ
cấu tiến hóa để thích nghi cho sự phát tán
và sống sót trên đất liền, bảo vệ phôi
một cách an toàn cho đến khi gặp điều
kiện thuận lợi để mọc. Sự thụ tinh ở thực vật hột kín xảy ra không cần nước. Hạt phấn được mang đến nướm nhờ gió hay động vật, tinh trùng đến gặp trứng nhờ ống phấn. Kiểu thụ tinh này không cần tinh trùng có chiên mao để bơi lội trong nước để tìm trứng. Ðây là một đặc điểm thích nghi quan trọng cho đời sống trên đất liền. a.
Sự phát triển của phôi Trong
quá trình phát triển của hột, chất dự
trử được tích tụ và phôi trong giai đoạn
đầu tăng trưởng và phát triển rất
nhanh, sau đó ngừng tăng trưởng, phát
triển và mất nước.
Ở nhiều cây có một thời kỳ miên
trạng (dormancy) trước khi phôi tiếp tục
hoạt động trở lại.
Các hormon như
cytokinin, auxin, gibberellin và acid abscisic được tìm
thấy với nồng độ tương đối
cao trong hột ở những giai đoạn phát
triển khác nhau của hột và có vai trò quan trọng
trong kiểm soát quá trình phát triển. Lần
phân cắt đầu tiên của hợp tử có
thể xảy ra trong ngày hay ngay sau khi trứng được
thụ tinh. Sự phân
cắt luôn luôn tạo ra hai tế bào không bằng nhau;
một tế bào ngọn nhỏ và một tế bào
gốc to (Hình 9A), tế bào ngọn sẽ cho ra phôi,
tế bào gốc tạo ra dây treo (suspensor) (Hình 9B) dài và
chỉ có nhiệm vụ khi phôi còn trong hột.
Chất dinh dưỡng từ phôi nhũ đi vào
phôi qua dây treo này.
Hầu hết các tế bào dần dần mang các
đặc điểm của mô mà chúng sẽ chuyên hoá
thành, riêng hai nhóm tế bào ở đầu và cuối
của phôi thì vẫn giữ đặc điểm
của tế bào phân sinh. Một
nhóm ngay phía trên nơi các tử diệp gắn vào thì
sẽ trở thành mô phân sinh ngọn thân; nhóm ở
cực đối diện thì thành mô phân sinh ngọn
rễ. Như vậy, một phôi gồm một tử diệp (monocot) hoặc hai tử diệp (dicot), trục hạ diệp và mô phân sinh ngọn rễ và thân. Ở nhiều hột trong quá trình phát triển của phôi mô phân sinh vẫn tiếp tục phân cắt và tạo ra trục thượng diệp (epicotyl) là phía trên nơi gắn của tử diệp và thường mang các lá non đầu tiên. Phần đáy của phôi là rễ mầm (radicle), sẽ tạo ra rễ sơ cấp (Hình 10). Không
giống như ở động vật, phôi thực
vật không có đầy đủ các cơ quan
của một cây trưởng thành và nó sẽ
tiếp tục tăng trưởng và tạo ra các cơ
quan mới trong suốt đời sống của cây:
rễ mới, cành mới, lá mới và các cấu trúc
sinh dục mới trong mỗi mùa sinh trưởng
của chúng.
Sau cùng thì sự tăng trưởng và phát
triển của phôi dừng lại, phôi bắt đầu
mất nước và trở nên khô.
Các đáp ứng này của phôi đều
chịu sự kiểm soát của các hormon.
Giai đoạn phát triển cuối cùng của
hột có đặc điểm là do nồng độ
auxin và gibberellin giảm và nồng độ acid abscisic
tăng. Người ta
cho rằng acid abscisic giúp cho phôi trưởng thành và ngăn
cản sự nẩy mầm của hột.
b. Sự phát triển của hột Song
song với sự phát triển của phôi, noãn cũng có
những biến đổi để trở thành
hột. Kích thước
của hột rất biến thiên có thể rất
nhỏ đường kính dưới 0,1 mm như
ở hột Lan, 10 cm ở hột Dừa hay to hơn
nữa. Trong thời
kỳ miên trạng, phôi được bảo vệ là
nhờ vỏ hột (testa: seed coat), có nguồn gốc
từ các lớp vỏ của noãn, thường
cứng vì nhiều cương mô.
Ở nhiều cây, phôi nhũ tam bội được
tiêu hóa và chuyển chất dinh dưỡng vào tử
diệp trước khi hột trưởng thành, làm
tử diệp phồng to lên như tử diệp
của các cây họ Ðậu (Fabaceae) (Hình 10).
Ở một số hột nhỏ như hột Lan
thì hoàn toàn không có phôi nhũ vì không có sự
phối hợp của tinh trùng với hai nhân cực.
Chúng nhờ vào nấm rễ cộng sinh
để lấy chất dinh dưỡng cho giai
đoạn đầu của sự phát triển
của hột. Hột
được gọi là trưởng thành khi sự phát
triển của phôi dừng lại.
Thời kỳ miên trạng của hột là lúc mà
các hoạt động biến dưỡng của
hột ở mức thấp nhất.
Hột lúc này chỉ chứa khoảng 10% nước.
Vỏ hột ngăn cản nước và oxy
thấm qua. Ở
một số hột có một số hóa chất trong
hột ngăn cản sự nẩy mầm.
Nhờ thế nhiều hột có thể sống
chậm lại từ nhiều tháng đến nhiều
năm, do vậy có thể lưu trử hột
được lâu dài. Thường
hột của các cây sống ở vùng nhiệt đới
không có thời kỳ miên trạng này, vì điều
kiện thuận lợi cho sự nẩy mầm gần
như có suốt năm, và vì giữa các mùa thời
tiết không có sự khác biệt quá lớn.
Trong
lúc noãn phát triển thành hột, bầu noãn của hoa
phát triển thành trái (fruit).
Trái bảo vệ cho hột.
Ở nhiều cây hột kín các phần tử khác
trong hoa cũng phát triển đồng thời với
bầu noãn và trong dân gian từ thường dùng cũng
là trái. Thí dụ:
ở Ðào lộn hột phần thường được
gọi là trái là do cuống của hoa phù mập mà
tạo thành; trái thật sự là phần thường
được gọi là hột. Cũng như ở dâu
tây phần phù mập là do đế hoa phát triển;
trái thật sự là những hạt nhỏ li ti
nằm trên phần đế phù mập đó.
Trái bắt đầu phát triển sau khi sự
thụ phấn làm hormon thay đổi và là nguyên nhân làm
cho bầu noãn tăng trưởng nhanh chóng.
Thành của bầu noãn trở thành quả bì
(pericarp) (Hình 8 và 11), trong khi bầu noãn tăng trưởng,
các phần khác của hoa héo đi, cùng lúc là sự phát
triển của hột. Nếu
không được thụ phấn, trái không được
tạo ra thì tất cả các thành phần của hoa
sẽ rụng đi.
Trái có thể được chia ra làm nhiều
loại tùy thuộc nguồn gốc phát sinh của chúng.
*
Quả đơn (simple fruit) là một trái xuất phát
từ một bầu noãn đơn độc,
quả đơn có thể phù mập (fleshy fruit) như
Ðu đủ, Dưa hấu... nhưng cũng có thể
hóa khô như trái Ðậu (pod)...
Trái khô khi chín có thể tự nứt ra được
gọi là quả khô
tự khai như trái Trôm, Bả đậu, Sầu riêng...
còn nếu không thì được gọi là quả khô
bất khai như trái Sen, Dầu, Sao... *
Quả kép (aggregate fruit) thường gặp hai loại
là hợp quả (hay quả tụ)
và đa quả. Hợp
quả là trái được phát triển từ
một hoa có nhiều bầu noãn riêng biệt, mỗi
bầu noãn phát triển thành trái và kết dính lại
thành một trái duy nhất như trái Mảng cầu, Bình
bát... Ða quả (multiple fruit) như ở Khóm, trái do
một phát hoa (gồm nhiều hoa) phát triển thành,
mỗi hoa phát triển thành một trái và liên kết
lại thành một trái duy nhất. *
Giả quả là kiểu trái mà phần thường
được gọi là trái thì không phải là
từ bầu noãn mà từ những bộ phận khác
như cuống hoa ở Ðào lộn hột, đế
hoa ở Dâu tây, Sung. Thông
thường thời gian chín của trái cùng lúc với
thời gian chín của hột mà nó chứa bên trong. Trái
vừa bảo vệ cho hột vừa là phương
tiện giúp cho hột phát tán.
Trái có thể mang hột đi nhờ gió, nhờ
động vật và cả con người.
Các trái có các phụ bộ, các lông mào như trái
của cây họ Cúc (Asteraceae) (Hình 12), thường
được gọi là hột, hay trái có thể mang các
cánh như trái của cây Trâm bầu, trái Tì dực...
Nhiều trái có quả bì khô khi chín và có thể
nứt ra phát tán hột.
Ở các trái mập, phần phù mập thường
chứa nhiều chất dinh dưỡng và thường
trái có màu sắc hấp dẫn tư ìđỏ, cam,
đến vàng... đó là các yếu tố hấp
dẫn động vật ăn quả bì của trái và
cũng là cách để phát tán hột từ nơi này
đến nơi khác. Con người xuất nhập
khẩu nhiều loại trái khác nhau, cũng là một
hình thức để phát tán hột.
Ngoài phát tán nhờ trái,
bản thân hột cũng có những phương
tiện để tự phát tán.
Hột có cánh như hột cây Quao, cây Cám...,
hột có mang chùm lông tơ để bay theo gió như
hột cây Thuốc bắn, cây Sứ cùi... thuộc
họ Trúc đào (Apoynaceae) hay các cây thuộc họ Thiên
lý (Asclediadaceae)... (Hình 13).
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||