Sự quang hợp |
|
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
=============================================================== CHƯƠNG
4
SỰ
QUANG HỢP
Trái đất được thành lập cách nay
khoảng 4, 5 tỉ năm. Các sinh vật đầu tiên
xuất hiện cách nay khoảng 3,5 - 4 tỉ năm.
Có lẻ các sinh vật sơ khai này tổng
hợp thức ăn cho chúng từ những vật
chất vô cơ bằng sự hóa tổng hợp
(chemosynthesis), tức là lấy năng lượng
từ các phản ứng hóa học từ các chất vô
cơ như H2, NH4, H2S, hiện nay nhóm sinh vật này
vẫn còn tồn tại trong những môi trường
rất đặc biệt như trong các hố xí,
suối nước nóng có sulfur và các miệng núi
lửa trên các sàn đại dương.
Sau đó xuất hiện nhóm sinh vật có
khả năng hấp thu năng lượng ánh sáng
mặt trời để tổng hợp ra các hợp
chất hữu cơ phức tạp, sự quang tổng
hợp (photosynthesis), thường được gọi
tắt là sự quang hợp, đây là một quá trình
sinh học, chuyển năng lượng ánh sáng thành năng
lượng hóa học. Các
sinh vật quang hợp đầu tiên này không tạo ra
oxy. Về sau một
số tế bào có khả năng sử dụng nước
cho sự quang hợp, tạo ra O2, dần dần tích
tụ trong khí quyển, một số sinh vật
tiến hóa khác có khả năng sử dụng O2 xúc tác
trong các phản ứng để giải phóng năng lượng
trong các phân tử thức ăn.
Quá trình này được gọi là sự hô
hấp hiếu khí (aerobic respiration).
Sự quang hợp sử dụng CO2 và H2O tạo ra
từ sự hô hấp hiếu khí và sự hô hấp
hiếu khí thì sử dụng thức ăn và O2 sinh ra
từ sự quang hợp.
Ngày nay hầu hết các sinh vật đều
lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp vào
sự quang hợp. Sinh
vật tự dưỡng (autotroph) là sinh vật tự
tổng hợp chất hữu cơ từ vật
chất vô cơ qua sự quang hợp; gồm hầu
hết là các thực vật xanh.
Sinh vật dị dưỡng
(heterotroph) là sinh vật phải lấy thức ăn
hữu cơ từ môi trường chung quanh, chúng tiêu
thụ các sinh vật tự dưỡng.
I. ÐẠI CƯƠNG
1772,
Joseph Priestley (người Anh), làm thí nghiệm (Hình 1) dùng
hai chuông thủy tinh, một bên để vào một
chậu cây và bên kia để một con chuột, sau
một thời gian cả hai đều chết, nhưng
nếu để chúng chung lại với nhau thì chúng
đều sống, thí nghiệm của ông cho thấy cây
tạo ra oxy, mặc dù lúc đó người ta chưa
biết được các quá trình cũng như chưa
biết được vai trò chính yếu của ánh sáng
trong sự quang hợp. Hình
1. Thí nghiệm của
Priestly
Phát hiện của ông là khởi đầu cho
những nghiên cứu về sau, đến thế
kỷ 19 người ta đã biết các thành phần
chính tham gia vào quá trình quang hợp là:
Trước đây, các nhà khoa học nghỉ
rằng oxy được tạo ra trong quá trình quang
hợp là từ CO2, nhưng ngày nay người ta
biết rằng O2 là từ sự phân ly của
những phân tử nước.
Tóm
tắt hai phương trình trên:
Một trong những sản phẩm của quang
hợp là glucoz, một đường 6C nên có thể
tóm tắt như sau:
Phản ứng tuy đơn giản nhưng quá trình
trải qua rất nhiều phản ứng, có những
phản ứng cần ánh sáng (pha sáng), nhưng có
những phản ứng xảy ra không cần ánh sáng
(pha tối).
CO2
là một hợp chất nghèo năng lượng, trong
khi đường thì giàu năng lượng.
Do đó, sự quang hợp không những là sự
biến đổi năng lượng ánh sáng thành năng
lượng hóa học mà còn dự trử chúng
bằng sự tổng hợp chất giàu năng lượng.
Theo từ ngữ hóa học, năng lượng
được dự trử bởi sự khử
(reduction), tức là sự thêm vào một hay nhiều
điện tử. Quá
trình ngược lại là sự oxy hóa (oxidation), là
sự giải phóng năng lượng từ một
hợp chất bởi sự lấy đi một hay
nhiều điện tử. Trước
đây, từ này có nghĩa là phản ứng thêm vào
hay mất đi oxy. Tuy
nhiên, hiện nay từ này dùng cho cả những
phản ứng không có oxy tham gia.
Thí dụ, trong những phản ứng sinh hóa
học, sự dẫn truyền điện tử thường
đi kèm theo sự trao đổi của một hay
nhiều nguyên tử hydro. Mối
liên hệ giữa chúng được được tóm
tắt trong bảng 4. Ðiểm
cần chú ý là: sự khử là sự nhận điện
tử, dự trử năng lượng trong chất
bị khử, ngược lại sự oxy hóa là
sự mất đi điện tử, giải phóng năng
lượng từ chất bị oxy hóa.
Bảng 1.
Những phản ứng oxy hóa khử (redox
reactions)*
*
McFadden. 1995
Vì một điện tử được một
phân tử nhận phải là được lấy
đi từ một phân tử khác, có nghĩa là khi có
một chất nào đó bị khử thì theo đó là
chất khác bị oxy hóa. Vì
phản ứng khử phải đi cùng phản ứng
oxy hóa với một điện tử được
thêm vào chất này là được lấy đi
từ chất khác nên phản ứng này được
gọi là phản ứng oxy hóa khử (redox reaction: reduction
- oxidation).
Trong các phản ứng oxy hóa khử của sự
quang hợp, năng lượng của ánh sáng mặt
trời làm phân ly phân tử nước và khử CO2 thành
dạng đường giàu năng lượng.
Nói một cách khác, ion H+ và điện tử do
sự phân ly của những phân tử nước
được cung cấp cho CO2 để tạo ra
hợp chất khử với đơn vị căn
bản là (CH2O), và năng lượng từ ánh sáng
mặt trời được dự trử trong quá trình
này. Trong sự quang
hợp, cần chú ý cơ chế hấp thu và sử
dụng năng lượng ánh sáng mặt trời và cơ
chế chuyển hydro và điện tử từ nước
đến CO2.
Mặc
dù sự quang hợp có thể xảy ra ở tất
cả những phần xanh, có chứa diệp lục
tố, của cây, nhưng cơ quan chính có chứa
nhiều diệp lục tố là lá, nên lá xanh là cơ
quan chính của sự quang hợp.
Thông thường lá cây gồm cuống lá (petiole)
và phiến lá (blade) (một số lá không có cuống,
phiến lá gắn trực tiếp vào thân).
Phiến lá rộng, mỏng với một hệ gân
lá phức tạp. Dưới
kính hiển vi, có thể thấy lá được bao
bọc bởi một lớp biểu bì (epidermis), thường
chỉ có một lớp tế bào, đôi khi 2 hay 3 hay
nhiều hơn (Hình 2). Bên
ngoài được bao phủ bởi một lớp
cutin, bao cả biểu bì trên và dưới; chức năng
chính của biểu bì là bảo vệ những mô bên
trong của lá, tránh mất nước, chống sự
xâm nhập của nấm và các tác nhân gây hại khác.
Thường tế bào biểu bì không có chứa
lục lạp nên không có chức năng quang
hợp.
Giữa hai lớp biểu bì là diệp nhục
(mesophyll), các tế bào diệp nhục chứa nhiều
lục lạp nên còn được gọi là lục mô,
và là mô chính tham gia vào sự quang hợp của cây.
Diệp nhục thường chia thành hai phần:
lục mô hàng rào ở phía trên (palisade mesophyll), gồm
những tế bào hình trụ xếp thẳng đứng,
và lục mô xốp
(khuyết) (spongy mesophyll) gồm những tế bào có hình
dạng không nhất định và sắp xếp
bất định. Các
tế bào của cả hai phần liên kết với
nhau rất lỏng lẻo và có những khoảng
trống giữa chúng. Những
khoảng trống này thông ra bên ngoài không khí bởi
những lỗ được gọi là khí khẩu
(stomata), CO2 cần thiết cho quá trình quang hợp
từ không khí đi vào lá qua các khí khẩu này.
Sự đóng mỡ của khí khẩu được
điều tiết do hai tế bào khẩu nằm trên
biểu bì.
Hệ gân lá (các bó mạch) phân nhánh từ
cuống lá vào phiến lá làm thành bộ
khung cho phiến lá và mô dẫn truyền là đường
dẫn truyền chính nối liền với các thành
phần khác của cây. Mỗi
bó mạch gồm hai loại mô chính: mô mộc, và mô
libe, vận chuyển các vật chất hữu cơ
đi khắp cây. Mỗi
bó mạch thường được bao quanh bằng
những tế bào làm thành bao (bundle sheath).
Mô mộc cung cấp nước cần thiết
cho sự quang hợp ở tế bào diệp nhục và
sản phẩm cuối cùng là carbohydrat được
chuyển đến các tế bào khác trong cây nhờ mô
libe.
Hình 2.
Cấu tạo của lá C3
Lục
lạp được hai màng bao bọc và chứa
một hệ thống màng bên trong làm thành các túi
dẹp thông thương với nhau được
gọi là thylakoid. Một
số thylakoid có hình dĩa xếp chồng lên nhau như
một chồng đồng xu gọi là grana.
Màng thylykoid ngăn cách giữa những phần bên
trong của thylakoid và chất cơ bản của
lục lạp (stroma) (Hình 9, chương 1).
Những phản ứng trong pha sáng của sự
quang hợp xảy ra ở trong hay ở trên màng
thylakoid. Những
phản ứng trong pha tối của sự quang hợp
xảy ra trong phần dịch của chất cơ
bản bao quanh các túi thylakoid. II.
PHA SÁNG CỦA QUÁ TRÌNH QUANG HỢP
Pha sáng của quá trình quang hợp là gọi chung các
phản ứng trong đó có một số phản
ứng cần sự hiện diện của ánh sáng.
Diệp
lục tố và các sắc tố phụ cần
thiết cho quá trình quang hợp tổ chức thành hai
hệ thống quang I và II, cả hai đều ở trên
màng thylakoid. Mỗi
hệ thống quang chứa khoảng 300 phân tử
sắc tố, gồm từ 5 đến 10 LHC
(Light-harvesting complex), mỗi LHC II gồm ba bán đơn
vị, mỗi bán đơn vị gồm một protein,
7 phân tử chlorophyll a, 5 chlorophyll b và 2 carotenoid.
Mỗi hệ thống quang có một trung tâm
phản ứng (reaction
center) gồm có 4 phân tử sắc tố, 4 phân tử
enzim tất cả được gắn với nhau
nhờ một phân tử protein, những phân tử
sắc tố khác hoạt động như những
anten, hai hệ thống này hấp thu năng lượng
của ánh sáng có độ dài sóng khác nhau và
truyền năng lượng về trung tâm phản
ứng. Hệ thống
quang I chứa phức hợp trung tâm phản ứng
P700, vì nó không thể hấp thu ánh sáng có độ dài
sóng cao hơn 700 nm; hệ thống
quang II chứa phức
hợp trung tâm phản ứng P680, vì nó không thể
hấp thu ánh sáng có độ dài sóng cao hơn 680
nm (Hình 3). Hình
3. Hệ thống quang I
và II trên màng thylakoid
Khi một quang tử (photon) được một
phân tử sắc tố hấp thu, năng lượng
được chuyền vào một điện tử
của một phân tử sắc tố, hoạt hóa
điện tử này lên một mức năng lượng
cao hơn (Hình 4). Trạng
thái hoạt hóa này có thể đi từ phân tử
sắc tố này sang phân tử sắc tố khác đến
trung tâm phản ứng (Hình 5).
Khi điện tử được thu nhận, phân
tử ở trung tâm phản ứng trở thành một
chất có xu hướng cho điện tử, và
đưa điện tử này đến một phân
tử tiếp nhận điện tử chuyên biệt
(acceptor molecule). Sau đó,
điện tử này được vận chuyển
qua một chuỗi dẫn truyền
điện tử (electron-transport chain).
Hình 4. Ảnh hưởng của ánh sáng trên diệp lục tố Hình 5. Ðường đi của quang tử
Trong
hệ thống quang I, phân tử tiếp nhận điện
tử đầu tiên là một protein có
chứa FeS. P700 bị
oxy hóa và chuyển điện tử cho protein FeS nên
protein này bị khử. Sau
đó điện tử từ FeS được
một chất nhận điện tử kế tiếp
tiếp nhận (Hình 6). Trong
mỗi chuỗi dẫn truyền điện tử
chất nhận điện tử trở thành chất
khử và chất cho điện tử thành chất oxy
hóa. Chất nhận
điện tử thứ hai là Fd.
Chất nhận điện tử thứ ba trong
chuỗi dẫn truyền điện tử là phức
hợp FAD, sau đó nó chuyển điện tử cho Hình
6. Sự dẫn
truyền điện tử trong hệ thống quang I
NADP+(nicotinamid adenin dinucleotid phosphat), chất này
ở trong stroma. Mỗi phân tử NADP+có thể nhận
hai điện tử từ FAD và một ion H+ từ
stroma của lục lạp và bị khử thành NADPH.
NADPH ở trong stroma sẽ là chất cho điện
tử trong sự khử CO2 thành carbohydrat.
Trong hệ thống quang II, trung tâm phản ứng
sau khi nhận năng lượng từ những phân
tử sắc tố đưa tới trở thành
một chất có xu hướng cho điện tử
mạnh. Chất
nhận điện tử đầu tiên là Q.
Q chuyển điện tử vào một chuỗi
dẫn truyền điện tử; đưa điện
tử từ hệ
thống quang II đến hệ thống quang I, nơi
đã mất điện tử đã nói ở trên.
Ðiện tử được chuyển từ
hệ thống quang II sang hệ thống quang I cùng lúc
ion H+ được bơm từ stroma vào bên trong túi
của thylakoid. Phân
tử PQ vừa tải được điện
tử vừa mang được ion H+.
PQ cơ động trong màng, nó nhận 2 ion H+ và
hai điện tử từ màng phía bên stroma (trở thành
PQH2) và đi qua phía bên kia của màng thylakoid.
Phân tử dẫn truyền điện tử
kế tiếp là trong chuỗi là cytochrom f, nhận điện
tử từ PQH2 nhưng không nhận ion H+, do đó ion
H+ vẫn ở bên trong thylakoid.
Sau đó điện tử được protein
tải cơ động PC (plastocyanin) chuyển đến
hệ thống quang I. Hậu
quả của việc chuyển điện tử này là
sự vận chuyển tích cực của ion H+ từ
stroma vào phía trong của thylakoid.
Nồng độ ion H+ trong thylakoid tăng (pH
khoảng 4) và bên ngoài giảm đi tạo ra một
sự chênh lệch về nồng độ ion
H+giữa hai bên của màng thylakoid.
Hơn nữa, một khuynh độ điện
thế được sinh ra: stroma mất điện tích
dương, trở nên có điện tích âm hơn và
trong thylakoid có chứa nhiều ion H+ trở nên có điện
tích dương. Sự
khác biệt về điện tích và nồng độ
ion H+sinh ra khuynh độ hóa điện là nguồn năng
lượng cho sự tổng hợp ATP.
Sau khi điện tử từ hệ thống quang
II chuyển sang hệ thống quang I, thì hệ thống
quang II sẽ nhận điện tử từ nước.
Hệ thống quang II là một phức hợp
protein gồm: những sắc tố anten, trung tâm
phản ứng P680, và phức hợp enzim để phân
ly phân tử nước, phức hợp enzim này có
chứa một nhóm gồm bốn ion mangan (cofactor) ở
hoạt điểm của nó.
P680, sau khi chuyển điện tử đi trở
thành P680+ và có xu hướng nhận điện tử
mạnh. P680+ với
sự trợ giúp của enzim phân ly nước và
một phức hợp enzim
Z lấy điện tử từ nước, giải phóng
ion H+ tự do và oxy phân tử (Hình 7). Hình
7. Sự dẫn
truyền điện tử trong hệ thống quang II
Oxy là sản phẩm khí được giải phóng,
khuếch tán ra khỏi tế bào, đi ra ngoài khí
quyển qua khí khẩu. Ion
H+ ở bên trong thylakoid và tạo ra khuynh độ hóa
điện xuyên màng. Có
thể tóm tắt đường đi của điện
tử như sau:
Trình tự này cho thấy rằng điện
tử cần thiết để khử CO2 thành
carbohydrat là từ nước, nhưng sự vận
chuyển điện tử từ nước đến
carbohydrat là một quá trình gián tiếp và phức
tạp. Ðiện tử
đi theo một con đường và không thành một
vòng (noncyclic). Kết
quả của quá trình: thành lập NADPH, giải phóng
oxy phân tử và sinh ra một khuynh
độ hóa điện xuyên màng thylakoid.
Hình
8. Phân tử ATP
Các nối giữa P thứ nhất và P thứ hai
và nối giữa P thứ hai và P thứ ba
thường được gọi là nối
phosphat giàu năng lượng (high energy).
Khi nối này bị thủy giải thành ADP và P
sẽ phóng thích năng lượng hữu dụng.
ATP được thành lập và thủy giải
trong tế bào.
Nếu nối phosphat cuối cùng bị thủy
giải thì hợp chất còn lại là ADP (adenosin
diphosphat); nếu cả hai nối đều bị
thủy giải thì chất còn lại là AMP (adenosin
monophosphat).
Một ATP mới có thể được thành
lập từ ADP và P vô cơ nếu đủ năng lượng
để thành lập cầu nối phosphat vào ADP.
Sự thêm gốc phosphat này được gọi
là sự phosphoryl hóa
(phosphorylation)
Các phản ứng trong pha sáng của sự quang
hợp thường được gọi là quang
phosphoryl hóa (photophosphorylation), có nghĩa là sự sử
dụng năng lượng ánh sáng để gắn
một P vô cơ vào một phân tử, thường là
ADP, dù người ta biết rằng sự hấp thu năng
lượng ánh sáng và sự phosphoryl hóa là những
phản ứng riêng biệt.
Trong lục lạp, ATP được tổng
hợp như thế nào? Có nhiều giả thuyết,
trong đó phổ biến nhất là thuyết hóa
thẩm thấu (chemiosmotic hypothesis) do Peter Mitchele (Glynn
Research Laboratories ở Anh) đưa ra năm 1961.
Giả thuyết này dựa trên cơ sở là
kết quả sự dẫn truyền điện tử
làm bơm ion H+ xuyên qua màng sinh ra một khuynh độ
hóa điện, khuynh độ này cung cấp năng lượng
để tổng hợp ATP.
Trên màng thylakoid có rất nhiều enzim ATP synthetaz.
Phức hợp này có hai chức năng: vừa là
kênh ion H+ vừa là enzim xúc tác tổng hợp ATP.
Khi ion H+ đi qua kênh theo chiều khuynh độ
nồng độ của nó (từ vùng có nồng độ
cao bên trong thylakoid qua vùng có nồng độ thấp
trong stroma); ATP được tổng hợp từ ADP và
P và được giải phóng vào stroma (Hình 9). Hình
9. Sơ đồ
tổng hợp ATP
Vì năng lượng của ánh sáng cuối cùng
là cung cấp cho sự phosphoryl hóa ADP thành ATP và điện
tử thì không quay vòng lại, nên cả quá trình
được gọi là sự
quang phosphoryl hóa không vòng (noncyclic photophosphorylation).
Sản phẩm cuối cùng của quá trình là
ATP, NADPH và oxy phân tử. NADPH
và ATP sẽ được sử dụng để
khử CO2 trong pha tối, O2 được khuếch tán
ra khỏi lá. Các
phản ứng của sự quang phosphoryl hóa từ lâu
được hiểu là pha sáng của quá trình quang
hợp, thật ra chỉ có hoạt động của
hai hệ thống quang là trực tiếp lệ
thuộc vào ánh sáng (Hình 10).
Hình
10. Lộ trình phosphoryl
hóa không vòng
Có
hai lộ trình (pathway) sử dụng năng lượng
ánh sáng để tạo ra ATP.
Lộ trình không vòng như đã đề
cập ở trên và lộ trình có vòng (cyclic pathway),
chỉ có một hệ thống quang tham gia.
Trong lộ trình có vòng điện tử mang năng
lượng ánh sáng bắt đầu từ hệ
thống quang I đi qua
một phần của chuỗi dẫn truyền điện
tử, đầu tiên là FeS (Hình 4.11), kế tiếp
đến Fd và sau đến b6 là một protein tải
cơ động và chuyển điện tử trở
vào chuỗi dẫn truyền điện tử bắt
đầu từ PQ. Ðiện
tử đi theo một vòng và không có nguồn điện
tử từ bên ngoài tham gia vào.
Tương tự lộ trình không vòng đã đề
cập ở trên, sự vận chuyển điện
tử qua PQ và chuỗi dẫn truyền điện
tử có thể dùng để bơm ion H+ xuyên qua màng
(Hình 4.10) sinh ra một khuynh độ hóa điện.
Sau đó, năng lượng của khuynh độ
này được dùng để tổng hợp ATP
từ ADP vì ion H+ đi qua phức hợp ATP synthetaz.
Cả quá trình từ sự đi một vòng
của điện tử và ion H+ được bơm
để sau đó tổng hợp ATP được
gọi là sự quang phosphoryl hóa vòng (cyclic
photophosphorylation). Quá trình
này chỉ tạo ra ATP. Hình
11. Lộ trình phosphoryl
hóa vòng
Như vậy, khi nào các phản ứng trong
lục lạp xảy ra trong lộ trình vòng hay không vòng?
Các nghiên cứu tập trung vào NADP+, khi có đủ
NADP+để nhận điện tử, các phản
ứng đi theo lộ trình không vòng.
Lộ trình vòng chỉ xảy ra khi nào thiếu
NADP+, nhưng thật ra NADPH được sử
dụng cho rất nhiều phản ứng sinh tổng
hợp trong lục lạp nên NADP+ luôn được
tạo ra, nên lộ trình vòng không thể xảy ra
được.
Sự quang phosphoryl hóa vòng là kiểu quang hợp
của những sinh vật đầu tiên, hiện nay
chỉ xảy ra ở những vi khuẩn quang hợp như
vi khuẩn lục và vi khuẩn tím.
Ở thực vật đa bào, sự quang phosphoryl
hóa vòng chỉ là phụ cho quá trình quang phosphoryl hóa không
vòng, để cung cấp thêm một ít ATP cho tế bào. III.
PHA TỐI - CHU TRÌNH CALVIN-BENSON
ATP và NADPH được tạo ra trong pha sáng
được sử dụng để tổng hợp
carbohydrat từ CO2. Các
phản ứng để tổng hợp carbohydrat thường
được gọi là những phản ứng
tối vì nó có thể xảy ra trong tối, chỉ
cần có đủ ATP và NADPH, những phản ứng
này đòi hỏi những sản phẩm của pha sáng,
nhưng nó không trực tiếp sử dụng ánh sáng.
Tuy nhiên, ở hầu hết thực vật,
sự tổng hợp carbohydrat chỉ xảy ra ban ngày,
ngay sau khi ATP và NADPH được tạo ra.
Sự khử CO2 nghèo năng lượng để
tạo ra đường giàu năng lượng
diễn ra qua nhiều bước, mỗi bước
được một enzim xúc tác.
Thật vậy, CO2 được đưa lên
một khuynh độ năng lượng cao hơn qua
một chuỗi hợp chất trung gian không bền
cuối cùng tạo ra sản phẩm cuối cùng giàu năng
lượng là carbohydrat. ATP
và NADPH cần thiết cho các phản ứng này tạo
ra trong stroma (Hình 12) và sự tổng hợp carbohydrat cũng
xảy ra trong stroma.
Hình
12. Sơ đồ tóm
tắt các phản ứng của hai pha sáng và pha
tối Hình 13. Sơ đồ chu trình Calvin-Benson
Chu trình bắt đầu khi CO2 từ không khí
kết hợp với đường 5C được
gọi là
ribuloz
bisphosphat (RuBP) tạo ra một đường 6C không
bền. Sau đó phân
tử đường 6C này được cắt ra làm
hai tạo ra hai phân tử acid phosphoglyceric hay PGA (Hình13).
Enzim xúc tác cho phản ứng này là ribuloz bisphosphat
carboxylaz hay Rubisco, đây là chìa khoá của phản
ứng sinh tổng hợp trong quang hợp.
Kế đến, mỗi phân tử PGA được
gắn thêm vào một gốc phosphat từ phân tử
ATP. Sau đó NADPH
chuyển điện tử và hydro cho chúng.
Ở những phản ứng này có sự tham gia
của các sản phẩm từ pha sáng.
Kết quả là một hợp chất 3C giàu năng
lượng được tạo ra phosphoglyceraldehyd hay PGAL.
PGAL là một đường thật sự và là
sản phẩm bền của quá trình quang hợp.
Một số PGAL được tổng hợp thành glucoz và sau đó thành tinh bột và được dự trử trong lục lạp, một số glucoz được đưa ra ngoài tế bào chất, ở đây nó được kết hợp và sắp xếp lại trong một chuỗi phản ứng để tạo ra sucroz, để được vận chuyển đi đến những phần khác của cây. Dù glucoz là dạng đường thường được xem là sản phẩm cuối cùng của quá trình quang hợp, nhưng thật ra chúng hiện diện rất ít trong hầu hết tế bào thực vật. Phần lớn PGAL được sinh ra trong tế bào được sử dụng để tổng hợp tinh bột, acid béo, acid amin và nucleotid hay được hô hấp hiếu khí để tạo ra năng lượng cho tế bào. Thông thường glucoz sau khi được tổng hợp sẽ được chuyển ngay thành sucroz, tinh bột, celluloz hay những đường đa khác.
Phần lớn các phân tử PGAL được dùng
để tạo ra những RuBP mới, sự tái
tạo
chất nhận CO2 trải qua một chuỗi những
phản ứng phức tạp và đòi hỏi cung
cấp ATP. Sự tái
tạo chất nhận CO2 khép kín chu trình Calvin-Benson. IV. SỰ QUANG HỢP Ở CÁC NHÓM C3, C4 VÀ CAM
Các cây quang hợp theo quá trình mô tả ở trên được gọi là các cây C3 vì sản phẩm trung gian là PGAL là một hợp chất có 3C.
Trong chu trình Calvin-Beson, enzim Rubisco xúc tác phản
ứng gắn CO2 vào
RuBP để bắt đầu chu trình, enzim này cũng
gắn được với O2 và khi đó nó oxy hoá
RuBP để giải phóng CO2 và không bắt đầu
chu trình được. Nói
cách khác, CO2 và O2 đều là cơ chất cùng
tranh giành hoạt điểm của enzim Rubisco.
Khi nồng độ CO2 cao, O2 thấp thì CO2 có
lợi thế hơn và sự tổng hợp carbohydrat
theo chu trình Calvin-Beson. Nhưng
ngược lại thì O2 gắn vào RuBP và oxy hoá
chất này, hiện tượng này gọi là sự
quang hô hấp (photorespiration).
Không giống các kiểu hô hấp khác, quá trình này
không tạo ra ATP nên là quá trình lãng phí đi kèm theo
chu trình Calvin-Beson. Một số cây sống ở vùng nóng và khô, để tránh mất nước khí khẩu thường đóng lại nên nồng độ CO2 trong những khoảng trống giữa các tế bào rất thấp, để tránh bớt sự quang hô hấp xảy ra, các cây này có một cơ cấu khác các cây C3 được gọi là cơ cấu "Krans" (từ tiếng Ðức có nghĩa là "wreath" để chỉ sự sắp xếp thành vòng bao quanh gân lá của những tế bào diệp nhục). Ở các cây này, thường là những cây Ðơn tử diệp như Mía, Bắp... tế bào bao quanh bó mạch chứa rất nhiều lục lạp và các tế bào diệp nhục xếp thành vòng bao quanh các tế bào bao này (Hình 14). Vào những năm 1960, M. D. Hatch và C. R. Slack nghiên cứu sự quang hợp ở những cây này nhận thấy rằng khi nhiệt độ cao và cường độ ánh sáng mạnh, ở các cây này CO2 kết hợp với một hợp chất C3 (phosphoenolpyruvate: PEP) trong tế bào diệp nhục tạo ra một hợp chất C4 và đưa chất này vào tế bào bao. Trong tế bào bao, hợp chất C4 được cắt ra thành CO2 và một hợp chất C3 khác. Do vậy, CO2 vẫn ở trong tế bào bao và được đưa vào chu trình Calvin-Beson để tổng hợp carbohydrat. Như vậy, tế bào diệp nhục hoạt động như một cái bơm CO2. Các cây này được gọi là cây C4.
Là một biến đổi của con đường
quang hợp C4 lần đầu tiên được phát
hiện ở thực vật có hoa Họ Crassulaceae
(Họ cây Thuốc bỏng).
Chúng cũng có ở những cây Khóm của
Họ Bromeliaceae. Sự
quang hợp của các cây CAM bao gồm cả lộ trình
Calvin-Beson, những phản ứng này diễn ra trong cùng
một tế bào, nhưng xảy ra ở những
thời điểm khác nhau.
Thực vật CAM có khả năng mở khí
khẩu theo kiểu khác thường và cố định
CO2 thành hợp chất C4 vào ban đêm hơn là ban ngày
như những thực vật khác.
Hợp chất C4 được tạo ra trong
tối được trử lại trong không bào
của tế bào diệp nhục và được
đưa trở lại tế bào chất của cùng
tế bào đó để khử CO2 ngay sau khi ban ngày
trở lại. CO2
giải phóng từ hợp chất C4 sau đó được
cố định trong lục lạp theo cách bình thường
thông qua RuBP và chu trình Calvin-Beson.
Quá trình sinh hoá đặc biệt này giúp cho cây có
thể sống sót trong điều kiện thật nóng
và khô. Khí khẩu
đóng suốt ngày tránh mất nước, chỉ
mở ra vào ban đêm để lấy CO2 khi mà sự
bôc hơi nước ở mức thấp nhất.
Sự tập trung và tích tụ của CO2 suốt
đêm đủ cho sự quang hợp trong ngày sau.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||