CHƯƠNG
IV
ÐA
DẠNG ÐỘNG VẬT: ÐỘNG VẬT BẬC
THẤP
Giới động vật rất đa
dạng, đến nay đã mô tả được
hơn một triệu loài, hầu hết là
những loài có kích thước lớn, đặc
biệt là những động vật có xương
sống. Giới động vật được
chia làm ba giới phụ:
*
Giới
phụ động vật đơn bào (Protozoa):
bao gồm các động vật cơ thể
chỉ có một tế
bào (trước đây được sắp
xếp vào một ngành duy nhất là ngành
Protozoa: động vật nguyên sinh).
*
Giới
phụ động vật đa bào trung gian
(Parazoa): bao gồm các động vật có cơ
thể
được cấu tạo bởi nhiều
tế bào, mỗi
tế bào đều có hoạt động
sống độc lập nhưng lại có tính
hợp tác với nhau trong tổ chức cơ
thể. Các
động vật này chỉ được
sắp xếp vào một ngành Porifera (Thân
lỗ).
*
Giới
phụ động vật đa bào (Metazoa): cơ
thể được cấu tạo bởi
nhiều tế bào, các tế
bào của cơ thể có mối quan hệ
mật thiết với nhau và chuyên hóa để
hình thành các mô, các cơ quan khác nhau trong tổ
chức cơ thể.
Sự phân loại động vật đa
bào được dựa vào các đặc
điểm về sự đối xứng cơ
thể, nguồn gốc tổ chức tế bào
và tổ chức của xoang cơ thể.
-
Ðộng
vật có đối xứng tỏa tròn: cơ
thể được cấu tạo bởi hai
lớp tế bào có
nguồn gốc từ ngoại phôi bì và nội
phôi bì. Các
động vật này được xếp vào
hai ngành: ngành Cnidaria (hoặc Coelenterata = xoang tràng)
và ngành Ctenophora (Sứa lược).
-
Ðộng
vật có đối xứng hai bên: các tế bào
trong cơ thể có nguồn gốc từ ngoại
phôi bì, trung phôi bì và nội phôi bì.
Trong nhóm động vật có đối
xứng hai bên bao gồm:
+
Ðộng vật không có xoang cơ thể
(Acoelomata): được xếp vào hai
ngành Platyhelminthes (Giun dẹp) và Nemertini (Giun vòi).
+
Ðộng vật có xoang cơ thể nguyên sinh
(Pseudocoelomata): được sắp
vào 2 ngành: Nematoda (Giun tròn).
+
Ðộng vật có xoang cơ thể thứ sinh
(Eucoelomata): bao gồm các ngành
còn lại, phân loại dựa vào quá trình hình
thành miệng trong phát triển phôi.
Thông
thường người ta chia giới động
vật ra làm hai nhóm lớn:
Ø
Nhóm
động vật bậc thấp bao gồm
cả ba giới phụ, riêng giới phụ
động vật đa bào
chỉ đến những động vật có
xoang cơ thể nguyên sinh (chương 15).
Ø
Nhóm
động vật có xoang thứ sinh gồm
giới phụ động vật đa bào
kể từ những
động vật có xoang cơ thể chính
thức (chương 16).
I.
GIỚI PHỤ PROTOZOA
Theo
một số hệ thống phân loại thì
Protista (Nguyên sinh vật) được chia
ra làm hai giới phụ: giới phụ nguyên
sinh động vật và giới phụ nguyên
sinh thực vật.
Nguyên
sinh động vật có khoảng 20.000 - 25.000 loài,
bao gồm những sinh vật đơn bào chân
hạch và có khả năng chuyển động,
một khác biệt chính so với thực
vật; ngược lại nguyên sinh thực
vật có khả năng quang hợp. Tuy nhiên,
trong một vài trường hợp cũng có các
nguyên sinh động vật vừa có cơ quan
tử để vận chuyển vừa có cơ
quan tử để thực hiện chức năng
quang hợp nên có thể xem chúng là nguyên sinh
động vật hoặc nguyên sinh thực
vật. Trước
đây, các nguyên sinh động vật
được xếp vào một ngành duy
nhất và ngành này có bốn lớp chính
(Mastigophora, Sarcodina, Sporozoa và Ciliata).
Ðến năm 1980 các nhà sinh vật học
sắp xếp lại thành một giới
phụ Protozoa thuộc giới Protista.
Giới phụ Protozoa được chia thành
7 ngành: ngành Sarcomastigophora
(gồm các loài thuộc hai lớp Sarcodina và
Mastigophora kết hợp lại) bao gồm các
sinh vật có cơ quan vận chuyển là chiên
mao và giả túc hoặc một trong hai loại
đó và có một loại nhân đơn
giản; các ngành Labyrinthomorpha,
Apicomplexa, Microspora, Acetospora và Myxozoa bao gồm các
bào tử trùng sống ký sinh ở các cơ
thể động vật khác (trước đây
các ngành này được xếp chung cùng
một lớp Sporozoa); ngành Ciliophora bao gồm các
nguyên sinh động vật có cơ quan vận
chuyển là tiêm mao và có hai loại nhân khác nhau
là nhân dinh dưỡng và nhân sinh dục (trước
đây được xếp vào lớp Ciliata).
Như vậy, sự phân biệt các ngành
khác nhau trong giới phụ Protozoa là dựa vào
hai đặc tính cơ bản là cơ quan
vận chuyển và các loại nhân của
tế bào cơ thể.
Nguyên
sinh động vật là một dạng sống
đơn giản, mặc dù cơ thể
chỉ có một tế bào, nhưng có khả năng
thực hiện đầy đủ các hoạt
động sống như một cơ thể
đa bào hoàn chỉnh, chúng có thể thu lấy
thức ăn, tiêu hóa, tổng hợp, hô
hấp, bài tiết, điều hòa ion và điều
hòa áp suất thẩm thấu, chuyển động
và sinh sản. Sở
dĩ chúng có thể thực hiện được
các hoạt động sống đó là vì trong
cơ thể cũng có những cấu tử
giống với các cấu tử ở tế bào
của cơ thể đa bào như nhân, ty
thể, mạng nội chất, hệ Glogi, không
bào co bóp và không bào tiêu hóa.
Một số nguyên sinh động vật còn
có bào hầu nối liền bào khẩu với
túi tiêu hóa, tiêm mao hoặc chiên mao hoạt động
được nhờ thể
gốc.
Hai
loại cơ quan tử đặc sắc ở
nguyên sinh động vật là cơ quan vận
chuyển và không bào
tiêu hóa.
*
Cơ quan tử vận chuyển (locomotor organell):
đây là đặc điểm chính để
phân loại nguyên sinh động vật.
Có ba kiểu vận chuyển là vận
chuyển bằng giả túc, bằng chiên mao và
bằng tiêm mao.
A. Amoeba proteus
B.
Foraminifera
Hình
1. Các giả túc
trùng tiêu biểu
Giả túc trùng là ngành phụ thứ
nhất của ngành Sarcomastigophora.
Giả túc là phần
nhô ra của tế bào chất theo hướng
di chuyển, giả túc vừa dùng để
vận chuyển và vừa bắt lấy
thức ăn. Về
hình dạng, giả túc được chia ra thành
4 loại khác nhau: hình sợi (filopodia), hình
rễ cây (rhizopodia), hình tia (axopodia) và hình chùy có
đầu tròn (Hình 1A, B).
Chiên mao trùng là ngành phụ thứ hai
của ngành Sarcomastigophora có cơ quan tử
vận chuyển là chiên mao.
Ðầu tự do của chiên mao hoạt
động rẽ theo vòng tròn xoáy trong nước
như một mũi khoan vừa kéo con vật
về phía trước, vừa làm cho con vật
tự xoay quanh mình nó khi vận chuyển và
vừa tạo nên dòng nước xoáy cuốn
theo thức ăn đưa vào miệng.
Số lượng chiên mao thay đổi
từ hai hoặc nhiều hơn.
Một số chiên mao trùng còn có thêm
giả túc hoặc màng uốn.
Tiêm
mao trùng vận
chuyển nhờ lớp tiêm mao bao phủ quanh cơ
thể.
Các tiêm mao hoạt động như mái chèo
vừa đẩy sinh vật tiến về phía
trước, vừa làm cho con vật tự xoay
quanh mình nó khi vận chuyển và vừa tạo
nên dòng nước xoáy cuốn theo thức ăn
đưa vào miệng.
Bào tử trùng không có cơ quan tử
vận chuyển, trừ một số trường
hợp có sự hình thành giả túc trong một
giai đoạn nào đó của chu kỳ
sống.
*
Không bào tiêu hóa: hầu hết động
vật nguyên sinh có thể thu nhận và tiêu
hóa các mảnh vụn thức ăn.
Thức ăn được đưa vào
bào khẩu (cytostome), thường nằm ở
một vị trí nhất định trên tế
bào cơ thể, từ đó thức ăn theo
bào khẩu vào trong bào hầu (cytopharynx) và
lập tức được bao bọc trong
một túi tạo thành không
bào tiêu hóa. Các
men tiêu hóa được đưa vào bên trong
túi để phân giải thức ăn, các
chất dinh dưỡng được tạo ra
từ không bào tiêu hóa được đưa
vào tế bào chất còn những chất không
tiêu hóa được sẽ được không
bào tiêu hóa thải ra ngoài trên bề mặt
của tế bào.
Hình
2. Hai kiểu
hoạt động của không bào co bóp
A.
Ở Paramecium multimicronucleatum: 1:không bào trương
đầy nước với màng
đóng kín lỗ thoát; 2 và 3: lỗ thoát mở
ra, không bào dốc hết nước ra ngoài; 4:
lỗ thoát được đóng lại; 5 và
6: hai túi nhập lại hình thành không bào trương
đầy nước.
B.
Ở Paramecium trichium: 1: không bào trương
đầy nước, không bào thứ cấp và
tam cấp được thành lập; 2 và 3: không
bào dốc hết nước ra ngoài, sau đó
không bào nhận nước từ các không bào
thứ cấp và tam cấp; 4: không bào lại trương
đầy nước.
Sự
trao đổi khí O2 và CO2 với môi trường
theo hình thức khuếch tán đơn thuần.
Sự bài tiết ammonia cũng theo kiểu
khuếch tán đó.
Các
Protozoa sống trong môi trường nước
ngọt cân bằng được áp suất
thẩm thấu của cơ thể nhờ vào
không bào co bóp. Không
bào co bóp thu lấy lượng nước
thừa trong cơ thể và thải ra ngoài.
Các Protozoa sống trong môi trường
biển do có sự cân bằng áp suất
thẩm thấu giữa cơ thể với môi
trường ngoài nên không có không bào co bóp.
Không bào co bóp ngoài chức năng điều
hòa áp suất thẩm thấu của cơ
thể còn góp phần tham gia vào sự trao đổi
khí và bài tiết, vì nước từ môi trường
khuếch tán vào cơ thể có chứa O2 và lượng
nước được không bào co bóp
thải ra có CO2 và những chất bài tiết hòa
tan trong đó (Hình 2 A, B).
* Chiên mao trùng (Mastigophora)
Hình
thái của các chiên mao trùng rất biến thiên
như hình cầu, hình trứng, hình thoi, hình
trụ và nhiều hình dạng đặc
sắc khác nữa. Về
dinh dưỡng, một số ăn mồi chúng
thu thức ăn qua ngả bào khẩu, một
số sống ký sinh hay hoại sinh. Một
số chỉ có một
chiên mao như Trypanosoma, Leishmania... một số
khác có rất nhiều chiên mao như Trichomonas
vaginalis, Giardia intestinalis... (Hình 3).
Chiên
mao trùng có khả năng sinh sản vô tính
bằng cách phân đôi theo chiều dọc cơ
thể, một số khác vừa có khả năng
sinh sản vô tính và sinh sản hữu tính. Trong
sự sinh sản hữu tính, một số cá
thể có khả năng phân cắt tạo giao
tử đực và một số khác tạo
giao tử cái. Hầu
hết có đời sống tự do, cũng có
một số ít có đời sống ký sinh như
Trypanosoma gây bệnh ngủ ở người
trong một số quốc gia ở Châu Phi.
Hình
3. Vài đại
diện chiên mao trùng ký sinh
A.
Trychomonas sống ký sinh trong âm đạo và
ống niêu sinh dục của nam.
B.
Giardia sống ký sinh trong ruột người gây
bệnh viêm ruột.
*
Sarcodina (Giả túc trùng)
Giả
túc trùng bao gồm các động vật nguyên
sinh có kiểu vận chuyển là giả túc, cơ
thể có thể chỉ là một khối
chất nguyên sinh trần hoặc có vỏ
bảo vệ cơ thể. Chúng có đời
sống tự do hoặc ký sinh, cơ thể có
thể chỉ là một khối chất nguyên
sinh trần hoặc có vỏ bảo vệ cơ
thể.
Trên
mặt bùn của
các ao hồ nước ngọt, người ta
dễ dàng tìm thấy các Amoeba.
Amoeba vận
chuyển được là nhờ sự hình thành
giả túc về hướng vận chuyển
là do sự đổ dồn tế bào chất
về hướng đó.
Một số giả túc trùng có thêm vỏ
thì bảo vệ, giả túc thường có hình
sợi xuyên qua các lỗ trên vỏ để
thu lấy
thức ăn như Arcella,
Difflugia, Globegerina... (Hình 4).
Một số tìm thấy ở dưới
đáy sâu của đại dương như
Foraminifera, Radiolaria....
Chúng sống cách nay hàng triệu năm và
vỏ của chúng được giữ lại
trong các lớp đá trầm tích.
Hình
4. Vài đại
diện giả túc trùng
A.
Arcella B.
Diffugia với
vỏ gắn thêm cát
C. Globegerina vỏ hình khối cầu
xếp xoắn
Các
giả túc trùng sống ký sinh trong cơ thể
của người và các động vật như
Entamoeba histolytica, E.
dysenteriae gây bệnh kiết lỵ và viêm
ruột. Phần
lớn giả túc trùng sinh sản vô tính, tuy
nhiên, cũng có một số ít sinh sản
hữu tính.
*
Opalinatea
Opalinatea
là ngành phụ thứ ba của ngành
Sarcomastigophora, bao gồm những động
vật đơn bào, cơ thể phủ đầy
tiêm mao nhưng không được xếp vào ngành
Ciliophora vì chúng chỉ có một loại nhân và
sinh sản bằng cách phân đôi theo chiều
dọc và có quan hệ gần gủi với chiên
mao trùng và giả túc trùng hơn.
Hình 5. Opalina
*
Sporozoa (Bào tử trùng)
Bao
gồm hầu hết các động vật nguyên
sinh ký sinh và có sự hình thành bào tử trong
chu kỳ đời sống. Các bào tử trùng
được chia thành 5 ngành dựa vào hình
dạng của bào tử: Labyrinthomorpha, Apicomplexa,
Microspora, Ascetospora và Myxozoa.
Plasmodium
là tác nhân gây nên bệnh sốt rét ở người
có ký chủ trung gian là
muỗi, mỗi năm bệnh sốt rét đã
giết chết hàng triệu người ở các
quốc gia thuộc Châu Phi, Châu Á.
Một số ký sinh trùng sốt rét kháng
được ký ninh và mốt số loài khác
kháng lại thuốc sát trùng.
Chu
kỳ đời sống của Plasmodium ra làm các
giai đoạn sau (Hình 6):
·
Giai
đoạn sinh sản vô tính:
Ký
sinh trùng sốt rét xâm nhập vào máu người
thông qua ngã vết chích của muỗi truyền
nhiễm và bắt đầu sinh sản vô tính
qua hai vòng sinh sản khác nhau:
-
Vòng
ngoài hồng cầu:
liệt trùng (sporozoite) xâm nhập vào
tế bào gan ký
sinh
và lớn lên thành liệt thể (cryptozoite) có
dạng tròn để chuẩn bị sinh
sản. Khi đủ
điều kiện liệt thể thực
hiện quá trình liệt sinh tạo nhiều
liệt tử, các liệt tử tiếp tục
chui vào các tế bào lành mạnh khác rồi
liệt sinh, quá trình lại diễn ra tiếp
tục. Thời
gian thực hiện vòng ngoài hồng cầu kéo
dài đến 10 ngày, lúc này bệnh nhân chưa
có một triệu chứng nào.
Khi liệt tử đã tương đối
nhiều, chúng bắt đầu một quá trình
sinh sản mới là vòng trong hồng cầu.
-
Vòng
trong hồng cầu: liệt tử chui vào
hồng cầu, mỗi liệt tử một
hồng cầu.
Chúng
lớn lên rất nhanh thành liệt thể
rồi liệt sinh cho nhiều liệt tử.
Liệt tử phá vỡ hồng cầu
để ra ngoài rồi lại chui vào các
hồng cầu khác lặp lại quá trình tương
tự. Trong
hồng cầu chúng tiêu hóa các huyết cầu
tố và phá vỡ cùng lúc hàng loạt hồng
cầu và đồng thời thải ra độc
tố đó là nguyên nhân gây nên những cơn
ớn lạnh và sốt cao.
Giai
đoạn sinh sản hữu tính
Sau
nhiều lần sinh sản vô tính trong máu,
một số liệt tử chuyển sang
thời kỳ sinh sản hữu tính, chúng
lớn lên trở thành mầm giao tử lớn
(macrogametocyste) và mầm giao tử nhỏ
(microgametocyste). Các
mầm giao tử không phát triển trong cơ
thể của người nữa.
Khi muỗi hút máu người có chứa các
mầm giao tử này, trong bao tử của
muỗi, mầm giao tử lớn tiếp tục
phát triển cho giao tử cái, còn mầm giao
tử nhỏ cho giao tử đực, các giao
tử đực và cái tiến hành thụ tinh hình
thành hợp tử. Hợp
tử có khả năng di động trong
ruột muỗi, nó chui quathành ruột vào trong
thể xoang và hình
thành noãn xác, mỗi noãn xác cho rất nhiều
liệt trùng.Liệt trùng tìm đường
đến tuyến nước bọt và bắt
đầu vòng đời mới khi muỗi
đốt người khác.
* Tiêm mao trùng (Ciliata)
Hình
7. Sơ đồ
tiếp hợp ở Paramecium
Bao
gồm các loài động vật nguyên sinh
tiến hóa nhất trong giới phụ Protozoa. Cơ
quan tử vận chuyển của chúng là tiêm
mao. Tiêm mao trùng
phân bố ở nhiều môi trường
sống khác nhau, sống tự do hoặc cố
định trên giá thể, nhiều loài sống
ký sinh ở người và một số loài
động vật khác.
Chúng có khả năng sinh sản vô tính và
hữu tính, Sinh
sản vô tính được thực hiện
theo lối phân chia theo chiều ngang của cơ
thể còn sinh sản hữu tính được
thực hiện theo hình thức tiếp hợp
(conjugation).
Tiến
trình tiếp hợp diễn biến đã
được biết như sau: hai cá thể áp
sát vào nhau nơi vùng của bào khẩu, ở
chỗ tiếp xúc giữa hai cá thể màng
tế bào tan ra và nguyên sinh chất của hai
tế bào cơ thể thông thương với
nhau hình thành cầu nối chất nguyên sinh.
Trong mỗi tế bào, sự phân chia
giảm nhiễm diễn ra phức tạp và
cuối cùng thành lập hai nhân gồm một nhân
bất động và một nhân di động.
Nhân di động con này theo cầu nối
nguyên sinh tìm đến nhân bất động
của con kia và tạo thành nhân thụ tinh trong
mỗi cá thể. Sau
khi trao đổi nguyên liệu di truyền, hai cá
thể tách rời ra và
mỗi cá thể tiến hành phân cắt vô
tính khá phức tạp theo chiều ngang cơ
thể tạo nên các cá thể mới.
Sơ đồ của sự tiếp
hợp được tóm tắt trong (Hình 7).
II.
GIỚI PHỤ PARAZOA: NGÀNH PORIFERA (Bọt
biển)
Ðộng
vật đa bào trung gian gồm các cá thể
đa bào nhưng không tổ chức thành mô hay
cơ quan. Ðiều
này nói lên rằng mặc dù là cơ thể
đa bào nhưng những tế bào này kết
hợp lại thành cấu trúc cơ thể
đặc biệt, các cơ thể này thiếu
hệ thống thần kinh và tuần hoàn.
Do vậy, nó có tính chất của một
tộc đoàn động vật nguyên sinh hơn
mặc dù có nhiều loại tế bào hơn.
Ðộng vật đa bào trung gian được
coi là nguồn gốc chung của các động
vật đa bào trong quá trình tiến hóa còn các
động vật nguyên sinh là một nhánh độc
lập không liên quan gì đến sự tiến
hóa của động vật đa bào.
Trong
cơ thể bọt biển có hai chức năng
sinh lý khác nhau là tiêu hóa và sinh
sản, hai chức năng này được
một số tế bào chuyên hóa đảm
nhiệm và hoạt động độc
lập với nhau; các tế bào này xếp thành
hai lớp của thành cơ thể: lớp ngoài
là lớp biểu mô gồm các tế bào
biểu mô dẹt (pinacocytes) và lớp trong
gỗm các tế bào cổ
áo (choanocytes).
Mỗi
tế bào cổ áo sinh ra một chiên mao hướng
vào trong, sự hoạt động nhịp nhàng
của các chiên mao tạo nên các dòng nước
từ ngoài xuyên vào bên trong cơ thể theo các
lổ hút nước và nước từ bên
trong cơ thể được đưa ra ngoài
theo lổ thoát nước ở cực trên
của cơ thể.
Dòng nước vào mang theo oxy và thức
ăn được các tế bào
cổ áo bắt lấy và tiêu hóa, các
chất không tiêu hoá được sẽ theo dòng
nước ra ngoài qua lổ thoát nước (Hình
8).
Giữa
lớp biểu mô và lớp tế bào cổ áo
là lớp trung gian ở trạng thái keo không có
cấu tạo tế bào, rải rác trong lớp
này có các loại tế bào như tế bào hình
sao, tế bào sắc tố, tế bào sinh gai và
tế bào amip (cổ bào). Cổ bào là loại
tế bào chưa phân hóa và nó có chức năng
hình thành những tế bào khác khi cần
thiết.
Tùy theo tính chất phức tạp của
hệ thống hút nước và thoát nước
người ta chia cấu tạo của hệ
thống này ra làm bốn kiểu: kiểu
asconoid, syconoid, leuconoid và rhagon
(Hình 9). Theo
sự ước tính mỗi cơ thể hàng ngày
có thể lọc 4.000 lít nước để
lấy thức ăn và muối khoáng, mỗi
năm có thể tạo được 100 gram gai
xương mới.
Asconoid
Syconoid
Leuconoid
Hình
9. Các kiểu hệ thống hút và thoát nước
ở Porifera
Cấu tạo cơ thể theo bốn
kiểu nói trên không phải là đặc điểm
để phân loại, đó chỉ là các giai
đoạn khác nhau trong quá trình tiến hóa
của cơ thể bọt biển. Ðặc
điểm cơ bản để phân loại
bọt biển là dựa vào hình thái và cấu
tạo của gai xương (Hình 10); dựa vào
đó có thể chia ngành Porifera ra làm 3 lớp:
*
Lớp
Calcarea (Hải miên đá vôi)
Ðặc điểm là các gai xương
cấu tạo bằng chất vôi
màu trắng đục.
Gồm hầu hết bọt biển có gai
xương bằng
sống bám trên đá ven bờ biển.
*
Lớp
Hexatinellida (Hải miên sáu tia /Hải miên
thủy tinh)
Gồm
các bọt biển có gai xương trong suốt
như thủy tinh, gai đặc trưng là có
dạng sáu tia và được cấu tạo
bằng .
Hình 10.
Các kiểu gai xương ở Porifera
Hình
11. Thí nghiệm của H. V. Wilson
Lớp
Demospongia (Hải miên sừng)
Gồm các bọt biển có gai xương
cấu tạo
bằng SiO2 hoặc spongin hoặc cả hai
loại. Một
vài loài không có gai xương.
Lớp này chiếm 80% số lượng loài
bọt biển và khoảng 50 loài tìm thấy
ở nước ngọt.
Bọt
biển mặc dù là một cơ thể có
tổ chức cơ thể đa bào, dù các
tế bào cơ thể kết hợp lại
với nhau thành hai lớp tế bào, nhưng
mỗi tế bào vẫn có thể sống
một cách độc lập khi bị tách
rời.
Năm
1907 H. V. Wilson đã làm thí nghiệm chứng minh
tính độc lập và tính hợp tác của
các tế bào trong cơ thể bọt biển như
sau: cắt bọt biển thành nhiều mảnh
nhỏ và nghiền nhẹ các mảnh này để
cho các tế bào rời ra, sau đó dùng
rây để lượt lấy các tế
bào và cho vào môi trường nước
biển, sau một thời gian nuôi nhận
thấy các tế bào hợp lại với nhau hình
thành cơ thể bọt biển mới (Hình
11).
Bọt
biển vừa có khả năng sinh sản vô tính
vừa có khả năng sinh sản hữu tính;
sự sinh sản vô tính giống như ở các
động vật bậc thấp còn sự sinh
sản hữu tính được thực
hiện như những động vật đa
bào bậc cao.
a.
Sự sinh sản vô tính
Sự
sinh trưởng và phát triển của bọt
biển đều có liên quan đến sự
sinh sản vô tính. Các
bọt biển sống ở nơi có dòng
chảy mạnh và ở những nơi có
nhiều sóng thường có khả năng sinh
sản vô tính rất cao.
Loại tế bào có vai trò quan trọng
trong quá trình sinh sản vô tính là cổ bào
(archaeocyte), nó là loại tế bào chưa phân hóa
và có khả năng phân hóa để hình thành
nhiều loại tế bào khác nhau của cơ
thể; do đó có khả năng tổ chức
lại cơ thể.
Hai hình thức sinh sản vô tính gặp
ở bọt biển là sự nẫy chồi và
sự sinh mầm trong:
*
Sự
nẫy chồi (budding).
Ðây là hình thức sinh sản phổ
biến nhất ở bọt biển và
thường
gặp nhất ở dạng asconoid và syconoid.
Chồi là những khối u lồi lên
ở khắp bề mặt của cơ thể,
nhưng thường xuất hiện ở
phần đế nhiều hơn, chồi càng ngày
càng lớn lên và có đầy đủ hai
lớp tế bào; khi sự phát triển đã
hoàn tất chồi tự tách rời cơ
thể mẹ ở phần đế và bám vào
đá hoặc các đài vật trong nước
và phát triển hình thành cơ thể mới.
Phần lớn chồi không tách rời cơ
thể mẹ mà phát triển trên cơ thể
mẹ hình thành tộc đoàn bọt biển càng
ngày càng có kích thước lớn.
*
Sự
sinh mầm trong (gemmule formation). Thường
gặp ở những bọt biển nước
ngọt.
Vào
mùa thu cổ bào tập trung thành mầm trong.
Mầm trong có hai lớp vỏ sừng
đóng kín, giữa hai lớp vỏ là lớp
không khí cách nhiệt.
Ðến mùa đông bọt biển chết,
mầm trong rơi xuống đáy nước
sống tiềm sinh cho đến hết mùa
đông; khi mùa xuân đến, các tế bào phá
vở 2 lớp vỏ sừng rồi chui ra ngoài
và phát triển thành bọt biển mới.
b.
Sự sinh sản hữu tính
Hầu
hết bọt biển lưỡng tính.
Trứng và tinh trùng được hình thành
trong cùng một cơ thể từ các cổ bào
nhưng ở những thời gian khác nhau nên
thời gian trưởng thành của các giao
tử khác nhau, tinh trùng trưởng thành trước
nên phải xảy ra quá trình thụ tinh chéo
giữa hai cơ thể.
Tinh trùng của cơ thể này sẽ theo
dòng nước qua lỗ thoát nước ra ngoài
và tìm đến lổ hút nước của cá
thể kia và theo dòng nước vào bên trong
tìm trứng và tiến hành thụ tinh.
Quá trình thụ
tinh diễn ra rất phức tạp.
Sự
phát triển của hợp tử:
Hợp tử phát triển trong cơ
thể một thời gian rồi ra
ngoài hình thành ấu trùng sống tự do
gọi là Amphiblastula.
Sau một thời gian bơi lội tự
do, Amphiblastula bám vào các giá thể như vỏ
ốc, đá, cành cây trong nước...sau đó,
ở vị trí của phôi khẩu, các phôi bào
lớn phân cắt tạo nên lớp biểu mô
dẹp và các phôi bào nhỏ tạo nên lớp
tế bào cổ áo ở bên trong, tiếp theo là
sự hình thành một lổ đối diện
với miệng phôi đó là lổ thoát nước.
Bọt biển đầu tiên được
hình thành có dạng asconoid, sau đó mới
phức tạp dần qua các dạng khác.
III.
GIỚI PHỤ METAZOA (Ðộng vật đa bào
chính thức)
Khác
với động vật đa bào trung gian, Ðộng
vật đa bào chính thức là những động
vật đa bào có tổ chức hình thành mô và
cơ quan của cơ thể.
Ở những Ðộng vật đa bào chính
thức đơn giản nhất có hai lớp
tế bào, lớp ngoài là lớp biểu mô và
lớp trong hình thành lớp biểu mô của
xoang vị. Sự
tổ chức các tế bào hình thành mô cho
thấy được một bước
tiến hóa quan trọng trong tổ chức cơ
thể động vật.
a.
Ðặc điểm chung của dạng thủy
tức và sưá
Các
sinh vật thuộc Xoang tràng có cấu tạo cơ
thể hoàn chỉnh bước đầu ở
động vật đa bào, bao gồm những
động vật có đối xứng tỏa
tròn và có xúc tu (tentacle), có sự hình thành
miệng và túi tiêu hóa, có tế bào chứa
chất độc dùng để tấn công con
mồi được gọüi là thích bào
(cnidocyte). Các
sinh vật của Xoang tràng có ba dạng:
dạng thủy
tức, dạng sứa và dạng san hô; chúng thường
phân bố rải rác trong biển, một
số ít trong các ao hồ nước ngọt.
Sơ đồ cấu tạo chung của
những Xoang tràng được mô tả ở
thủy tức nước ngọt (Hình 12).
Hydra có dạng hình túi, vách cơ thể
giới hạn một xoang vị (gastrovascular
cavity) bên trong, lổ miệng thông với xoang
vị ở cực trên của cơ thể và
được bao quanh bởi một vòng xúc tu.
Vách cơ thể được cấu
tạo bởi hai lớp tế bào, lớp
biểu mô cơ nằm ở phía ngoài và
lớp biểu mô ruột ở bên trong, giữa
hai lớp này có một lớp trung gian.
Lớp trung gian có độ dày khác nhau tùy
theo mỗi nhóm, trong lớp này rải rác
nhiều loại tế bào khác nhau và nhiều
sợi nhỏ; ở Sứa, lớp trung gian
rất dày chiếm phần lớn trọng lượng
cơ thể.
Xoang vị vừa là nơi tiêu hóa thức
ăn, vừa lưu thông các chất ra vào xoang.
Lớp biểu mô của xoang vị
được cấu tạo bởi các tế bào
hình trụ, gồm các tế bào biểu mô và các
tế bào tuyến. Các
tế bào biểu mô có khả năng thu lấy
những mãnh vụn thức ăn và tiêu hóa chúng
nhờ vào không bào tiêu hóa, các enzim do các tế
bào tuyến tiết ra.
Lớp ngoài được cấu tạo
bởi các tế bào biểu mô có hình trụ, dưới
gốc của mỗi tế bào biểu mô này có
các chồi co bóp hoạt động như
tế bào cơ. Ngoài
ra còn có các tế bào tuyến và các thích ty bào.
Mỗi thích ty bào có cấu tạo gồm
một nhân, một túi chứa chất độc,
trong túi chất độc có sợi quấn
xoắn gọi là thích ty và một gai cảm giác
tiếp nhận kích thích.
Khi gai cảm giác bị kích thích thì thích
ty được bắn ra ngoài ghim thẳng vào
con mồi và bơm chất độc làm tê
liệt con mồi (Hình 13). Hình dạng của các
sinh vật thuộc Xoang tràng cũng có sự khác
biệt, cá thể trưởng thành chỉ có
dạng thủy
tức (polyp) hoặc dạng sứa (medusa), tuy
nhiên trong quá trình phát triển ở một
số loài có thể xuất hiện cả
hai dạng này trong chu kỳ đời sống.
Hầu
hết ở các loài, dạng sứa sản sinh
ra trứng hoặc tinh trùng.
Trứng thụ tinh nở ra ấu trùng
Planula bơi lội tự do trong nước
nhờ lớp tiêm mao phủ bên ngoài cơ
thể, trong
thời gian bơi lội, có sự hình thành
xoang vị trong cơ thể của planula.
Sau một thời gian bơi lội tự
do, planula bám xuống các đài vật trong nước
hình thành dạng thủy tức và phát triển
thành tộc đoàn thủy tức.
Giai
đoạn ấu trùng planula xuất hiện
trong hầu hết các chu kỳ đời
sống của các sinh vật thuộc Xoang tràng.
Chúng có sự hình thành tế bào thần
kinh, loại tế bào này không tìm thấy ở
bọt biển và chưa thấy xuất
hiện hệ thống thần kinh vì các Xoang tràng
vẫn còn là động vật đa bào
bậc thấp trong quá trình tiến hóa.
b.
Phân loại
Ngành
Xoang tràng được chia thành ba lớp:
lớp Hydrozoa, lớp Scyphozoa và lớp Anthozoa.
·
Lớp
Hydrozoa (Thủy tức).
Hầu hết thủy tức rất đa
dạng và trong chu kỳ đời sống
đều trải qua hai giai đoạn: giai
đoạn sứa và giai đoạn thủy
tức và sau cùng hình thành tộc đoàn
thủy tức.
Hình
14. Chu kỳ
đời sống của Obelia
Thí
dụ: tộc
đoàn Obelia có hình cành cây phân nhánh, trong
tộc đoàn có hai loại cá thể đơn
vị, cá thể dinh dưỡng (hydranths) và cá
thể sinh sản (gonangia) (Hình 14).
Cá thể dinh dưỡng thường
nhỏ hơn cá thể sinh sản, mỗi cá
thể dinh dưỡng có dạng thủy
tức mang nhiều xúc tu làm thành vòng, số lượng
xúc tu là sáu hoặc nhiều hơn.
Giữa vòng xúc tu có miệng thông với
xoang vị bên trong, xoang vị ở mỗi cá
thể đổ vào xoang vị chung của
tộc đoàn; cho nên chất bổ dưỡng
từ thức ăn do mỗi cá thể riêng
lẻ bắt và tiêu hoá được đều
dùng chung cho cả tộc đoàn.
Cá thể sinh sản có kích thước to
hơn, chụp ngoài có dạng hình ống bao
chung quanh một trụ sứa, trụ sứa
mang các điã sứa do phân cắt vô tính
tạo ra. Sứa Obelia khi trưởng thành chui
ra khỏi chụp bao sống tự do một
thời gian trong nước biển và sau đó
mỗi cá thể tạo ra các giao tử đực
hoặc cái và sự thụ tinh diễn ra trong môi
trường nước.
Hợp tử được tạo thành
bắt đầu phân cắt tạo nên ấu
trùng planula, nhờ có tiêm mao nên ấu trùng bơi
lội tự do trong nước một thời
gian, sau đó ấu trùng rụng mất tiêm mao
và bám vào các đài vật phát triển thành
tộc đoàn Obelia
mới.
*
Lớp
Scyphozoa (Sứa). Cơ
thể trưởng thành có dạng sứa và
trong chu kỳ phát triển
có trải qua dạng thủy tức. Thí dụ:
ở sứa Aurelia (sứa sen) các giao tử
đực hoặc cái được hình thành
đều được đưa vào môi trường
nước và sự thụ tinh tiến hành
ở đó. Hợp tử phát triển thành
ấu trùng Planula bơi lội tự do trong nước
một thời gian, sau đó
ấu trùng bám vào các đài vật trong nước
và phát triển thành dạng ấu trùng
Scyphistoma có dạng thủy tức, trong giai đoạn
này Scyphistoma thực hiện một loạt phân
cắt vô tính bằng một loạt vết
cắt ngang tạo thành một chồng
đĩa sứa, đĩa sứa là một
dạng ấu trùng mới gọi là Ephyra, các
Ephyra tách khỏi chồng điã sứa và bơi
lội trong nước, lớn lên thành dạng
sứa trưởng thành (Hình 15).
Hiện tại có hơn 200 loài sứa
sống trong các biển và rất phong phú trong các
biển ấm.
Hình
15. Chu kỳ
đời sống của Aurelia
·
Lớp
Anthozoa (San hô). Lớp
này bao gồm các loài sinh vật có dạng hình
hoa rất
đẹp, phần lớn sống thành tộc
đoàn, chúng tiết ra ngoài
tạo nên bộ xương của tộc đoàn.
Chu kỳ đời sống chỉ có
dạng thủy tức mà không có dạng
sứa, ấu trùng planula phát triển trực
tiếp thành dạng thủy tức.
Các
rạng san hô có rất nhiều màu sắc và
cấu trúc rất đẹp mắt (Hình 18) và
sống thành tộc đoàn lớn tạo nên
các vành đai và các đảo nhỏ
ở các đại dương, trở thành
những hiểm nguy cho các tàu biển.
Ở Australia rạng san hô Great Barrier có
chiều dài hơn 2.000 km là nơi kiếm ăn,
nơi ở cho hàng triệu sinh vật.
San hô phát triển tốt ở độ sâu
30 m hoặc kém hơn trong các biển nóng.

Ðây
là một ngành nhỏ có quan hệ gần
gủi với Xoang tràng, chu kỳ đời
sống chỉ có dạng sứa và một vài
loài có thích ty bào. Tên
của chúng phát xuất từ 8 dãy tấm lược
do các tiêm mao kết dính lại hình thành nên cơ
quan vận chuyển và có khả năng phát sáng
khi con vật di động.
Hiện nay có khoảng 100 loài gặp
nhiều trong các biển ấm (Hình 17).
Hình
17. Sơ đồ
cấu tạo của Pleurobrachia
a. Ðặc điểm chung
Giun
dẹp là ngành động vật đa bào đầu
tiên có sự tổ chức tế bào ở
mức độ cao hơn xoang tràng và sứa lược.
Trong quáï trình phát triển phôi có sự hình
thành trung phôi bì nằm giữa ngoại phôi bì
và nội phôi bì.
Ðây
cũng là ngành đầu tiên mà cơ thể
sinh vật có cấu tạo theo kiểu đối
xứng hai bên, cách đối xứng này chia cơ
thể sinh vật ra làm: nửa trái và nửa
phải, phần đầu và phần đuôi,
mặt lưng và mặt bụng.
Ðầu có sự tập trung
các tế bào thần kinh và các hạch
thần kinh hình thành não bộ của sinh
vật, hiện tượng này gọi là sự
đầu hóa (cephalization), não bộ làm cho các
hoạt động của sinh vật hiệu
quả và phức tạp hơn và là điều
kiện thúc đẩy sự tiến hóa cao hơn.
Sự
xuất hiện trung phôi bì trong quá trình phát
triển phôi cũng là một bước quan
trọng trong quá trình tiến hóa, từ sự
phát triển của lá phôi này đã hình thành nên
hệ cơ, hệ tuần hoàn, thận, xương
và lớp hạ bì dưới da.
Ở
Giun dẹp là nhóm động vật không có
xoang cơ thể (Acoelomata), giữa các nội
quan được lấp đầy bởi nhu mô
đệm có nguồn gốc từ lá phôi
giữa. Cấu
trúc bộ phận tiêu hóa ở Giun dẹp cũng
còn ở mức độ nguyên thủy như
xoang tràng, sự tiêu hóa được tiến
hành nhờ không
bào tiêu hóa của các tế bào biểu mô
ruột.
b. Phân loại
Ngành
Giun dẹp được chia thành ba lớp:
Turbellaria (Sán tơ), Trematoda (Sán lá) và Cestoda (Sán
dây); chỉ có sinh vật thuộc lớp Sán tơ
có đời sống tự do, còn hai lớp Sán
lá và Sán dây có đời sống ký sinh.
·
Lớp
Turbellaria (Sán tơ)
Lớp
bao gồm các loài sống tự do trong biển,
nước ngọt, trong đất và trong các
thảm lá mục. Cơ
thể có hình lá dài, miệng của sinh vật
nằm ở một vị trí nhất định
ở mặt bụng, ruột phân nhánh đơn
giản hoặc phức tạp và bịt kín
ở tận cùng, thức ăn
của chúng là những động vật
nhỏ. Các sinh
vật thuộc lớp thường có ít
nhất một đôi mắt được
cấu tạo bởi các tế bào cảm quang,
nó chỉ phân biệt được sáng và
tối chứ không quan sát được
mọi vật. Sán
tơ sinh sản vô tính bằng cách phân đôi,
tái sinh từ một mảnh nhỏ của cơ
thể có khả năng tái sinh ra các phần
thiếu của cơ thể hình thành cơ
thể mới (Hình 18).
Giun
dẹp có cơ quan sinh dục rất phát
triển, gần
như tất cả các sinh vật trong ba lớp
đều có chứa hai hoặc nhiều tinh hoàn
hoặc buồng trứng.
Sự thụ tinh chéo, trứng phân cắt
xác định và trong suốt giai đoạn
ấu trùng sống nhờ chất noãn hoàng do các
tế bào noãn hoàng cung cấp.
A
B
C
Hình
18. Sơ đồ
thí nghiệm về sự tái sinh ở Planaria
A.
1: mảnh giữa cơ thể tái sinh ra Planaria
mới.
B.
1 và 2: đều tái sinh cho ra Planaria mới. 3: không
có khả năng tái sinh.
C.
Lát cắt dọc ở phần đầu
được tách rời ra tạo ra được
2 đầu mới.
Lớp
Trematoda (Sán lá)
Hầu
hết Sán lá có đời sống ký sinh và
trải qua hai hoặc nhiều ký chủ.
Chẳng hạn như ở Sán ká gan
nhỏ (Opisthorchis sinensis), sống ký sinh trong gan
của người. Con
trưởng thành có hình lá, miệng nằm
giữa, hấp khẩu miệng thông với
hầu cơ (muscullar pharynx) bên trong, thực
quản ngắn nối với ruột giữa,
ruột giữa chia thành hai nhánh chạy dọc
hai bên cơ thể và bịt kín ở tận cùng.
Hầu cơ có tác dụng như một cái
bơm hút, hút lấy
các mô và máu của ký chủ, sự tiêu hóa
được tiến hành bên ngoài tế bào
ruột, một vài trường hợp xảy
ra bên trong tế bào.
Ðể có thể bám chặt vào ký chủ
tất cả Sán lá đều có cơ quan bám
nằm ở mặt bụng gọi là hấp
khẩu bụng (Hình 19A).
Sán
lá gan trưởng thành dài khoảng 15 mm.
Sán lưỡng tính và quá trình thụ tinh
diễn ra bên trong cơ thể.
Trứng thụ tinh được bọc
bởi một vỏ bọc ra khỏi cơ
thể sán rồi theo ống dẫn mật đến
ruột non và theo phân ra ngoài. Nếu trứng rơi
vào trong nước, ấu trùng Miracidium sẽ
thoát ra khỏi vỏ trứng ra ngoài và bơi
lội tự do, khoảng vài giờ chúng xâm
nhập vào mô của ốc và phát triển thành
bào nang (sporocyst). Bên
trong bào nang phát triển vô số dạng ấu
trùng Redia, các tế bào mầm trong ấu trùng
redia sinh ra một loại ấu trùng khác gọi
là Cercaria. Cercaria
thoát ra khỏi cơ thể ốc vào trong nước,
nếu nó gặp được loại cá thích
hợp thì sẽ xâm nhập vào cơ cá và
biến thành dạng ấu trùng Metacercaria (hay
encyst) trong cơ cá. Chu
kỳ sẽ kết thúc khi người ăn cá
sống có Metacercaria; sự tiêu hóa làm vở
vỏ bọc và ấu trùng thoát ra và phát
triển trở thành dạng hoạt động,
sau đó nó tìm đến gan và phát triển thành
Sán lá gan trưởng thành sống ký sinh ở
đó (Hình 19B).
·
Lớp
Cestoda (Sán dây)
Sán
dây bao gồm các loài có sự chuyên hóa cao hơn
các nhóm Sán khác. Cơ
thể trưởng thành không còn hệ tiêu hóa
nên sống nhờ vào chất dinh dưỡng
của ký chủ. Trái
với các loài Sán khác sống ký sinh ở các mô,
thì Sán dây lại sống trầm mình trong
chất dinh dưỡng bên trong ruột của ký
chủ. Chúng thường
có một ký chủ trung gian có thể là động
vật chân khớp hoặc động vật có
xương sống khác, một vài loài có
thể có nhiều ký chủ trung gian hơn.
Một
Sán dây trưởng thành có đầu gọi là
scolex, scolex có các hấp khẩu để bám vào
thành ruột của ký chủ, ngoài ra để
tăng cường bám chặt vào thành ruột,
một số loài ngoài hấp khẩu còn có thêm
một hoặc vài vòng răng móc (Hình 20).
Hình
20. Sán Taenia
A. Ðầu Sán Taenia solium.
B. Răng móc ở Taenia solium
C. Ðầu Sán Taenia saginata
D. Cấu tạo của một đốt Sán
Taenia pisiformis trưởng thành.
Hình
21. Chu kỳ
đời sống của Dibothriocephalus latus
Tiếp
theo đầu sán là phần cổ ngắn và không
phân đốt. Thân
là một dãy đốt sán dài, các đốt sán
càng xa cổ thì càng trưởng thành, càng
gần cuối cơ thể thì đốt càng
già. Mỗi đốt
sán có chứa một hệ cơ quan sinh dục
đực và cái phức tạp, một đôi
dây thần kinh dọc nối liền các đốt,
một đôi ống dẫn chất bài tiết
dọc theo các đốt nhận chất bài
tiết từ những nguyên đơn thận
(protonephredia) tập trung chất bài tiết
đưa vào ống bài tiết chung.
Mặc dù ở sán có cả cơ quan sinh
dục đực và cái trong mỗi đốt
nhưng lại xảy ra sự giao phối chéo
giữa đốt này với đốt khác
bằng cách cuộn gập lại.
Trứng thụ tinh được bọc
bởi một lớp vỏ và các đốt già
chứa đầy trứng dể dàng tách
rời khỏi thân sán theo phân ra ngoài.
Chu
kỳ đời sống của Sán
Dibothriocephalus latus (Hình 21): Dibothriocephalus
latus trưởng thành sống ký sinh trong
ruột của chó, mèo, lợn, cừu... Các
đốt sán già tách rời khỏi cơ
thể và theo phân ra ngoài.
Ðốt sán bị phân hủy giải phóng
trứng, nếu trứng rơi vào trong nước,
ấu trùng Coracidium phá vở vỏ trứng ra
ngoài và bơi lội tự do.
Khi Coracidium được Cyclops ăn, nó
chui qua thành cơ phát triển thành dạng
ấu trùng Procercoid. Khi
ăn nhằm Cyclops có Procercoid, Procercoid phát
triển trong cơ cá thành dạng ấu trùng
Pleurocercoid và nằm yên ở đấy.
Chu kỳ sẽ đóng khi vật chủ thích
hợp nuốt phải, trong ruột vật
chủ, ấu trùng Pleurocercoid phát triển thành
sán trưởng thành.
Ngành
Giun tròn bao gồm các động vật cơ
thể có hình trụ hai đầu thuôn
nhọn. Mặc
dù mới chỉ mô tả được
khoảng 10.000 loài nhưng biết có hàng
vạn loài hiện hữu và
đa số sống tự do trong các môi trường,
một số ít sống ký sinh ở thực
vật và động vật.
Số lượng Giun tròn sống tự do
rất lớn, trong 1 m3 bùn dưới đáy
biển có thể chứa hàng triệu con,
một hecta đất trồng trọt có
thể có hàng tỉ con... Giun tròn sống tự
do có vai trò quan trọng trong sự phân hủy
chất hữu cơ và là một thành phần
chính yếu của hệ sinh thái.
Giun tròn ký sinh là nguyên nhân gây bệnh và có
thể gây tử vong cho các loài sinh vật như
người, gia súc; có trường hợp khi
giải phẩu người ta đã phát
hiện có tới 1.400 con giun trong hệ tiêu hóa
của một bệnh nhân.
Hầu
hết Giun tròn có kích thước ngắn hơn
1 mm, nhưng cũng có trường hợp dài
tới 2m. Cơ
thể Giun tròn được bao bọc bởi
một lớp cuticle rất bền do lớp
biểu mô của cơ thể tạo ra.
Bên trong lớp biểu mô là lớp cơ và
chỉ có loại cơ dọc, các tế bào cơ
dọc có khả năng co bóp yếu và vận
chuyển bằng cách gập cong cơ thể.
Giun tròn thiếu hệ tuần hoàn,
sự tuần hoàn do dịch của xoang cơ
thể đảm nhận, khi cơ co bóp tạo
nên một áp lực trong dịch thể xoang, tác
động đến lớp cutin cứng
chắc và dẻo dai làm cho dịch thể xoang
luân chuyển trong xoang cơ thể mang theo
những dưỡng chất cung cấp cho các
tế bào. Tác
động co bóp mạnh của các tế bào cơ,
tính dẻo dai của lớp cutin giúp cho Giun tròn
có thể xuyên qua các mô hoặc đất
rất dễ dàng.
Lớp cutin của Giun tròn có khả năng
chống chịu được các tác động
của môi trường, trứng của hầu
hết các loài được bao bọc trong
một vỏ chắc chắn.
Ðặc điểm có lớp cutin và vỏ
trứng có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống của Giun tròn.
Ðây là lợi thế cho Giun tròn phát tán và
sống sót trong những điều kiện
bất lợi. Nguyên
đơn thận xuất hiện ở nhiều
Giun tròn trong quá trình tiến hóa, những tế
bào bài tiết (renette cell) gặp ở những
loài nguyên thủy, hầu hết ở các loài
đều có một đôi ống bài tiết
chứa đầy chất bài tiết và đổ
ra ngoài bằng lỗ bài tiết.
Hầu hết chất bài tiết ra dưới
dạng muối ammonia rồi được
đưa vào ống tiêu hóa và theo phân ra ngoài.
Mặc dù một số Giun tròn thủy sinh
và Giun tròn trong đất có sự bài tiết
bằng cách thẩm thấu xuyên qua cơ
thể.
Giun
tròn có hạch não ở đầu về phía
mặt lưng, từ não
phát xuất ra đôi dây thần kinh
chạy dọc theo cơ thể ở một phía
lưng và một phía bụng, giữa dây
thần kinh lưng và bụng thường có dây
nối hình bán nguyệt.
Một số Giun tròn còn có các tế bào
cảm quang.
Hình 22. A. Lãi
kim (Enterobius vermicularis) ký sinh ở người
B.
Sơ đồ lát cắt ngang cơ thể Lãi
đủa (Ascaris.)
Hầu
hết Giun tròn phân tính và có hiện tượng
dị hình giới tính.
Con đực có kích thước nhỏ hơn
con cái, có một hoặc hai tinh hoàn hình ống,
đoạn cuối tinh hoàn ống nở
rộng ra thành ống dẫn tinh và mở ra ngoài
bằng lỗ sinh dục đực nằm
ở cạnh đôi gai giao cấu.
Con cái có hai buồng trứng có hình
ống, hai ống dẫn trứng đổ ra
tử cung và mở ra ngoài bằng lổ sinh
dục cái. Sau
khi thụ tinh trứng được bao bọc
bởi một vỏ chắc chắn, trứng phân
cắt xác định, không đều (không
đối xứng) và không xoắn ốc và
nở ra Giun tròn con.
Ở một số Giun tròn không có hiện
tượng đẻ trứng mà trứng
nở ngay trong tử cung và con non được
đẻ ra ngoài.

|