|
Ðộng vật có xoang thứ sinh |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Gs. Bùi Tấn Anh - Võ Văn Bé - Phạm Thị Nga |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
PHẦN
III ÐA
DẠNG SINH HỌC CHƯƠNG
V
A.
Phần đầu (mặt lưng) của Nereis
1. hầu tụt vào
2. hầu nhô ra B.
Lát cắt ngang qua cơ thể của Lumbricus Cơ
thể của giun đốt được bao
bọc bên ngoài bởi một lớp cutin không có
kitin do lớp biểu mô tiết ra. Lớp biểu mô
còn tiết ra mặt ngoài lớp cutin một lớp
chất nhày; ở giun đất, lớp chất nhày
giúp cho cơ thể luôn được ẩm ướt,
ở giun đốt thủy sinh thì lớp chất nhày
giúp cho con vật giảm bớt sức cản
của nước trong khi di chuyển, còn ở các
giun định cư, chất nhày giúp chúng có
thể kết dính các hạt cát và các mảnh
vụn của vỏ sò ốc làm
thành vỏ ống vùi trong cát để làm nơi
cư trú. Dưới
lớp biểu mô là bao cơ gồm hai hoặc
nhiều lớp, bên ngoài là lớp cơ vòng và bên
trong là lớp cơ dọc. Hoạt động co
duỗi của các cơ tạo nên sự cử
động nhu động giúp cho con vật đào
bới đất và di chuyển;
ở các giun đốt thủy sinh hoạt
động này còn tạo ra dòng chảy giúp cho
việc lọc lấy thức ăn.
Mặc dù giun đốt không có bộ xương
nhưng nhờ hoạt động co thắt của
bao cơ tạo ra một áp lực lớn trong
dịch thể xoang làm cho cơ thể trở nên
rắn chắc. Xoang
cơ thể thuộc loại xoang thứ sinh. Mỗi
đốt thường có một đôi hậu
đơn thận. Hệ
thần kinh, hệ tuần hoàn và hệ tiêu hóa phát
xuất từ vùng đầu xuyên qua các vách đốt
chạy dọc đến tận cùng của cơ
thể (Hình 2). b.
Các cơ quan của giun đốt * Cơ quan vận chuyển. Giun đốt là nhóm động vật đầu tiên có cơ quan vận chuyển. Hầu hết ở mỗi đốt của giun nhiều tơ đều có mang một đôi phần phụ vận chuyển gọi là chân bên (parapodia), mỗi chân bên có hai thùy: lưng và bụng, mỗi thùy đều có mang một bó tơ cứng cấu tạo bởi chất kitin với hình dạng đặc sắc ở mỗi loài (Hình 3). Sự hoạt động của chân bên giúp cho con vật di chuyển trong nước và đồng thời còn giúp cho sự tuần hoàn máu.
A B C D E Hình
3. Một số
dạng tơ cứng ở Polychaeta A.
Hermoine B. Amphitrite
C. Neanthes D.
Heteronereis E. Sơ
đồ của chân bên ở Nereis Trong
ba lớp của ngành thì sự khác biệt về hình
thái và cấu tạo của cơ quan vận
chuyển thể hiện được sự thích
ứng với lối sống của chúng.
Ở giun nhiều tơ có đời sống
hoạt động thì chân bên rất phát triển
(Hình 3E), các chân bên hoạt động như làn sóng
giúp cho sinh vật có thể bơi lội, đào
bới, hoặc bò ra khỏi vỏ ống ở các
loài giun định cư, nhờ đó mà chúng
tập trung sống thành bầy đàn trên mặt nước
biển nhất là vào mùa sinh sản.
Ở Giun đất, do có đời sống
chui rút trong đất nên chân bên có sự thoái
giảm chỉ còn lại những chùm tơ cứng
(Lumbricus sp.) hoặc một vòng tơ cứng (Pheretima
sp.), dù vậy con vật cũng có thể chui rút
được trong đất nhờ vào sự co rút
của bao cơ và sự cử động của các
tơ cứng. Ở
Ðỉa, không có chân bên và cả tơ cứng, chúng
di chuyển trên giá thể bằng cách gắn
chặt giác bám về phía trước rồi co rút
cơ thể về hướng di chuyển theo
kiểu sâu đo; khi bơi lội trong môi trường
nước nhờ sự cử động như làn
sóng của cơ thể. *
Hệ
tiêu hóa chạy dọc theo chiều dài của cơ
thể và xuyên qua các vách đốt, bắt
đầu từ lỗ miệng nằm ở đốt
đầu cho đến hậu môn nằm ở
đốt cuối cùng của cơ thể.
Ôúng tiêu hóa được chia thành một
số vùng hoặc bộ phận đặc biệt
giúp cho sự tiêu hóa thức ăn như: vùng
đưa thức ăn vào, vùng trử thức ăn,
vùng nghiền, vùng tiêu hóa và vùng hấp thu thức
ăn. *
Hệ
tuần hoàn kín và không có tim.
Mạch máu lưng có khả năng co bóp đẩy
máu xuôi về trước cơ thể, máu theo
mạch vòng nối liền mạch lưng với
mạch bụng ở mỗi đốt, sau đó máu
theo mạch bụng hướng về phía sau cơ
thể rồi theo mạch vòng trở về mạch
lưng. Ở đỉa,
hệ tuần hoàn bị tiêu giảm hoặc bị
biến mất hẳn. *
Hệ
bài tiết. Sự
xuất hiện của hệ bài tiết là bằng
chứng của sự tiến hóa.
Bên
cạnh một số loài giun nhiều tơ còn
nguyên đơn thận, nhưng ở hầu
hết giun đốt đều có hệ bài
tiết phức tạp hơn gọi là hậu
đơn thận (metanephridia).
Ở
những loài nguyên thủy thì hầu như mỗi
đốt có một đôi hậu đơn
thận, còn ở một số loài tiến hóa hơn
thì cơ thể chỉ có một đôi hậu
đơn thận. Hậu
đơn thận trực tiếp lọc lấy
chất bài tiết trong dịch thể xoang và đổ
thẳng ra ngoài qua lổ bài tiết nằm ở
mặt bụng ở mỗi đốt. *
Hệ
thần kinh và cơ quan cảm giác.
Hệ thần kinh ở giun đốt phát
triển cao hơn
sán. Ở giun đốt,
hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác phát
triển nhất thấy được ở giun
nhiều tơ sống bơi lội tự do.
Ở những loài này, hạch não nằm trong
một vài đốt đầu của cơ
thể, từ đó phát xuất ra 16 đôi dây
thần kinh cảm giác chạy đi khắp cơ
thể, trong đó đáng chú ý nhất là đôi dây
thần kinh bụng chạy dọc theo chiều dài cơ
thể; ở
một số loài kém tiến hóa thì hai dây thần
kinh bụng cách xa nhau nên ở mỗi đốt
đôi hạch bụng nối với nhau bằng dây
thần kinh ngang, còn ở những loài tiến hóa hơn
thì hai dây thần kinh tiến sát lại với nhau làm
cho hai hạch thần kinh ở mỗi đốt
nhập lại hình thành chuỗi hạch thần kinh
bụng. Một
số giun nhiều tơ có đời sống
hoạt động còn có mắt với thủy tinh
thể hình thấu kính, võng mạc hình chén,
mắt có khả năng điều tiết và
nhận biết được hình dạng các
vật; còn
đa số giun đốt, mắt kém phát
triển hoặc biến mất hẳn.
Tất
cả các giun đốt
đều có các tế bào cảm quang phân bố
rải rác trên bề mặt cơ thể. *
Hệ
sinh dục và sự sinh
sản. Tùy theo mỗi loài trong từng lớp mà giun
đốt có thể
đơn tính hay lưỡng tính, các tuyến sinh
dục phân bố ở tất cả các đốt,
hoặc ở một số đốt nhất định. Giun
đốt có
khả năng sinh sản vô tính và hữu tính. Sinh
sản vô tính bằng cách mọc chồi: trên cơ
thể giun mẹ mọc lên nhiều chồi,
chồi phát triển lớn dần và cuối cùng tách
rời cơ thể mẹ, mỗi chồi phát
triển cho ra một cá thể con.
Ngoài ra giun đốt còn có khả năng tái
sinh lại phần của cơ thể bị mất
đi. Ở
giun nhiều tơ, chu kỳ sinh sản hữu tính
xảy ra theo mùa, thường vào giữa tháng sáu
tức là vào khoảng thời gian có trăng.
Sự thụ tinh tiến hành bên ngoài cơ
thể. Một
đặc điểm đáng lưu ý
là giữa các khớp nối của vỏ,
lớp cutin có tính mềm dẽo nên sự cử
động của các phần cơ thể dễ dàng
hơn, nhất là ở các phần phụ vận
chuyển giúp cho sự cử động bắt
mồi hoặc trốn tránh kẻ thù có hiệu
quả hơn. c.
Vị trí của giun đốt trong quá trình tiến
hóa Trong
giới động vật, sự xuất hiện
của giun đốt đánh dấu một bước
chuyển biến quan trọng trong quá trình tiến hóa
ở động
vật đa bào: -
Sự
xuất hiện hệ tiêu hóa hoàn chỉnh có cả
miệng và hậu môn, mỗi vùng của
ống tiêu hóa có sự chuyên hóa đặc
biệt, ống tiêu hóa có lớp cơ vòng làm tăng
cường hiệu quả tiêu hóa thức ăn. -
Sự
phân đốt của cơ thể cũng là một
đặc điểm quan trọng trong sự
tiến hóa. Sự
xuất hiện của các giun đốt cỗ xưa
cách nay khoảng hơn 500 triệu năm là bằng
chứng về nguồn gốc chung giữa giun đốt
và chân khớp sau này. -
Sự
hình thành xoang cơ thể thứ sinh chứa đầy
dịch thể xoang, đặc điểm này
xuất hiện và được phát hiện
sớm ở các ngành động vật có miệng
sinh trước. Như
vậy các đặc điểm của sự
tiến hóa nói trên xuất hiện sớm ở giun
đốt là bằng chứng để chứng
tỏ giun đốt là ngành tiến hóa đầu
tiên của các ngành động vật có miệng
sinh trước.
Ngành
Chân khớp chiếm một vị trí quan trọng
trong giới động vật.
Trong gần 1, 2 triệu loài động vật
đã được mô tả thì đã có
khoảng 1 triệu loài thuộc ngành Chân khớp,
trong đó có hơn 900.000 loài thuộc lớp Côn trùng.
Chân
khớp hiện diện ở hầu hết các môi
trường. Do các điều kiện sống khác
nhau, đó là
một trong những nguyên nhân cơ bản khiến
cho các đại diện trong ngành có những đặc
điểm về hình thái và sinh lý rất khác
biệt nhau. Tuy
vậy, chân khớp vẫn thống nhất trong
một số đặc điểm chung trong cấu
tạo như là: động vật đa bào có
đối xứng
hai bên, cơ thể chia đốt dị hình, có
vỏ bảo vệ cơ thể, giữa các đốt
có khớp nối với nhau, phần phụ phân
đốt và có khớp động, xoang cơ
thể thu hẹp thành xoang máu (hemocoel) không liên
tục chứa đầy huyết sắc tố có
nhiệm vụ như máu.
Cơ thể hoàn toàn thiếu tiêm mao.
Quá trình phát triển có xen kẻ nhiều
lần lột xác. a.
Vỏ cơ thể
Do sự kết cấu đặc biệt của lớp cutin mà vỏ vừa có khả năng bảo vệ cơ thể mà còn có khả năng nới rộng ra giúp con vật tăng trưởng, chẳng hạn như loài tôm bò cạp Erypterus sống ở đại Cổ sinh, nay đã tuyệt chủng, có chiều dài cơ thể đạt đến 3 mét (Hình 4).
Một
đặc điểm đáng lưu ý
là giữa các khớp nối của vỏ,
lớp cutin có tính mềm dẽo nên sự cử
động của các phần cơ thể dễ dàng
hơn, nhất là ở các phần phụ vận
chuyển giúp cho sự cử động bắt
mồi hoặc trốn tránh kẻ thù có hiệu
quả hơn. A.
Sơ đồ lát cắt dọc cơ thể
B. Sơ đồ lát cắt ngang cơ thể Vỏ
còn là nơi bám của các bó cơ, sự cử
động co duỗi của các bó cơ giúp cho cơ
thể có các hoạt động nhịp nhàng và linh
hoạt. Ngoài
ra tính không thấm của lớp vỏ cutin còn giúp
cho các chân khớp tiến chiếm môi trường
nước, và đồng thời vỏ còn ngăn
cản sự thoát hơi nước của cơ
thể giúp cho chân khớp chiếm ngự cả môi
trường cạn. Nhờ
cấu trúc đặc biệt của vỏ mà
tổ tiên của chân khớp đã từ môi trường
nước tiến chiếm môi trường cạn
cách nay khoảng 390 triệu năm, và môi trường
không khí cách nay 250 triệu năm, và càng về sau càng
trở nên phong phú hơn. b.
Hiện tượng lột xác và sự biến thái Sư
hiện diện của vỏ và tính bền vững
của nó có ảnh hưởng sâu sắc đến
sự phát triển của chân khớp vì vỏ
đã cản trở sự tăng trưởng
của cơ thể. Vì
vậy, để cơ thể lớn lên cần
phải loại bỏ vỏ cũ và hình thành nên
vỏ mới lớn hơn; quá trình đó được
gọi là sự lột xác, quá trình lột xác
diễn ra theo chu kỳ dưới sự kiểm soát
của tuyến nội tiết và đã được
tập trung nghiên cứu nhiều ở côn trùng.
Từ giai đoạn trứng đến khi hình thành
cơ thể trưởng thành có thể xảy ra
một hoặc nhiều lần lột xác, trong quá trình
lột xác cơ thể sinh vật có sự biến
đổi hình thái do đó còn được
gọi là sự biến thái.
Ở côn trùng, quá trình phát triển từ
trứng đến khi trưởng thành có thể không
có sự biến thái (ametabolous), hoặc trong quá trình
chỉ xảy ra biến thái ở một giai đoạn
nào đó gọi là sự
biến thái không hoàn toàn (Hình 6A) hay nửa biến
thái (hemimetabolous) hoặc biến
thái hoàn toàn trong tất cả giai đoạn
(holometabolous) (Hình 6B).
A B Hình
6. Sự biến thái
ở côn trùng A.
Biến thái không hoàn toàn ở Cào cào
B. Biến thái hoàn toàn ở Bướm Hiện
tượng không biến thái gặp ở những
loài côn trùng nguyên thủy không cánh, con non có hình
dạng giống con trưởng thành nhưng có kích
thước nhỏ hơn nhiều và chưa có
giới tính. Hiện
tượng biến thái hoàn toàn hay biến thái
thiếu gặp ở cào cào, gián nhà... ấu trùng
trải qua giai đoạn nhộng có vỏ kén bao
bọc, ấu trùng trong kén biến đổi để
có hình dạng gần giống như con trưởng
thành nhưng chưa có cánh và cơ quan giao phối.
Còn ở trường hợp của biến thái
hoàn toàn, hình dạng của các ấu trùng rất
khác nhau và khác hẳn với dạng trưởng thành.
Tên gọi của giai đoạn đầu
của ấu trùng khi mới thoát khỏi vỏ
trứng có khác nhau tùy theo loài như sâu là ấu trùng
của bướm, giòi là ấu trùng của
ruồi và đuôn là ấu trùng của bọ cánh
cứng.
Trong suốt quá trình phát triển, ấu trùng có
sự gia tăng kích thước nên đều
phải lột xác và mỗi giai đoạn lột xác
đều có sự thay đổi về hình thái.
Thí dụ như ở bướm, thì giai đoạn
sâu non khác hẳn với con trưởng thành: không
có mầm cánh, cơ quan cảm giác kém phát triển
như chưa có mắt kép, chỉ có mắt
đơn, râu ngắn và nhỏ, phần phụ
miệng có kiểu nghiền (bướm trưởng
thành có kiểu hút), có nhiều đôi chân hơn vì
có thêm chân bụng, chúng được nuôi bằng
thức ăn lỏng do sự phân hủy các
chất dự trử trong các mô non.
Ngoài ra sâu non còn có các lông độc,
tuyến tơ và có màu sắc đặc biệt...
những đặc điểm này được
tồn tại trong suốt thời kỳ của sâu
non và được điều khiển bởi
bộ gen dưới sự kiểm soát của hormon.
Trước khi trở thành thành trùng (imagoes) sâu
non lột xác chuyển sang giai đoạn kén
hoặc nhộng. Kén
là giai đoạn tỉnh, nhưng thực chất là
giai đoạn tu chỉnh cơ bản lại cơ
thể: cơ và ống tiêu hóa, tuần hoàn (trừ
một phần hệ thần kinh và hệ ống khí)
, bị tiêu đi thành một khối sền sệt
nhờ tác dụng tích cực của các tế bào
amib. Một số
tế bào hình thành đĩa mầm (imaginal disk) và các
tế bào này sinh sản mạnh và phân hóa theo các hướng
khác nhau để xây dựng nên những cơ quan vĩnh
viễn và xác định.
Sau đó, con vật lột xác lần cuối cùng
và vỏ kén nứt ra, thành trùng chui ra ngoài sống
một đời sống mới khác hẳn với
đời sống của sâu non.
Nhờ phát triển có biến thái nên sâu
bọ có thể hoàn chỉnh những cơ quan còn
thiếu và chưa hoàn thiện trong quá trình phát
triển của phôi. . Sự tiến hóa của ngành Chân khớp Nguồn
gốc của chân khớp được biết
đã khá rõ ràng. Tổ
tiên của chúng ở trong nhóm nhiều đốt
của giun nhiều tơ (Polychaeta).
Quá trình tiến hóa từ giun nhiều tơ
sang chân khớp là một quá trình phức tạp hóa
cấu tạo như biến đổi lớp cutin
thành vỏ cơ thể của chân khớp, phân hóa
bao biểu mô cơ thành các bó cơ, xuất
hiện thể xoang hổn hợp, biến chân bên thành
phần phụ phân đốt, biến một
phần của mạch máu lưng thành tim có khả
năng co bóp để đẩy máu, phát triển
mắt phức tạp và tiến hành quá
trình đầu hóa (cephalization), nghĩa là quá trình
biến đổi và kết hợp các đốt phía
trước thành đầu và các phần phụ
của chúng thành các cơ quan của miệng (Hình
7).
![]()
Ngành
phụ có ngàm bao gồm các Lớp Giáp xác (Crustacea),
Lớp Nhiều chân (Myriapoda) và Lớp Côn trùng
(Insecta). Ðặc
điểm chung của ngành ở chỗ các phần
phụ đầu như có râu, ngàm và xúc biện,
ngoài ra cũng có những khác biệt giữa các
lớp như ở Giáp xác thì năm đốt
đầu tập trung lại thành đầu mang năm
đôi phần phụ gồm
2 đôi râu và ba đôi hàm, hiện tượng
đầu hóa ở nhiều giáp xác còn ở
mức độ thấp, phần phụ còn có hai nhánh:
nhánh trong và nhánh ngoài; trong khi đó ở côn trùng và
nhiều chân thì
mức độ đầu hóa cao hơn và các
phần phụ chỉ có một nhánh. Ngành phụ có kìm bao gồm Lớp Trùng ba lá, xuất hiện ở Ðại Cổ sinh nay đã bị tuyệt chủng (Hình 9), các loài Sam (Hình 10) và Lớp Nhện (Arachnida) (Hình 11), các loài trong ngành phụ này có các đặc điểm như có sự hợp nhất sáu đốt phía trước thành phần đầu ngực (Cephlothorax) và 12 - 13 đốt còn lại của cơ thể kết hợp lại thành phần bụng. Phần đầu ngực có mang sáu đôi phần phụ, đôi thứ nhất là đôi kìm (chelicer), đôi thứ hai là đôi xúc túc (pedipals) và bốn đôi chân đi.
Ðây
cũng là một ngành chiếm vị trí quan
trọng sau chân khớp. Hiện
có khoảng 100.000 loài đã được mô
tả và khoảng 35.000 loài hóa thạch.
Thân mềm là nhóm động vật xuất
hiện rất sớm từ đầu kỷ Cambrien
và các nhóm lớn vẫn còn sống đến ngày
nay. a.
Hình thái học của bốn lớp thân mềm chính Thân
mềm có nguồn gốc từ một nhóm giun đốt,
tiến hóa hình thành nên một ngành động
vật bao gồm các loài như sò, ốc, mực,
bạch tuột. Thoạt
nhìn qua hình dạng ngoài ta nghĩ rằng chúng
chẳng có quan hệ gì với nhau vì do hình thái
của chúng rất khác nhau, sự khác biệt
về hình thái là kết quả của một quá trình
thích nghi lâu dài với điều kiện sống khác
nhau. Tuy
có sự khác biệt nhau về hình thái nhưng chúng
có cùng một số đặc điểm chung như
cơ thể được chia làm ba phần: đầu,
chân và khối phủ tạng.
Có vỏ bằng chất vôi bao bọc, vỏ
hạn chế hoạt động của sinh vật
nên vỏ chỉ gặp ở những loài có đời
sống ít hoạt động, bên cạnh đó
ở những loài tiến hóa hơn có đời
sống hoạt động thì vỏ bị tiêu
giảm như ở mực, hoặc biến mất
hẳn như ở bạch tuột.
Dưới vỏ là lớp áo do bờ thân kéo
dài ra tận tới bờ kia và giới hạn bên
trong một khoang rổng gọi là khoang áo, chính
lớp áo đã tiết ra lớp vỏ bảo
vệ cơ thể. Một
phần của cơ thể phân hóa thành chân, đây
là cơ quan vận chuyển của thân mềm.
Hình dạng và vị trí của chân là một
trong những đặc điểm quan trọng để
phân loại. Thể
xoang của thân mềm bị thu hẹp lại
chỉ còn một xoang nhỏ bao quanh tim.
Hệ thần kinh có não và ba đôi hạch
thần kinh gồm một đôi hạch lưỡi
gai, một đôi hạch chân và một đôi
hạch phủ tạng. Từ
3 đôi hạch đó cho ra các dây thần kinh đến
các cơ quan ở phần đầu, đến chân
và đến các cơ quan trong khối phủ
tạng. Não của
bạch tuột rất phát triển và có khả năng
điều khiển các hoạt động phức
tạp. Người
ta chia thân mềm ra làm bảy lớp trong đó có
bốn lớp quan trọng: (Hình 12) *
Lớp
Polyplacophora (Song kinh: Amphineura hay Chiton): vỏ ốc có
hình trứng do
sự kết hợp của tám tấm vỏ.
Ðầu nhỏ, hệ thần kinh ở dạng
dây thần kinh, trong đó có hai dây phát triển
nhất chạy dọc hai bên cơ thể nên
gọi là Song kinh, chỉ sống ở biển. *
Lớp
Gastropoda (Chân bụng): bao gồm các loài ốc,
ốc sên... có vỏ xoắn trôn ốc. Sống
ở nhiều môi trường khác nhau như
biển, nước ngọt, đất liền. *
Lớp
Bivalvia (Chân rìu): bao gồm các loài như sò, hến,
hàu... có hai mảnh vỏ có thể
đóng mở được nhờ cơ, mang có hình
tấm. Hầu
hết sống trong các lớp bùn trầm tích ở
sông, hồ và biển; chúng di chuyển chậm
chạp hoặc sống bám, một số loài có
khả năng bơi lội. *
Lớp
Cephalopoda (Chân đầu): bao gồm ốc mực,
mực, bạch tuộc; có đầu rất phát
triển, chân là các
xúc tu rất khỏe dùng để bắt mồi,
mỗi xúc tu có rất nhiều giác bám.
Chân đầu là nhóm thân mềm phát triển
cao và có đời sống hoạt động. b.
Sự tiến hóa của chân đầu Tổ
tiên của chân đầu sống cách nay khoảng
550 triệu năm. Cơ
thể có vỏ rất lớn có dạng giống như
các loài ốc biển lớn hiện nay.
Bước đầu trong quá trình tiến hóa
của chân đầu là hiện tượng thoát ra
khỏi vỏ và tạo nên các ngăn phía sau cơ
thể, giữa các ngăn vỏ thông thương
với nhau bằng các ống siphon, con vật
sống ở ngăn ngoài cùng lớn nhất.
Ðể giúp cho cơ thể trở nên nhẹ hơn,
nó tiết vào các ngăn chất khí theo ngã các
ống siphon. Nhóm chân
đầu hóa thạch Belemnites có vỏ nhiều ngăn
nhưng không xoắn, mặt lưng của vỏ là
một tấm sừng mỏng và chóp vỏ là
một chủy đá vôi.
Theo Shrack và Twenhofel thì giai đoạn kế
tiếp của quá trình tiến hóa chuyển vỏ vào
trong cơ thể. Vỏ
của Belemnites biến đổi theo bốn hướng
khác nhau hình thành nên các chân đầu hai mang
hiện nay: -
Vỏ
xoắn trong một mặt phẳng thành vỏ
của Spirula. -
Vỏ không
xoắn nhưng tiêu giảm một phần vỏ
ở mặt bụng hình thành nên mai mực như
ở Mực nang (Sepia). -
Vỏ
bị mất hoàn toàn phần bụng, chỉ còn
lại tấm sừng như ở Mực ống
(Ligoli). -
Vỏ hoàn
toàn bị biến mất kể cả tấm
sừng như ở Bạch tuột (Octopus). Khi chuyển vỏ từ ngoài vào trong thì vỏ không còn thực hiện chức năng bảo vệ cơ thể mà đảm nhận chức năng nâng đỡ cơ thể. Hiện tượng tiêu giảm và biến mất vỏ ở chân đầu có liên quan mật thiết đến đời sống hoạt động của chúng. Trong nhóm chân đầu hiện nay có ốc Anh vũ (Nautilus) còn có vỏ phát triển nhất. II. ÐỘNG VẬT CÓ MIỆNG SINH SAU (DEUTEROSTOMIA)
Da
gai là ngành động vật tương đối
lớn, hiện nay đã mô tả được
khoảng 5.000 loài, chủ yếu sống trong môi trường
biển. Chúng thường
là nhóm động vật sống tự do, một
số ít sống bám trên các giá thể nhờ
cuống bám. Ðây là
một trong những ngành động vật có
miệng sinh sau, trong quá trình phát triển phôi thì phôi
khẩu bị bít kín do sự hình thành thể xoang
chính thức, sau đó ngoại phôi bì lại
lỏm vào đúng ở vị trí của phôi
khẩu để thông với ruột nguyên thủy
hình thành nên hậu môn của sinh vật.
Ở vị trí đối diện, lá phôi ngoài
cũng lỏm vào thông với phần đáy của
ruột nguyên thủy để hình thành nên
miệng. Như
vậy, miệng của sinh vật trưởng thành
được hình thành sau khi hình thành hậu môn. a.
Hình thái học và sự đối xứng tỏa
tròn của cơ thể Mặc
dù hình dạng của cơ thể trưởng thành
giữa các lớp thuộc ngành Da gai tuy có khác nhau
như hình bán cầu, hình sao, hình trụ, hình hoa
huệ, nhưng cơ thể đều có đối
xứng phóng xạ, thường là kiểu đối
xứng tỏa tròn bậc năm (pentamerous), điều
đáng chú ý là đối xứng tỏa tròn ở
da gai chỉ là kiểu đối xứng thứ
sinh, bắt nguồn từ đối xứng hai bên,
trong quá trình phát triển từ dạng ấu trùng
dipleurula có đối xứng hai bên. Dưới
lớp biểu mô của da gai là lớp mô liên
kết, trong lớp này có một bộ xương
gồm các tấm đá vôi
kết hợp lại, trên mỗi tấm đá
vôi có mang các gai tỏa tròn ra ngoài làm cho mặt ngoài
cơ thể tua tủa những gai nhọn.
Thể xoang của da gai khá phát triển và có
phần phân hóa thành khoang của hệ ống nước
(water vascular system), đây là
cơ quan vận chuyển của da gai.
Ngoài chức năng vận chuyển nó còn
giữ nhiệm vụ bắt mồi và bám vào giá
thể. Mặc dù
những dẫn liệu về nguồn gốc tổ
tiên của da gai chưa biết rõ nhưng những
đặc điểm về đối xứng
tỏa tròn của cơ thể có nguồn gốc
thứ sinh từ đối xứng hai bên, sự phân
cắt trứng hoàn toàn theo kiểu phóng xạ và xác
định, sự hình thành thể xoang chính
thức... đủ để chứng tỏ
rằng da gai có quan hệ họ hàng với các ngành
động vật có dây sống (Chordata). b.
Sự sinh sản và phát triển
Gần như hầu hết da gai đều phân
tính, trứng và tinh trùng được phóng thích ra
môi trường nước và sự thụ tinh
diễn ra sau đó. Trứng
phân cắt hoàn toàn, phóng xạ và xác định.
Trứng nở ra ấu trùng Dipleurula có đối
xứng hai bên, đây là ấu trùng chung cho tất
cả các lớp thuộc ngành.
Hai điểm đặc biệt trong sự phát
triển phôi là phôi khẩu bị bít kín lại
trong quá trình hình thành xoang cơ thể và sau đó
hậu môn được hình thành ngay vị trí
của phôi khẩu, hình thành hậu môn của
ấu trùng và của sinh vật trưởng thành.
Miệng hình thành ở cực đối
diện với hậu môn.
Ðiểm đặc biệt thứ hai là túi
thể xoang bao quanh ruột bắt đầu chia thành
ba đôi túi thể xoang: đôi tuiï trước,
đôi túi giữa và đôi túi sau.
Ðôi túi sau biến đổi thành phần chính
của thể xoang. Túi
giữa phải và có khi cả túi trước
phải hoàn toàn bị tiêu biến, túi trước
trái hình thành hệ trục trong đó có ống
đá và khoang tuần hoàn giả.
Túi trái giữa hình thành hệ ống nước
của da gai. Từ
ấu trùng dipleurula sẽ hình thành dạng ấu trùng
mới tiếp theo mà tên gọi của chúng khác nhau
tùy theo mỗi lớp: ấu trùng này ở cầu
gai gọi là Echinopluteus, của sao biển là Bipinaria,
của sao biển rắn là Ophiopluteus, của hải
sâm gọi là Auricularia và
của huệ biển là Antedon (tất cả các
ấu trùng được gọi chung là ấu trùng
Tornaria) (Hình 13). Thường
ấu trùng của từng lớp sai khác chủ
yếu trên mức độ phát triển và hình
dạng của vành tiêm mao trên các nhánh của cơ
thể ấu trùng. Âúu
trùng dipleurula có đối xứng hai bên, các da gai trưởng
thành có đối xứng phóng xạ, nên tùy
mức độ mà giai đoạn dạng ấu trùng
thứ hai này chuyển dần sang kiểu đối
xứng của con trưởng thành.
b.
Ba ngành phụ của dây sống *
Ngành
phụ sống đuôi (Hình 19).
Có bao (tunica) hay còn gọi là sống đuôi,
gồm khoảng 2.000 loài cư trú ở biển và
chuyên hóa theo lối sống định cư nên
cấu tạo cơ thể phù hợp với lối
sống này. Một
số loài sống đuôi sống chung với nhau thành
tộc đoàn. Hầu
hết các loài thuộc sống đuôi đều có
ba đặc điểm chung như có mang ở vùng
hầu và thông ra ngoài bằng các khe mang, có dây
sống và có ống thần kinh đuôi.
Ở nhiều loài, ống thần kinh bị
biến mất ở dạng trưởng thành. *
Ngành
phụ sống đầu (Hình 20). Là
nhóm nguyên thủy nhất, chủ yếu sống
ở biển. Hiện
nay đã mô tả được khoảng 30 loài và
được biết nhiều nhất là cá lưỡng
tiêm (Amphioxus) còn gọi là cá giuột.
Cá lưỡng tiêm có dạng cá, hai dãy cơ
phân đoạn ở hai bên thân đến tận
đuôi. Con trưởng
thành vẫn còn giữ được đầy
đủ ba đặc điểm chung như mang, có
dây sống và ống thần kinh.
Chúng sống vùi trong cát ở đáy biển,
phểu miệng tròn có nhiều xúc tu quanh mép
miệng nằm ở đáy phểu thông với
hầu ở bên trong, hầu phình rộng ra và
thủng thành nhiều khe mang xếp chéo hai bên.
Sự cử động của các xúc tu
tạo nên một dòng nước cuốn thức
ăn và oxy vào bên trong và sau đó nước thoát
ra ngoài theo ngã các khe mang.
Mặt bụng của hầu có các rảnh
nội tiêm (endocyste) tiết ra chất nhày thu lấy
các mảnh thức ăn rồi đưa vào
ruột. Phần trước
của ruột về phía mặt bụng có mấu
ruột tịt-gan có chúc năng như gan.
Hệ bài tiết của Amphioxus theo kiểu nguyên
đơn thận có các tế bào tiết gọi là
solenocyte hay quản bào có cấu tạo tương
tự như tế bào thận của các dây
sống bậc cao. Ðây
là một bằng chứng chứng tỏ mối quan
hệ gần gủi giữa sống đầu
với có xương sống. *
Ngành
phụ có xương sống.
Bao gồm các dây sống có mức tiến hóa
cao nhất, mặc dù
chúng chỉ chiếm 5% tổng số các loài động
vật hiện sống. Cấu
tạo cơ thể đồng nhất và có các
đặc điểm sau: -
Cơ thể được nâng đỡ
bởi cột sống (backbone) bằng chất
sụn hoặc bằng chất
xương. -
Bộ xương nâng đỡ cơ thể
được các cơ gắn chặt vào nên
sự co duỗi của các bó cơ giúp cho hoạt
động của cơ thể linh hoạt nhờ
đó mà con vật có khả năng săn mồi
hoặc trốn chạy kẻ thù. -
Dây sống lưng có mô xương bao quanh, khi
trưởng thành mô xương được
biến đổi thành các đốt xương
sống tạo nên cột sống.
Ôúng thần kinh nằm trên dây sống, về
phía trước nó phình ra hình thành não bộ
với nhiều phần khác nhau.
Não bộ được che chở bởi
hộp sọ bằng sụn hoặc bằng xương. Hệ
tuần hoàn kín, có tim và tim có khả năng co bóp
để đẩy máu.
Tim ít nhất
có hai ngăn. Máu có
hồng cầu với huyết sắc tố
hemoglobin.
Hình 20. Cá lưỡng tiêm A. Lát cắt dọc B. Lát cắt ngang Với
những lợi thế trên mà tổ tiên của dây
sống xuất hiện rất sớm và rất
đa dạng. Nhiều
bằng chứng chứng tỏ chúng đã xuất
hiện vào thời Ordovicien cách nay khoảng 500
triệu năm trong môi trường nước
ngọt, tổ tiên chúng thuộc nhóm không hàm
(Agnatha) và từ nhóm này phát sinh hai nhánh, nhánh cá
sụn và nhánh cá xương. Từ
nhánh cá xương tiến hóa hình thành các động
vật có xương sống bậc cao hơn. Hình
21. Cá giáp
Ngành phụ có xương sống được
chia thành tám lớp: không hàm (Agnatha), Cá Giáp
(Placodermi), Cá Sụn (Chondrichthyes), Cá Xương
(Osteichthyes), Lưỡng thê (Amphibia), Bò sát (Reptilia),
Chim (Aves) và Thú (Mammalia). Bảy
trong tám lớp đó còn hiện diện đến
ngày nay, chỉ riêng lớp Cá giáp (sống ở
kỷ Devonien) đã bị tuyệt chủng rất
sớm trong quá trình tiến hóa của các động
vật có xương sống (Hình 21). c.
Ðặc điểm chính của năm lớp động
vật có xương sống *
Lớp
Cá sụn. Có khoảng 200 loài chỉ hiện
diện trong môi trường biển, bao gồm các
loài như cá mập, cá nhám, cá đuối ó, cá
đuối... Mặc dù bộ xương bằng
sụn nhưng cũng rất cứng chắc nhờ
có tẩm thêm chất vôi.
Mức độ tổ chức cơ thể
của cá mập cũng như các loài cá khác cũng
thể hiện sự tiến hóa cao hơn cá không hàm
và cá giáp ở chỗ nó có hàm và hàm được
gắn vào xương sọ.
Ngoài ra cá sụn hiện nay cũng có đặc
điểm tiến bộ hơn cá xương ở
chỗ do có đời sống hoạt động
phức tạp nên bán cầu não phát triển
rất mạnh. Một
điểm đáng chú ý trong quá trình tiến hóa,
ở phôi của cá không hàm thì hầu có bảy
đôi túi nhỏ và xen giữa các túi này có các cung
mang có sụn chống đỡ (Hình 22A), ở cá giáp
có sáu cung mang, còn ở cá mập và các cá sụn khác
chỉ có năm cung mang và mang mở ra ngoài bằng
một lỗ nhỏ gọi là lỗ thở
(spiracle). Ở cá
mập, đôi cung mang thứ hai ở cá không hàm
biến đổi thành xương chống đỡ
hàm (hyomandibular) (Hình 22B). Vì
cá sụn còn giữ nguyên tính chất nguyên thủy
của bộ xương cấu tạo bằng
sụn, nên trong quá trình tiến hóa nó tách thành
một nhánh riêng biệt và phát triển đến
ngày nay. *
Lớp
Cá xương. Có khoảng 3.000 loài cư trú cả
môi trường biển và nước ngọt.
Như
vậy phần lớn các loài cá hiện nay thì cá xương
có một vị trí ưu thế hơn.
Cơ thể được nâng đỡ
bởi bộ xương có cấu tạo bằng
chất xương, mang luôn luôn có nắp mang che
đậy và hô hấp chủ yếu nhờ vào
mang. Hình dạng cơ
thể có khác nhau để đáp ứng với áp
lực của nước và thích nghi với đời
sống bơi lội. Những
loài có đời sống bơi lội thì vây đuôi
hoạt động rất mạnh và đều có
một đôi vây ngực, một đôi vây
bụng, một vây lưng và một vây hậu môn
(Hình 23).
Do
thích nghi với môi trường sống nên hình
dạng cơ thể có những biến đổi
phụ thuộc vào điều kiện cụ thể
của môi trường và cách sống.
Chẳng hạn như cá Bơn
sống ở đáy nước nên cơ
thể dẹp theo chiều lưng bụng và hai
mắt nằm về phía lưng của cơ
thể, cá Chình có cơ thể thuôn dạng rắn,
Hải mã có cơ thể trông giống như con
ngựa, cá bay (flying fish) có đôi vây ngực phát
triển rộng ra hình thành một cơ quan đặc
biệt lướt trong không khí khi nó phóng khỏi
mặt nước (Hình 24A, B, C, E). Một
nhóm cá xương đặc biệt khác là Dipnoi,
hiện nay có ba giống tìm thấy ở Úc châu,
một giống ở Nam Phi châu và một giống
ở Nam Mỹ, chúng
là cá nước ngọt hô hấp bằng mang và
lại có thêm phổi. Khi
chúng trầm mình trong nước thì hô hấp
bằng mang, nhưng khi chúng trồi lên khỏi
mặt nước thì phổi hoạt động
để lấy oxy trong không khí.
Năm 1939, người ta phát hiện được
một giống cá đặc biệt là Latimeria
ở bờ biển nam Phi châu, chúng là dòng dỏi
của cá vây tay. Các
nhà khoa học giải thích rằng tổ tiên xa xưa
của chúng sống ở kỷ Devonien
cách nay hơn 500 triệu năm, nay đã
bị tiệt chủng, chúng sống trong nước
ngọt và có khả năng bò, trườn lên
cạn và hô hấp bằng phổi, đây là
tổ tiên của ếch nhái đầu cứng trong
quá trình tiến hóa. Sang
đại Trung sinh, ở kỷ Trias, cách nay
khoảng 70 triệu năm, một số tổ tiên
này trở lại đời sống ở nước
và trở thành tổ tiên trực tiếp của cá
vây tay Latimeria ngày nay.
Ðặc điểm của chúng là hô hấp
bằng mang, ngoài ra còn có bong bóng hơi thông
với hậu môn có thể hấp thu trực
tiếp oxy của không khí, một số loài có
hầu thông với lỗ mủi.
Chúng cũng có vây chẳn gồm đôi vây
ngực và đôi vây bụng cứng có khả năng
đẩy cơ thể tới khi di chuyển trên môi
trường cạn.
Lớp
Lưỡng thê. Có
khoảng 2.000 loài phần lớn sống ở vùng
nhiệt đới ẩm ướt,
chúng chỉ sống ở những vùng có nước
ngọt không có ở biển.
Lớp này được chia thành ba bộ:
bộ không đuôi (Anura) bao gồm ếch, nhái, cóc;
bộ có đuôi (Urodela = Caudata) gồm phần
lớn các loài sống ở nước cả đời
như cá cóc Tam đảo (Paramesotriton deloustali),
một số ít ở cạn không cần nước
hoàn toàn như Triturus
hoặc chỉ có giai đoạn ấu trùng ở nước
như Ambystoma; bộ không chân (Apoda = Gymnophiona) có
hình giun có nhiều biến đổi thích nghi
với đời sống chui rúc, đào bới như
ếch giun (Ichthyophis glutinosus).
Trong
quá trình tiến hóa của động vật có xương
sống ở cạn, một nhóm lưỡng thê
cổ được gọi là ếch nhái đầu
cứng thích nghi được với đời
sống ở cạn do da có khả năng chống
lại sự mất nước làm khô da và đẻ
trứng có vỏ cứng bảo vệ.
Từ nhóm này đã tiến hóa hình thành bò sát,
từ đó hình thành chim và thú. *
Lớp
Bò sát. Bò sát là nhóm
động vật có xương sống đầu
tiên thích nghi hoàn toàn
với đời sống ở cạn trong quá trình
tiến hóa, nó đánh dấu một bước
tiến hóa quan trọng trong giới
động vật. Hiệu quả mà bò sát
đã đạt được thể hiện
ở các đặc điểm: -
Trứng có vỏ bảo vệ, trong quá trình phát
triển phôi có sự hình thành các
màng phôi như màng ối, màng đệm và màng
niệu bảo vệ cho sự phát triển của
phôi và túi noãn hoàng cung cấp chất bổ dưỡng
cho phôi phát triển. -
Da được che chở bở lớp
vảy sừng nên ngăn được sự
mất nước của cơ thể. - Hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ sinh dục và hệ bài tiết được cải tiến thích nghi với đời sống ở cạn. Tổ
tiên của bò sát xuất hiện đầu tiên
ở cuối đại Cổ sinh, chúng không có
đối thủ cạnh tranh, hơn nữa trên
đất liền dồi dào thực vật nên chúng
càng có điều kiện phát triển nhanh và
trở nên đa dạng phong phú.
Cho đến đại Trung sinh, chúng ngự
trị cả môi trường trên cạn, trên không
và dưới biển như các loài thằn lằn
sấm (Brontosaurus), thằn lằn bay (Pterosaurus),
thằn lằn đầu rắn (Plesiosaurus), thằn
lằn cá (Ichthyosaurus).
Thời gian ngự trị của chúng suốt
hết đại Trung sinh kéo dài khoảng 90
triệu năm. Một
vài loài có kích thước rất lớn thường
được nói đến như Dinosaurus sống
hết đại này. Ngày nay, các nhóm bò sát có kích thước giảm đi rất nhiều bao gồm các loài như thằn lằn (thạch sùng), cá sấu, rắn, rìa và một dạng khác thường như Sphenodon tìm thấy ở New Zealand có dạng tương tự như thằn lằn nhưng tua tủa gai nhọn trên đầu (Hình 26). Lớp Chim. Chim là nhóm động vật có xương sống có khả năng thích nghi với điều kiện sống phức tạp trên cạn, có nhiều biến đổi sâu sắc về cấu tạo cơ thể cũng như các hoạt động sống để phát triển khả năng bay.Mặc
dù hình dạng cơ thể của chúng có những
sai khác nhưng đều thống nhất ở các
đặc điểm chính như sau: - Có thân nhiệt cao và không đổi. -
Phát triển các giác quan nhất là mắt và
tai cùng với sự phát triển mạnh của
các phần não để điều hòa
những hoạt động sống phức tạp. -
Có chi trước biến thành cánh.
Ở những loài chim bay thì đôi cánh rất
phát triển
thích ứng cho việc bay lượn săn mồi.
Ði bằng hai chân sau. -
Phát triển bộ lông vũ và phân hóa
phức tạp làm cho cơ thể chim nhẹ, linh
hoạt chuyển vận trong không khí. -
Bộ xương có nhiều biến đổi
bảo đảm nhẹ và chắc, cùng với
hệ thống túi khí đảm bảo cho chim hô
hấp trong lúc bay. -
Tiêu giảm răng và thay bằng mỏ
sừng thuận lợi cho việc bắt mồi và
giữ mồi.
Về nguồn gốc thì chim có nguồn
gốc từ bò sát. Trước
kia người ta cho rằng tổ tiên chim cổ là
một loài thằn lằn cổ là Dinosaurus vì có
nhiều đặc điểm giống như chim
hiện nay như đi bằng hai chân sau, có xương
rổng, ba ngón tay phát triển và xương bàn tay
dài và đặc biệt là xương háng không
gắn với nhau mà bám vào cạnh ngoài của xương
chậu. Tuy nhiên, chúng
không có đặc điểm chuyên hóa giống chim
như không có xương đòn.
Vì vậy chúng không phải là tổ tiên
của chim. Hiện
nay, các nhà phân loại học cho rằng tổ tiên
chim thuộc nhóm Pseudosuchia
có cùng nguồn gốc với nhóm thằn lằn
cổ Dinosaurus. Còn
tổ tiên trực tiếp của chim thì hiện
nay chưa rõ. Pseudosuchia
có đời sống leo trèo trên cây, có thể
nhảy chuyền từ cành này sang cành khác nhờ màng
cánh phát triển ở trung gian xương cánh tay và
xương ống tay, và ở trung gian xương cánh
tay và bên thân. Ngoài
ra, vẩy của nó rất phát triển đặc
biệt ở chi trước và đuôi.
Người ta cho rằng trong quá trình tiến
hóa thì vẩy phát triển dài và rộng ra
để hình thành lông chim. Lớp
Chim hiện nay được chia làm ba lớp
phụ: lớp phụ Chim chạy (Ratitae), lớp
phụ Chim bay (Carinatae) và lớp phụ Chim bơi
(Impennes). *
Lớp
phụ Chim chạy. Bao
gồm các loài chim có kích thước lớn
nhất hiện nay, không
biết bay, cánh kém phát triển, xương mỏ
ác không có lưỡi hái; chân to, khỏe chỉ có
ba hay hai ngón thích nghi với lối chạy.
Hộp sọ nhỏ.
Hiện nay chỉ còn một số ít loài thường
xuyên bị đe dọa và trên con đường
tiệt chủng, bao gồm các họ Ðà điểu
ở vùng bán sa mạc Châu Phi, ở các đồng
cỏ và cao nguyên Nam mỹ, và ở vùng bán sa
mạc Châu Uïc (Hình 27). *
Lớp
phụ Chim bay. Bao
gồm các loài chim hiện nay.
Chúng có một số đặc điểm
chính như: cánh rất phát triển dùng để
bay, xương lưỡi hái và cơ ngực
lớn, chân có từ 3 - 4 ngón.
Thức ăn của chúng rất đa dạng
như côn trùng, giun, ốc, ngũ cốc, trái cây và
các động vật nhỏ... Do chế độ
ăn uống khác nhau nên có sự biến đổi
hình dạng của mỏ sừng để thích nghi
với từng loại thức ăn ở mỗi loài. *
Lớp
phụ Chim bơi. Chỉ
có một bộ chim Cụt gồm khoảng 10 loài,
tập trung sống
thành đàn ở Nam cực, nhưng có thể xuôi
theo dòng nước về phía Bắc tới vùng xích
đạo. Ðặc
điểm cấu tạo của cơ thể có liên
quan mật thiết đến cuộc sống bơi
lội giỏi, không bay: xương rổng,
nặng; lông có thân lông đặc biệt và
phủ kín thân, lông cánh thì nhỏ ngắn; xương
lưỡi hái và cơ ngực rất phát triển;
chân lùi về phía sau mình nên chim có dạng thẳng
đứng thẳng, chân có ba ngón nối liền
nhau nhờ màng bơi. Thức
ăn của chúng chủ yếu là cá và thân
mềm. +
Lớp
Thú (Mammalia) (Hình 28). Thú
là lớp có tổ chức cơ thể cao nhất
trong các lớp
thuộc ngành động vật có xương
sống, bởi ba đặc điểm nổi
bật như: cơ thể có lông mao bao phủ, có
tuyến vú, tim có bốn ngăn và chỉ còn
giữ lại cung động mạch chủ trái
trong hệ thống tuần hoàn.
Tất cả các thú đều đẻ con
trừ một lớp phụ đẻ trứng.
Lông mao bao phủ cơ thể làm giảm
sự mất nhiệt của cơ thể nên thân
nhiệt luôn luôn được ổn định.
Các tổ chức của cơ thể và
trật tự sắp xếp của các nội quan
theo một kiểu giống nhau.
Hầu hết có hai loại răng: răng
sửa và răng vĩnh viễn, răng gắn vào xương
hàm nơi các lỗ răng. Tổ
tiên của thú có nguồn gốc từ nhóm bò sát
dạng thú xuất hiện rất sớm ở
giữa Ðại Trung sinh cách nay 190 triệu năm,
đây là thời gian phồn thịnh của bò sát.
Ðến cuối Ðại Trung sinh, nhóm bò sát
bị suy tàn, nhờ có các đặc điểm thích
nghi được với sự thay đổi môi trường
sống nên nhóm bò sát dạng thú có điều
kiện tồn tại và phát triển đó là
tổ tiên trực tiếp của lớp thú,
sống cách nay 100 triệu năm.
Lớp thú được chia làm ba lớp
phụ: lớp phụ Ðơn huyệt (Prolotheria
hoặc Monotremata), lớp phụ thú có túi (Metatheria
hoặc Marsupialia) và lớp phụ thú có
nhau (Eutheria). Sự
phân loại này dựa vào đặc điểm
của sinh sản: thú đơn huyệt đẻ
trứng, thú có túi đẻ con nhưng con chưa phát
triển đầy đủ nên con non tiếp
tục phát triển trong túi ấp của mẹ và
thú có nhau có nhau thai, con non lọt lòng đã phát
triển đầy đủ và được nuôi
bằng sửa mẹ. *
Lớp
phụ thú đơn huyệt.
Chỉ có một số ít loài như thú mỏ
vịt, nhím mỏ chim... gặp ở
Châu Úc và New Guineé, còn mang nhiều đặc tính
nguyên thủy như: đẻ trứng có nhiều
noãn hoàng; ruột và xoang niệu sinh dục thông vào
một huyệt chung; không có núm vú và tuyến
sửa hình ống phân tán trên vùng tuyến, con
liếm sửa ở đó.
Thân nhiệt thấp thay đổi từ 26 -
340C. Thú mỏ
vịt Ornithorhynchus sống trong hang dọc bờ sông
Châu Uïc, mỏ to khỏe, chân có năm ngón có màng
nối liền, đuôi rộng dẹp.
Thích nghi với đời sống bơi
lội bắt sâu bọ và giáp xác.
Nhím mỏ chim Tachyglossus sống trên đất
gặp ở Châu Uïc và Tân Guineé.
Thân phủ lông xen gai nhọn ngắn.
Gặp nguy chúng cuộn tròn thân chỉa gai tua
tủa như chim (Hình 28.). §
Chó
sói túi Thylacinus lớn bằng con chó, ăn thịt.
Chuột chủi túi Notoructes ở dưới
đất, thiếu mắt, chi trước ngắn,
khỏe, có vuốt lớn.
Gấu túi (con Kaola) Phascoatarcus
ở trên cây ăn thực vật.
Kangaroo (Macropus) sống trên đất lớn 2 mét,
chi trước ngắn, chi sau và đuôi rất phát
triển, nhảy xa 5 - 10 mét. *
Lớp
phụ thú có nhau. Bao
gồm các loài thú có mức độ tiến hóa
cao nhất. Sự phát
triển của phôi thai xảy ra trong tử cung
của mẹ và phôi thai được nuôi bằng
chất dinh dưỡng từ mẹ qua nhau thai, con
đẻ ra đã phát triển đầy đủ
và có khả năng tự bú sửa.
Chăm sóc con chu đáo và bảo vệ con
chống kẻ thù. Thân
nhiệt cao và ổn định.
Răng đều có sự thay răng; gồm
hai loại răng sửa và răng vĩnh viễn.
Nhờ có tổ chức cơ thể cao, thú có
nhau có khả năng thích nghi được với
mọi môi trường sống, không những phân
bố trên lục địa mà còn cả trong các
đại dương. Do
môi trường sống và hoạt động có khác
nhau nên cấu tạo của các thành phần cơ
thể có những biến đổi chuyên hóa sâu
sắc nhất là về bộ răng và hai đôi
chi. Ở
nhóm có guốc bao gồm trâu, bò, dê, lạc đà,
ngựa, lừa... thích nghi với việc chạy nên
các đốt xương chi dài và khớp với
nhau rất linh hoạt, đồng thời có thể
chạy nhanh thì số ngón chân bị tiêu giảm,
chẳng hạn ở ngựa chỉ còn lại
một ngón chân giữa, và khi chạy chỉ có
đầu ngón chân chạm đất.
Còn ở voi, tê giác thì ngược lại, chi
có năm ngón ngắn và chụm lại và được
guốc bao phủ làm tăng kích thước của
guốc để chống đỡ cơ thể
nặng nề.Chân của chuột chũi thích nghi
với việc đào xới thì phát triển
vuốt có bản rộng.
Nhiều loài khác nhau thì vuốt có dạng hình
liềm đẻ thích nghi với việc bắt
mồi như mèo, cọp, sư tử... Ðối
với các loài thú sống trong biển như sư
tử biển, cá nược, hải cẩu, cá
heo... chân sau bị tiêu giảm chỉ còn lại
vết tích của xương chậu, còn chân trước
biến đổi thành chân chèo.
Sau cùng, ở nhóm linh trưởng để thích
nghi với việc leo trèo trên cây nên ngón tay cái
của chi trước biến đổi đối
diện với các ngón khác, do đó chúng có thể
cầm nắm thức ăn hoặc treo mình trên cành
cây. Từ
một loài vượn dạng người xuất
hiện cách nay 12 triệu năm và trong quá trình
tiến hóa đã phát sinh ra loài người vào
giữa kỷ thứ tư.
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||