CHƯƠNG
I
SINH VẬT
SƠ HẠCH và SIÊU KHUẨN
Sinh
vật được chia làm hai nhóm: sinh vật
sơ hạch và sinh vật chân hạch.
Sinh vật sơ hạch
bao gồm Vi khuẩn và một số
dạng lân cận như Mycoplasma và Vi khuẩn
lam (Cyanobacteria), mà từ lâu được phân
loại là Tảo lam vì chứa diệp lục
tố. Ngoài ra
còn có một nhóm cổ Vi khuẩn (Archaebacteria)
(Hình 1). Siêu
khuẩn là những cấu trúc tự sao chép,
chỉ sống trong ký chủ và thường không
được phân loại như một cơ
thể sống thật sự.
I.
SINH VẬT SƠ HẠCH (Procaryote)
Sinh
vật sơ hạch là một nhóm sinh vật xưa
nhất trên trái đất và phong phú nhất.
Các hóa thạch của chúng đã
được tìm thấy trong các đá
thời tiền Cambi (Cambrien) cách nay 3 tỉ năm.
Hiện nay, những sinh vật đơn bào
này hiện diện ở tất cả những
nơi mà sinh vật chân hạch được
tìm thấy và có ở những nơi mà không
một sinh vật nào khác có thể sống
được. Thí
dụ, một số Vi khuẩn sống trong các
hố đại dương tối tăm, băng
giá; một số Vi khuẩn khác lại sống
trong các suối nước nóng, gần nhiệt
độ của nước sôi.
Ðặc
điểm chính để phân biệt tế bào
chân hạch và sơ hạch là tế bào sơ
hạch không có màng
nhân và cũng không có các bào quan có màng. Vi
khuẩn và Vi khuẩn lam là hai nhóm được
nghiên cứu nhiều nhất trong nhóm sinh
vật sơ hạch.
a.
Ðặc điểm chung
Vi
khuẩn là những sinh vật sơ hạch,
đơn bào. Vi
khuẩn quá nhỏ nên không thấy được
bằng mắt trần và chỉ được
phát hiện sau phát minh của kính hiển vi; không
phóng đại thì chỉ thấy một
khối mọc trên bề mặt dĩa cấy
trong phòng thí nghiệm hay trên thức ăn
bị hư, và chỉ có thể phân biệt
được màu và kết cấu của
tộc đoàn hay những đốm trong
suốt mà chúng tạo ra.
Kính hiển vi đơn giản đầu
tiên của Antoni van Leeuwenhoek phát hiện
những khối hay tộc đoàn, gồm
những que nhỏ, những khối hình cầu
mà ông đã phát họa vào năm 1684. Escherichia
coli có kích thước 1 x 2 (m; Mycoplasma 0,3 x 0,8 (m
trong khi tế bào chân hạch bạch cầu có
đường kính khoảng 10 mm.
Vi
khuẩn có hình cầu (coccus), hình que (bacillus), hình
dấu phẩy, hình trụ, hình xoắn... sau khi
phân cắt các cầu khuẩn hoặc tách
hoặc dính thành đôi gọi là diplococcus;
hình chuỗi được gọi là
streptococcus; hay chùm được gọi là staphylococcus.
Sự sắp xếp của tế bào thành
sợi, lớp hay thành đám được xác
định bởi mặt phẳng phân
cắt của tế bào (Hình 2).
Ngoài
Vi khuẩn thật (Eubacteria), có thêm những Vi
khuẩn lân cận, với đặc điểm
sinh lý học rất giống Vi khuẩn nhưng
hình dạng rất khác cũng được
xếp vào Vi khuẩn như Xạ khuẩn
(Actinomycetes), có hình sợi được tìm
thấy rất nhiều trong đất, Mycoplasma
thường có hình sợi nhưng mảnh hơn
Vi khuẩn và Rickettsiae là những Vi sinh
vật gây bệnh và ký sinh bắt buộc.
b.
Vách tế bào
Thành
phần hóa học của vách tế bào Vi
khuẩn khác vách tế bào chân hạch.
Thay vì bằng celluloz là thành phần chính
của vách tế bào chân hạch thực
vật, thì vách tế bào Vi khuẩn là
peptidoglycan, là một đa phân dẫn xuất
của đường đa liên kết bởi
các acid amin. Acid
muramic là một đường đa, thành
phần cấu tạo chính, do đó peptidoglycan còn
được gọi là murein.
Vai trò của vách tế bào trong sự duy
trì hình dạng của vách tế bào đã
được chứng minh khi tế bào Vi
khuẩn được xử lý bằng lysozim.
Lysozim thủy giải đường đa
của vách phóng thích chất nguyên sinh, liền
sau đó nó có dạng hình cầu (cho vào dung
dịch nhược trương sẽ làm nó trương
và vỡ ra).
Ở
một số Vi khuẩn và Vi khuẩn lam, vách
tế bào có nhiều lớp.
Lớp ngoài nhiều lipopolysaccharid.
Lớp này có khả năng giử lại
phẩm nhuộm tím của phương pháp
nhuộm Gram (phản ứng để nhận
dạng Vi khuẩn có từ 1884 do nhà Vi khuẩn
học Hans Christian Gram người Ðan
mạch). Gram
nhận thấy rằng một số loài Vi
khuẩn nhuộm tím (Gram +) trong khi số khác thì
mất màu trong rượu và nhuộm màu
thứ hai, safranin hay acid fuchsin và trở nên đỏ
hay hồng (Gram -). Riêng
nhóm Mycoplasma không có vách tế bào.
Penicillin là chất không độc đối
với động vật và thực vật nhưng
độc đối với một số Vi
khuẩn vì nó ức chế sự thành lập
chất murein, do vậy nó can thiệp vào sự
sinh sản của Vi khuẩn Gram dương.
Nhiều
sinh vật sơ hạch tiết ra một
lớp bao ngoài bằng những chuỗi
đường đa được gọi là
glycocalyx, lớp này giúp cho Vi khuẩn dính vào
những giá thể như men răng.
Ở một số Vi khuẩn khác lớp
ngoài là một capsule kháng bảo vệ Vi
khuẩn dưới những điều kiện
bất lợi. Thí
dụ dạng có capsule gây bệnh lao phổi
ở người vì chúng kháng lại sự
thực bào của bạch cầu ký chủ;
những dòng không có capsule bị thực bào và
bị tiêu diệt bởi ký chủ nên thường
không gây bệnh.
c. Chất nguyên sinh
Các
bào quan đặc trưng của tế bào chân
hạch không có trong tế bào sơ hạch,
chỉ có ribô thể (có kích thước
nhỏ hơn ribô thể của tế bào chân
hạch) và các loại hạt dự trử.
Màng sinh chất tương tự tế bào
chân hạch nhưng không có steroid. Chuỗi
dẫn truyền
điện tử nằm trong màng sinh chất
trong khi ở tế bào chân hạch nó nằm
trong màng trong của ty thể.
Vi khuẩn không có lục lạp nên
hầu hết sắc tố quang hợp của
chúng được tìm thấy ở màng tế
bào. Do Vi
khuẩn có cấu trúc tương tự như
ty thể và lục lạp nên theo thuyết
nội cộng sinh (endosymbiont theory) cho rằng
nguồn gốc của ty thể và lục
lạp là những Vi khuẩn xâm nhập vào
tế bào, chúng tiếp tục sinh sản và
sống cộng sinh trong tế bào chủ.
Một bằng chứng khác cho thuyết
nội cộng sinh là một số Vi khuẩn
lam sống bên trong các tế bào khác.
Một số thành phần tế bào
chất của Vi khuẩn là sản phẩm
của sự biến dưỡng của tế
bào, như glycogen và những hạt acid
hydroxybutyric là một dạng dự trử
của lipid. Tế
bào chất cũng có thể chứa chất
béo, những hạt polyphosphat và ở một
số Vi khuẩn có chứa các tinh thể lưu
huỳnh.
ADN (nucloid) của tế bào sơ hạch
ở vùng giữa và không có màng để ngăn
cách với tế bào chất.
Mặc dù được xem như nhiễm
sắc thể, nhưng ADN không có ARN và protein như
ở tế bào chân hạch.
ADN của tế bào sơ hạch là
sợi đơn hay đôi có
kiến trúc vòng kín.
Tế bào Vi khuẩn có chứa những ADN
tự do có khả năng tự nhân lên
một cách độc lập với ADN vùng
giữa gọi là plasmid.
Plasmid được chuyển từ tế
bào này sang tế bào kia khi hai tế bào Vi
khuẩn tiếp hợp nhau.
Trong kỷ thuật di truyền, plasmid
được sử dụng làm vectơ để
chuyển gen mong muốn vào tế bào chủ.
d.
Sự sinh sản
Vi
khuẩn sinh sản bằng cách phân đôi: ADN
sao chép, sợi tách ra và tế bào chất chia
hai; không có thoi vi ống để cho nhiễm
sắc thể chuyển động như ở
tế bào chân hạch.
Tế bào sơ hạch có một cơ
chế khác để phân ly ADN của chúng, phân
tử ADN con bám vào màng tế bào và được
kéo về hai phía trong lúc tế bào dài ra.
Một số Vi khuẩn có thể thành
lập bào tử nghỉ được gọi
là nội bào tử (endospore) có vỏ rắn
chắc, bào tử này có thể sống sót
nhiều giờ trong nước sôi hay được
đông lạnh trong nhiều thập kỷ hay hàng
thế kỷ. Khi
điều kiện thuận lợi bào tử
nẩy mầm thành tế bào dinh dưỡng, tăng
trưởng và phân chia.
e.
Sự cử động
Nhiều
loài Vi khuẩn cử động được
nhờ những chiên mao phân bố trên bề
mặt của cơ thể hay chỉ ở
một đầu của tế bào.
Chiên mao của Vi khuẩn rất mảnh
(10-20 nm), so với chiên mao của tế bào chân
hạch về cấu trúc và khác biệt cơ
bản. Chúng
được cấu tạo bằng những
đơn vị protein hình sợi flagellin, khác
với protein hình cầu tubulin
cấu tạo nên vi ống của chiên mao ở
tế bào chân hạch.
Chiên mao của Vi khuẩn có ruột
rổng. Một
số Vi khuẩn có các sợi mảnh hơn chiên
mao được gọi là pili, những pili
rổng tham gia vào sự tiếp hợp.
Ở một số Vi khuẩn cử động
bằng cách trượt trên bề mặt giá
thể mà không có sự tham gia của một bào
quan nào.
f.
Sự khác biệt sinh hóa giữa các Vi khuẩn
Hình
thái là đặc điểm cơ bản để
phân loại Vi khuẩn, đặc điểm
sinh hóa học cũng rất quan trọng để
phân biệt các loại Vi khuẩn.
Như những đặc điểm
về thành phần hóa học của vách tế
bào, sản phẩm dự trử, sắc tố,
yêu cầu về dinh dưỡng, nguồn năng
lượng của những Vi khuẩn tự dưỡng,
sản phẩm lên men.
Sự nhạy cảm với chất kháng
sinh, đáp ứng miễn nhiễm và khả năng
gây bệnh, tất cả đều được
dùng để phân loại Vi khuẩn.
Hơn nữa, sự đa dạng về
nguồn năng lượng và biến dưỡng
của Vi khuẩn làm cho Vi khuẩn có cư trú
rộng rải hơn bất cứ một sinh
vật nào khác.
*
Vi khuẩn dị dưỡng (heterotrophic bacteria)
Hầu
hết Vi khuẩn là dị dưỡng, nhận
thức ăn từ những hợp chất
hữu cơ của những sinh vật khác.
Vi khuẩn hoại sinh (saprobe) là những Vi
khuẩn dị dưỡng phân hủy xác sinh
vật và hấp thu những sản phẩm.
Chúng tiết ra những enzim để
thủy phân những đại phân tử thành
những phân tử có kích thước trung bình,
sau đó được hấp thu vào tế bào
và được biến dưỡng.
Vi khuẩn ký sinh (parasite) sống ở trong
hay trên ký chủ, sử dụng những phân
tử hữu cơ sẳn có và gây hại cho ký
chủ đó. Vi
khuẩn ký sinh gây rất nhiều bệnh cho
động vật và thực vật.
* Vi khuẩn quang dưỡng và hóa dưỡng
(phototrophic và chemotrophic bacteria).
Sinh vật tự dưỡng có thể
tổng hợp carbohydrat từ carbonic và nước,
bao gồm hầu hết sinh vật sản
xuất trong thiên nhiên, có lẻ chúng là
những sinh vật chính xuất hiện sớm
nhất trên trái đất.
Một số Vi khuẩn có màu có thể
sử dụng được năng lượng
của ánh sáng mặt trời, để khử
hay cố định CO2 thành carbohydrat.
Diệp lục tố của Vi khuẩn và
diệp lục tố a có quang phổ hấp thu
khác nhau. Các Vi
khuẩn quang hợp này sử dụng những
chất khử khác hơn là nước và do
đó không phóng thích oxy.
Thí dụ, sự quang hợp ở Vi
khuẩn Lucû lưu hùynh và Vi khuẩn tím
nhận điện tử từ H2S tạo ra S tích
tụ trong tế bào.
Một nhóm Vi khuẩn tím khác sử
dụng hợp chất hữu cơ như rượu
và keto acid như là nguồn cho điện
tử trong quang hợp.
Vài loài Vi khuẩn cố định CO2
bằng cách sử dụng năng lượng
giải phóng từ các sự oxy
hóa các hợp chất vô cơ như H2S,
N2, S, Fe và H2. Vì
Vi khuẩn này nhận năng lượng từ
những chất vô cơ thay vì vật chất
hữu cơ hay từ ánh sáng nên chúng được
gọi là sinh vật hóa dưỡng.
g.
Vi khuẩn thật và Vi khuẩn cổ (Eubacteria
và Archaebacteria)
Gần
đây, các nhà vi sinh vật nghiên cứu trên
một nhóm Vi khuẩn kỵ khí sinh khí methan,
kết quả của sự khử CO2 bởi H2,
chúng làm thành một nhánh khác mà theo một
số nhà phân loại còn có ý kiến tách chúng
thành một giới mới.
Chúng là nhóm Vi khuẩn cổ (Archaebacteria),
chúng có nhiều đặc điểm khác
những Vi khuẩn thật (Eubacteria).
Vách tế bào không có peptidoglycan, cố
định CO2 trong một chu trình có sự tham
gia của các acid hữu cơ thay vì chu trình
Calvin-Benson, trình tự baz của rARN cũng khác
và ngay cả cấu tạo của ribô thể cũng
khác.
Chúng xuất hiện trong những điều
kiện tương tự như điều
kiện lúc cổ xưa của trái đất.
Chúng sống trong những môi trường
mà hiện nay không một sinh vật nào có
thể sống được như những nơi
nhiệt độ cao hơn nhiệt độ làm
sôi nước (thermophilic), hay môi trường
rất mặn (halophilic) hay rất acid
(acidophilic)... Vì chúng có vai trò trong sự sinh khí
methan từ những chất thải hữu cơ,
nên chúng có ý nghĩa quan trọng trong sự
tạo nguồn nhiên liệu cho con người
sử dụng.
a.
Ðặc điểm chung
Hình
dạng của Vi khuẩn lam thường lệ
thuộc vào cách phân chia tế bào của chúng.
Vi khuẩn lam sinh sản bằng cách phân
đôi. Ở
một số giống, tế bào được
ngăn biệt thành từng tế bào riêng
biệt, sau sự phân cẳt nhưng vẫn
ở chung nhau trong một khối chất nhày
tạo thành tộc đoàn; kiểu khác thì
tạo ra sợi (filament), gồm một chuỗi
tế bào (trichome), được
bao trong một bao nhày (sheath).
Ở một số giống các tế bào
ở phần đầu thon hẹp dần đến
phần đuôi. Ở
một số vị trí đặc biệt
của chuỗi, có những tế bào đặc
biệt gọi là bì bào tử (akinete) và dị
bào (heterocyst) (Hình 4).
Các bì bào tử này có thể sinh sợi
mới sau khi trải qua một giai đoạn
tiềm sinh, dị bào cố định nitơ.
Oscillatoria có
thể đứt ra từng đoạn ngắn
tạo ra tảo đoạn (hormogone), khi
những tế bào giữa sợi chết
đi, những tảo đoạn này mọc ra
sợi mới. Tế
bào phân cắt trong nhiều mặt phẳng khác
nhau tạo ra tản hình bản dẹp hay hình
khối.
b.
Sự cử động
Vi
khuẩm lam không có chiên mao nhưng ở một
số sợi có thể trượt tới trước
và thụt lùi, dợn sóng hay dao động như
ở Oscillatoria. Sự
trượt của các sợi này có lẻ có
sự tham gia của một lớp sợi
xếp xoắn ốc trong bao quanh vách peptidoglycan.
Khi sợi trượt, nó khớp với hướng
sắp xếp của sợi.
Có lẻ sự dợn sóng chuyển
dọc các sợi này là nguyên nhân của sự
cử động.
c.
Sắc tố và sự quang hợp
Quá
trình quang hợp ở Vi khuẩn lam dùng nước
là nguồn cung cấp điện tử và
tạo ra oxy, không giống sự quang hợp
ở Vi khuẩn. Vi
khuẩn lam là những sinh vật đơn
giản nhất phóng thích oxy trong khí quyển
bởi sự quang hợp.
Những bằng chứng hóa thạch
cổ xưa nhất cho rằng đây là
những sinh vật đầu tiên cung cấp oxy
cho đời sống hiếu khí trên trái đất.
Giống
như thực vật bậc cao, Vi khuẩn lam có
chứa diệp lục tố a và sắc tố
carotenoid. Ngoài
ra, chúng còn có thêm nhóm sắc tố đặc
biệt là phycobilin. Phycobilin
gồm hai sắc tố màu xanh (c-phycocianin và
c-allophycocyanin) và một sắc tố màu
đỏ (c-phycoerythrin).
Thành phần sắc tố thay đổi
trong tế bào của những loài khác nhau làm
cho chúng có màu từ xanh lam đến đỏ
đậm, nâu đậm hay đen.
Năng lượng ánh sáng hấp thu
được chuyển đến diệp
lục tố a ở trên màng tế bào.
Năng lượng còn chuyển đến
bởi phycobilisome là những thể chứa
phycobilin nằm trên màng tế bào.
Vi
khuẩn lam không có diệp lục tố b.
Gần đây, người ta tìm được
một Tảo độc đáo với đặc
điểm tế bào học giống Vi khuẩn
lam nhưng có chứa diệp lục tố b,
sống cộng sinh trong con Hải tiêu (ascadians)
ở một số nơi của biển Thái Bình
Dương có tên là Prochloron
có thể là một mắt xích tiến hóa
giữa Vi khuẩn lam và Tảo lục.
Sinh
vật sơ hạch rất quan trọng đối
với đời sống con người, không
những vì Vi khuẩn là nguyên nhân gây bệnh
cho người, động vật và thực
vật mà vì chúng còn có vai trò trong sự chu
chuyển muối khoáng và các chất dinh dưỡng
hữu cơ. Ðặc
biệt trong nông nghiệp, cả Vi khuẩn và
Vi khuẩn lam vừa tạo ra hợp chất
đạm cho cây bằng sự cố định
đạm vừa có vai trò quan trọng trong
chuỗi thức ăn.
a.
Ảnh
hưởng có hại
* Sinh vật sơ hạch và bệnh ở
thực vật
Vi
khuẩn gây nhiều bệnh cho cây, bao gồm
cả những ảnh hưởng gây hại trên
mùa màng, cây ăn trái và cây cảnh. Tên
bệnh thường là tên của những
triệu chứng chính trên cây chủ, thí dụ
các bệnh đốm lá, thối rễ
và trái, héo, hay bệnh phì đại như
bướu hay ung thư.
Crown Gall, bướu do Vi khuẩn Agrobacterium
tumefaciens gây ra làm thân phồng lên.
Bệnh là do sự cảm ứng của
một plasmid được mang bởi Vi
khuẩn, vì plasmid này có thể hội nhập vào
bộ gen của tế bào cây chủ nên điều
này được ứng dụng trong kỷ
thuật di truyền; môt vector có triển
vọng để đưa những gen mong
muốn vào cây như gen cố định đạm.
* Sinh vật sơ hạch và bệnh ở
động vật
Vi
khuẩn gây rất nhiều bệnh cho động
vật, trong đó gia súc thường được
chú ý nhiều. Các
bệnh thường được đề
cập như do các Vi khuẩn Staphylococcus,
Streptococcus
thường gây mũ các cơ quan hay làm
viêm vú, viêm phổi và màng ngoài của tim,
lở mồm, làm nhiễm trùng da, lông, móng,
tuyến mồ hôi... các gia súc bị nhiễm
sữa bị mất phẩm chất; Salmonella gây
bệnh phó thương hàn cho lợn; Vibrio gây
thổ tả cho cả người và động
vật.
*
Sinh vật sơ hạch và bệnh ở người
Không
có gì nghi ngờ rằng mỗi chúng ta là ký
chủ của một số Vi khuẩn gây
bệnh. Rất
nhiều những bệnh của người là
do Vi khuẩn và các nhóm lân cận với chúng gây
ra. Vi khuẩn gây
bệnh khi vào trong cơ thể, trước tiên
chúng tạo ra một phản ứng miễn
nhiễm hay nhiễm độc cơ thể
bằng toxin. Một
số Vi khuẩn phóng thích ngoại độc
tố (exotoxin), có thể lan ra những phần
khác của cơ thể từ nơi bị
nhiễm, trong khi một số khác tạo ra
nội độc tố (endotoxin) bên trong tế
bào hay gắn vào vách tế bào Vi khuẩn và
chỉ được phóng thích khi tế bào Vi
khuẩn vở ra. Ðộc
tố của Vi khuẩn có thể có ảnh hưởng
khác nhau trên ký chủ.
Thí dụ, độc tố của Vi trùng
yết hầu (Corynebacterium diphtheriae) giết
chết tế bào bằng cách ngăn chận
enzim tham gia vào sự tổng hợp protein.
Ðộc tố tetanus, bám vào các synaps
thần kinh, ngăn chận những dẫn
truyền thần kinh và gây liệt sự co cơ.
Một số Vi khuẩn có thể tác động
trên màng sinh chất làm tế bào vở ra.
Nội độc tố là những hợp
chất lipopolysacarid của vách tế bào Vi
khuẩn, chúng sẽ được phóng thích
khi tế bào Vi khuẩn vở ra.
Thí dụ, như Vi khuẩn đường
ruột Salmonella,
tạo ra những nội độc tố là
nguyên nhân gây độc cho thực phẩm;
những nội độc tố ảnh hưởng
trên tính thẩm thấu của tế bào trong các
mao quản gây viêm, sốt là kết quả
của tế bào chủ phóng thích những
chất ảnh hưởng lên trung tâm kiểm
soát nhiệt độ của não.
b.
Ảnh
hưởng có lợi
* Chất đạm cho sự tăng trưởng
của thực vật
Sự
phì nhiêu của đất phụ thuộc
rất lớn vào hoạt động của
những sinh vật sơ hạch, đặc
biệt là những Vi khuẩn.
Một trong những vai trò của chúng là
khi chu chuyển các nguyên tố căn bản
trong chất hữu cơ, khi chúng là phân hủy
chất hữu cơ, là một dạng dinh dưỡng,
chúng phóng thích những vật chất vô cơ
trả lại cho đất.
Quá trình có ý nghĩa đặc biệt
trong tổng hợp chất nitơ, một nguyên
tố rất cần thiết cho thực vật
nói chung và cây trồng nói riêng.
Cung cấp trở lại cho cây nitơ dưới
dạng nitrat, một dạng phổ biến cây
sử dụng, thường trải qua vài bước.
Ðầu tiên những Vi khuẩn giải phóng
ammonium từ acid amin của protein, quá trình này
được gọi là ammôn hóa (ammonification)
hay khử amin
(deamination). Ion NH+ sau đó được
những Vi khuẩn hóa dưỡng trong đất
(Nitrosomonas) chuyển hóa thành nitrit, nitrit bị
oxy hóa thành nitrat (bởi Nitrobacter) qua tiến trình
nitrit hóa (nitrification).
Một số sinh vật sơ hạch có
khả năng chuyển hóa nitơ của khí
quyển thành ammonia và hợp chất đạm
hữu cơ, quá trình này gọi là sự
cố định đạm.
Quá trình này được thực hiện
do một số Vi khuẩn sống tự do trong
đất, một số Vi khuẩn lam và
một số Vi khuẩn sống cộng sinh trong
rễ của các cây họ Ðậu.
Vi khuẩn Rhizobium cảm ứng sự
tạo nốt rễ (nodule) ở rễ những
cây họ Ðậu như Ðậu xanh, Ðậu nành...
trong tế bào chủ, ammonium được
chuyển hóa thành glutamat,
như vậy là nó cung cấp acid amin cho cây
chủ. Sau khi
thu hoạch mùa vụ, protein của rễ cây
Ðậu và nốt rễ
còn lại ở trong đất, do đó
đạm có thể được các thực
vật khác sử dụng thông qua hoạt động
của những Vi khuẩn ammôn hóa và Vi
khuẩn nitrit hóa đã mô tả ở trên.
Sự cộng sinh trong nốt rễ là
một hiện tượng sinh học lý thú.
Enzim nitrogenaz được
tạo ra từ tế bào Vi khuẩn; cơ
chất, năng lượng là những cofactor
được cung cấp bởi tế bào
chủ. Một
protein có sắc tố đỏ, leghemoglobin tương
tự như hemoglobin vận chuyển oxy trong máu
được tìm thấy trong nốt rễ.
Leghemoglobin trong tế bào chất của
tế bào chủ hoạt động như
một màng chắn, và chỉ có một ít oxy
đến được tế bào Vi khuẩn.
Phân tử protein được tạo ra
từ ribô thể của tế bào chủ, nhưng
nhân hem được tạo ra do Rhizobium.
Nên leghemoglobin chỉ hiện diện trong
nốt rễ, không có trong tế bào chủ cũng
không có trong tế bào Vi khuẩn.
*
Ở
loài Ðiên điển Sesbania rostrata, ngoài nốt
rễ ở rễ còn có nốt rễ trên thân
chính và trên nhánh thứ cấp.
*
Ở
Phi lao Casuarina equisetifolia sống ở đất
cát, nghèo đạm; chúng có nốt rễ do các
loài thuộc giống Frankia, đây là một nhóm
Vi khuẩn hình sợi phân nhánh lưỡng phân
tương tự như nấm (thuộc Xạ
khuẩn).
*
Một
số Vi khuẩn lam cũng có khả năng
cố định đạm thông qua hoạt
động của dị bào.
Dị bào là những tế bào có vách dày
ngăn cản oxy thâm nhập và không có hệ
thống quang II, do vậy nó không giải phóng
oxy trong quang hợp. Một
số Vi khuẩn lam không có dị bào cũng có
thể cố định được đạm
chỉ trong điều kiện kỵ khí mà thôi.
Dù lượng đạm cố định
bởi Vi khuẩn lam ít hơn Vi khuẩn nhưng
Vi khuẩn lam rất hữu ích trong nông
nghiệp, đặc biệt trong trồng Lúa.
Lúa trồng trong các ruộng lúa ở Ðông
Nam Á không có phân bón; có lẻ nguồn đạm
là từ các Vi khuẩn lam.
Vi khuẩn lam Anabaena còn sống cộng sinh
trong lá của bèo hoa dâu Azolla.
Bèo hoa dâu đã được sử
dụng như phân bón ở Việt Nam từ
rất lâu và cả một số nước trên
thế giới.
* Chu chuyển lưu huỳnh do Vi khuẩn
Mặc
dù thực vật bậc cao không thể sử
dụng được nguyên tố lưu
huỳnh, nhưng sulfat
thực vật sử dụng không thiếu trong
đất. Ðó
là nhờ Vi khuẩn chuyển hóa lưu
huỳnh chứa trong các hợp chất thành
sulfat hữu dụng cho cây.
Lưu huỳnh trong protein trước tiên
được chuyển hóa thành H2S bởi
nhiều nhóm Vi khuẩn phân hủy.
Dưới điều kiện hiếu khí,
những Vi khuẩn hóa dưỡng oxy hóa H2S thành
SO4, một phản ứng cũng xảy ra
tự phát trong thiên nhiên nhưng xảy ra
chậm hơn.
Trong đất ngập nước hay ở
đáy bùn thiếu oxy, dưới điều
kiện như thế H2S được tích
tụ thông qua hoạt động của
những Vi khuẩn khác.
H2S là một chất độc đối
với thực vật bậc cao và có thể
trở thành vấn đề khi đất nông
nghiệp bị ngập lụt.
H2S cũng có thể bị oxy hóa cho ra lưu
huỳnh nguyên tố một cách tự phát hay
bởi một số Vi khuẩn hiếu khí hay
quang hợp làm tích tụ lưu huỳnh.
* Các lợi ích khác của Vi khuẩn
·
Chất
kháng sinh penicillin được tạo ra từ
nấm Penicillium, còn lại hầu hết là kháng
sinh thu được là từ Vi khuẩn và
Xạ khuẩn. Những
chất kháng sinh bacitracin, polymixin, tyrocidin, và
gramicidin được tạo ra từ các
Bacillus; những Xạ khuẩn Streptomyces cung
cấp cho chúng ta kháng sinh streptomycin, erythromycin và
tetracyclin.
·
Bên
cạnh những lợi ích sản xuất kháng
sinh, Vi khuẩn cung cấp cho chúng ta những
sản phẩm biến dưỡng khác.
Thí dụ, sự lên men do Vi khuẩn lactic
để tạo ra bơ, pho ma, da ua.
Vi khuẩn lên men cũng được dùng
trong kỷ nghệ để tổng hợp
những sản phẩm thương mại
hữu ích như acid acetic, acid lactic, acid citric và
cả acetone và butanol.
Vitamin B12, riboflavin và một số acid amin cũng
là sản phẩm thương mại bởi
hoạt động của Vi khuẩn.
·
Vi
khuẩn sử dụng hydrocarbon, ảnh hưởng
đến sự cung cấp dầu hỏa và
một số khác tham gia tạo dầu hỏa.
Một số Vi khuẩn sống được
cả trong dầu hỏa và kerosen nên gây sự
cố khi nhiễm vào nhiên liệu của các phi
cơ phản lực.
Mặt khác, trong điều kiện có oxy,
một số Vi khuẩn có thể phân hủy
dầu hỏa đổ tràn trong môi trường,
do đó có lợi cho con người.
Kỷ thuật tái tổ hợp ADN đã
tạo ra được những Vi khuẩn có
khả năng biến dưỡng dầu
hỏa. Vi
khuẩn phân hủy hydrocarbon đòi hỏi oxy nên
các mỏ dầu hỏa được an toàn vì
chúng được lưu trử trong điều
kiện kỵ khí trong đất.
Khi
chúng ta kể lợi ích của Vi khuẩn trong
sản xuất thực phẩm, chất kháng
sinh, chu chuyển các chất dinh dưỡng trong
đất thì lợi ích mang lại do chúng
sẽ cao hơn là sự thiệt hại mà chúng
gây ra.
II.
SIÊU KHUẨN (Virus)
Siêu
khuẩn không được phân loại là sinh
vật sơ hạch.
Siêu khuẩn thường không được
xem là sinh vật vì chúng chỉ sinh sản trong
tế bào ký chủ khi sống và vì chúng không có
tế bào chất là nơi tổng hợp protein
và giải phóng năng lượng.
Tế bào chủ cung cấp vật chất
và năng lượng cũng như enzim cần
thiết để tổng hợp ra Siêu
khuẩn mới. Vì
Siêu khuẩn có thể mã hóa các acid nhân và
protein mới nên đôi khi Siêu khuẩn
được xem là những gen tự do.
Nguồn gốc thật sự của chúng
chưa được biết rõ.
Do kích thước quá nhỏ dưới
mức phân giải của kính hiển vi thường
nên Siêu khuẩn chỉ quan sát được dưới
kính hiển vi điện tử.
Siêu khuẩn được phân lập
đầu tiên là Siêu khuẩn khảm thuốc
lá (TMV: tabacco mosaic virus) năm 1935.
Chất trích từ thuốc lá nhiễm
bệnh là những tinh thể nucleoprotein hình kim,
có thể được lưu trử mãi mãi mà
không mất khả năng gây bệnh, khó tin
rằng đó là bản chất một sinh
vật. Nhưng
khi cấy những tinh thể này vào thuốc lá
triệu chứng bệnh khảm xuất
hiện sau đó.

Siêu
khuẩn gồm một phần lõi acid nhân và
một vỏ protein (capsid). Acid nhân có thể là
ARN như ở Siêu khuẩn gây bệnh cho
thực vật, hay ADN như gây bệnh cho động
vật và Vi khuẩn.
Dù cấu trúc đơn giản hình
dạng của chúng cũng biến thiên.
Một Siêu khuẩn đơn giản có
thể gồm vỏ là những bán đơn
vị của một loại protein đơn
giản bao quanh lỏi acid nhân (capsomere) (Hình 5A).
Một số Thực khuẩn (Bacteriophage:
siêu khuẩn ký sinh vi khuẩn) có cấu trúc
phức tạp hơn như Thực khuẩn T4
(Hình 5B) với phần đầu có chứa ADN,
và phần đuôi với các sợi để bám,
với cấu tạo của nhiều loại
protein. Khi T4 nhiễm vào tế bào vi khuẩn bao
đuôi co để bơm ADN vào (Hình 5C).
Có
nhiều cách để phân loại Siêu
khuẩn. Có
một số trường hợp Siêu khuẩn
được đặt tên theo cơ quan hay mô
mà chúng nhiễm. Thí
dụ, Siêu khuẩn adeno nhiễm trên tuyến trên
yết hầu (adenoid lymph), Siêu khuẩn khảm
thuốc lá. Ở
một số trường hợp khác, tên
gọi được đặt theo tên bệnh
mà chúng gây ra, thí dụ, Siêu khuẩn polio gây
bệnh bại liệt.
Sự phân loại Siêu khuẩn còn có
thể theo tên của loại sinh vật mà chúng
nhiễm, thí dụ, Siêu khuẩn gây bệnh cho
côn trùng hay Siêu khuẩn gây bệnh
cho thực vật. Siêu
khuẩn nhiễm Vi khuẩn được
gọi là thực khuẩn.
Ngoài ra, còn có các kiểu phân loại khác
dựa trên các đặc điểm loại
acid nhân (ARN, ADN), cấu trúc, kích thước,
sự chuyên biệt ký chủ và khả năng
của các globin miễn nhiễm (immunoglobin)
phản ứng lại với protein của
vỏ.
Ðể xâm nhập vào tế bào chủ, ADN
của Siêu khuẩn phải bám được vào
một điểm tiếp nhận chuyên biệt
trên bề mặt của tế bào.
Ở
những Siêu khuẩn nhiễm động
vật, Siêu khuẩn đi nguyên vào tế bào
sau đó vỏ protein và acid nucleic tách ra trong
tế bào chủ. Siêu
khuẩn nhiễm thực vật không có kiểu
bám đặc biệt; chúng có thể đi nguyên
vào tế bào xuyên qua vách, hay được bơm
vào tế bào bởi côn trùng; một lần
đi vào trong tế bào cây chủ, Siêu khuẩn
được chuyên chở từ phần này
đến phần khác trong cây qua ngã mô libe.
Ở
Thực khuẩn T4 để xâm nhập vào
tế bào Vi khuẩn, trước tiên phần
sợi đuôi bám vào bề mặt tế bào
chủ. Sau đó
bám vào các điểm tiếp nhận trên vách
tế bào chủ và
tiếp theo đĩa gốc cũng bám vào
tế bào chủ, kế đó một lỗ
được thành lập trên vách của
tế bào Vi khuẩn, tại đây bao đuôi
co rút lại và chỉ bơm ADN vào tế bào Vi
khuẩn. Trong
tế bào chủ, ADN của Thực khuẩn
được sao chép và phiên mã nhờ các enzim
của tế bào chủ, mARN được
dịch mã để tạo các thành phần
của vỏ protein. Sau
đó, phần đầu của vỏ bao quanh
ADN, đuôi, đĩa gốc và các sơûi
đuôi được gắn thêm vào.
Cuối cùng tế bào chủ vở ra và phóng
thích Thực khuẩn (Pha tiêu bào: lytic phase).
Khi
vào trong tế bào chủ và sinh sản, nó đòi
hỏi phải có enzim để tổng hợp
phần đầu và vỏ protein.
Do đó nó phải tạo ra ARN thông tin
để tổng hợp vừa enzim và protein
vỏ. Nó
cần sao chép acid nhân cho Siêu khuẩn mới.
Tất cả vật liệu và năng lượng
cũng như bộ máy tổng hợp đều
được cung cấp bởi tế bào
chủ. Các Siêu
khuẩn khác nhau không chỉ ở phần lõi
acid nhân, một số là sợi đơn ARN,
sợi đôi ARN; một số khác là sợi
đơn ADN hay sợi đôi ADN, mà còn khác nhau
về cách sao chép và biểu hiện của gen.
Thí dụ như ở Siêu khuẩn gây
bệnh cúm, có lõi là sợi đơn ARN, ARN này
không trực tiếp mã hóa protein, nhưng
nhờ enzim replicaz (enzim sao chép) sợi ARN bổ
sung được tạo ra, sợi này mã hóa
protein của Siêu khuẩn; vì thế sợi này
hoạt động như ARN thông tin vừa mã hóa
cho nhiều enzim sao chép vừa mã hóa protein
vỏ của Siêu khuẩn.
Vì dạng nhiễm của ARN không mã hóa
cho một loại protein nào nên những Siêu
khuẩn này được gọi là Siêu
khuẩn sợi âm (negative strand virus).
Một nhóm Siêu khuẩn ARN khác, được
gọi là Siêu khuẩn phiên mã ngược
(retrovirus), tạo ra ADN bổ sung cho bộ gen
trong ARN của nó bằng cách điều
khiển ký chủ tổng hợp enzim phiên mã ngược
(reverse transcriptaz). Sau
đó sợi ADN thứ hai được sao chép
và sợi đôi ADN này hòa nhập vào bộ gen
tế bào chủ. Tại
đây nó làm khuôn cho những bản sao ARN
mới để tạo ra những Siêu khuẩn
mới trong suốt quá trình sinh sản của Siêu
khuẩn.
Siêu khuẩn với sợi đơn ADN trước
tiên sao chép sợi bổ sung để tạo ra
phân tử ADN dạng vòng trong tế bào chủ.
Sợi bổ sung này trở thành khuôn cho
ADN của Siêu khuẩn mới cũng như phiên
mã ra mARN để tổng hợp enzim của Siêu
khuẩn nhờ ribô thể của tế bào
chủ. Sợi
đôi ADN của Siêu khuẩn tạo ra mARN
cần thiết để tạo ra một
số enzim của Siêu khuẩn từ cả hai
sợi, các enzim này cần thiết cho sự sao
chép ADN Siêu khuẩn và cho các loại protein
cấu trúc vỏ.
Thực khuẩn T4, với một vài
bộ phận cấu thành, chúng được
ráp nối lại với nhau qua một quá trình
gọi là tự ráp nối (self-assembly) trong đó
có những bước không đòi hỏi enzim
hay một khuôn mẫu nào.
Bộ gen của Siêu khuẩn mã hóa cho
sự thành lập các phần khác nhau của Siêu
khuẩn. Khi các
phần được ráp nối đầy
đủ, tế bào bị vỡ ra do một
enzim được mã hóa bởi Siêu khuẩn và
Siêu khuẩn được phóng thích.
Trong pha tiêu bào, sau khi nhiễm vào Vi khuẩn, Siêu
khuẩn thường sao chép để tạo ra
hàng triệu Siêu khuẩn và sau đó phá
hủy tế bào chủ.
Tuy vậy, có những trường hợp
bộ gen của Siêu khuẩn hòa nhập vào
nhiễm sắc thể của tế bào chủ
vàì lúc này chúng được gọi là
tiền Siêu khuẩn, và được đi vào
lộ trình sinh tan (lysogenic pathway), khi hòa nhập
bộ gen của Siêu khuẩn chỉ được
sao chép khi ADN của tế bào chủ sao chép.
Do đó, mỗi tế bào con cũng
nhận được một bản sao của
bộ gen Siêu khuẩn.
Dưới một số điều
kiện nào đó, như tăng chiếu xạ,
tiền Siêu khuẩn có thể tách ra từ
bộ gen của tế bào chủ và bắt
đầu sinh sản nhanh chóng.
Sau đó chúng đi vào pha tiêu bào làm cho
tế bào chủ vỡ ra.
Lợi thế của Siêu khuẩn là khi
ở dạng ngũ hay tiền Siêu khuẩn là
chúng được sinh sản vô tận và không
gây ra một triệu chứng nào để
tế bào chủ có thể nhận ra và phản
ứng lại.
Có ý kiến cho rằng Siêu khuẩn là
những gen di động có thể hòa nhập vào
bộ gen của tế bào chủ và có thể tách
ra khi có điều kiện thuận lợi.
Khi tách ra từ nhiễm sắc thể
của tế bào chủ nó có thể mang theo
một số gen của tế bào chủ...
Một số gen của Siêu khuẩn gây bệnh
ung thư đã được tìm thấy hòa
nhập vào nhiễm sắc thể của người
và những động vật có xương
sống khác.
Các
Siêu khuẩn gây nhiều bệnh cho người
như cảm lạnh, cúm, bại liệt, quai
bị, bệnh thủy đậu (chicken-pox) và
một số dạng của ung thư.
Có một số bệnh như bệnh
bạch hầu, do Vi khuẩn Corynebacterium diphtheria
chỉ gây độc khi kết hợp với
thực khuẩn.
Một số Siêu khuẩn gây bệnh cho
thực vật, làm giảm năng suất cây
trồng, như bệnh khảm thuốc lá, trái
đào bị vàng, làm xoắn ngọn ở
củ cải đường, hoại tử mô
libe, hay tạo ra các bướu lồi.
Nhiều bệnh Siêu khuẩn của cây là
do côn trùng chuyển vào, chúng sinh sản trong côn
trùng mà bề ngoài không làm hại côn trùng.

|