PHẦN MỘT
v
Phần một
giải thích hiện tượng nổ. Phần hai sẽ giải thích hiện tượng
nổ bằng toán học và cách đề phòng (tính lỗ thoát hơi bằng toán học,
lỗ thoát hơi dùng để giảm độ mảnh liệt hoặc làm chuyển hướng của
hiện tượng nổ).
v
Hạt bụi
(tiếng Anh gọi là dust) ở đây là các hạt ở thể rắn, hình dáng bất kỳ
(tất cả các loại hình dáng), tỉ trọng cũng bất kỳ (tất cả các loại
tỷ trọng) có đường kính hay cạnh dưới 500 mm (0,5 mm) (có tài liệu
nói dưới 0,2 mm).
v
Ngọn lửa (cháy) chỉ có thể xảy ra
khi đáp ứng 3 điều kiện:
Ø
Vật liệu có thề cháy và sinh ra một sức nóng
Ø
Có đầy đủ oxygen (không khí)
Ø
Có một vật “mồi hữu hiệu “ (sứ nóng hoặc ngọn lửa)
Nếu có hiện tượng nổ xảy ra, sẽ phải đáp ứng thêm
hai điều kiện nữa:
Ø
Có đầy đủ các hạt bụi cháy được
Ø
Các hạt đạt đủ nồng độ và trộn lẫn với không khí trong môi
trường nổ
v
Thông thường áp suất tăng tối đa
trong hiện tượng nổ khoảng 7 – 10 bar
nếu bình chứa ban đầu có áp suất khoảng 1 bar (áp suất trong không
khí). Nếu bình chứa trên 1 bar thì áp suất tối đa có thể lên đến
khoảng 5 – 10 lần áp suất ban đầu.Thí dụ bình chứa làm việc
khoảng 3 bar thì khi nổ có thể tăng đến 15 – 30 bar. 7 bar tương
đương áp suất dưới mặt nước biển khoảng 69 m hoặc nước ngọt (nước
sông) khoảng 71,5 m.
Hình 1:
Ông ta quên bài “Cháy nổ do các hạt bụi”
1- Lời mở đầu
Thông thường chúng ta chỉ sợ sự cháy nổ của chất khí
hay lỏng mà coi thường sự cháy nổ của vật rắn. Điều đó cũng dễ hiểu
vì chất khí và lỏng dễ bắt cháy hơn chất rắn. Nhưng khi cháy thì vật
rắn sẽ gây ra một sức cháy mãnh liệt và gây thiệt hại đáng kể, không
những tài sản mà cả mạng sống của con người. Bảng 1 chỉ một vài đám
cháy, nổ tại Việt Nam ghi nhận được qua internet.
Ngày-tháng-năm |
Địa điểm |
Sản xuất |
Hiện tượng |
09-03-2004 |
Q.9, TP HCM |
Đồ gỗ |
Cháy, nổ? |
04-03-2004 |
TP HCM |
Mút xốp cho giầy dép |
Cháy, nổ? |
26-02-2004 |
TP HCM |
Gia công nệm mút |
Cháy, nổ? |
20-02-2004 |
Hóc Môn, TP HCM |
Mây, tre, lá |
Cháy, nổ? |
16-01-2004 |
Huyện Bình Chánh |
Giầy |
Cháy, nổ? |
04-12-2003 |
Bình Dương |
Đế giầy Adidas |
Cháy, nổ? |
11-01-2003 |
Trảng Bàng, Tây Ninh |
Sấy Tre |
Cháy, nổ |
19-12-2002 |
Quảng Ninh |
Mỏ than |
Cháy, nổ |
05-03-2002 |
Gò Vấp |
Chế biến gỗ |
Cháy, nổ |
Bảng 1:
Cháy nổ nơi sản xuất các đồ gỗ, nhựa và than đá. (Theo tin tức từ
internet). Nổ?: không chắn chắn có hiện tượng nổ hay không?
Không những chỉ có VN mới có hiện tượng cháy nổ trong các nhà máy
sản xuất mà ngay cả các nước Tây Phương cũng có hiện tượng này (xem
Bảng 2)
PRIVATE
Loại bụi |
Tây Đức cũ
1965 - 1980
[%] |
Anh*
1979 - 1985
[%] |
Mỹ*
1900 - 1956
[%] |
Gỗ
Thức ăn
Nhựa
Than đá
Kim loại
Giấy
Các loại khác |
32
25
13
9
13
2
6 |
12
42
5
5
14
**
22 |
18
51
6
6
7
1
11 |
Bảng
2:
Nổ tại Tây Đức
(cũ), Anh và
Mỹ. *: nổ và cháy; **: giấy và gỗ: 12 %.
[1].
Những hiện tượng cháy nổ do các hạt bụi gây ra
thường mãnh liệt vì chúng ta không có đề phòng và coi thường sự nguy
hiểm của nó. Thí dụ như hạt kim loại như hạt nhôm thông thường không
cháy, nhưng với một nồng độ oxygen nào đó cộng với nhiệt độ và áp
suất cao sẽ cháy và sinh ra một năng lượng đáng kể và sẽ đưa đến
hiện tượng nổ. Nhưng chúng ta không vì sự nguy hiểm mà chúng ta
ngưng sản xuất mà chúng ta phải tìm hiểu và đề phòng, tránh sự thiệt
hại cả vật chất lẫn nhân mạng con người.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu sự cháy nổ do các hạt bụi
không phải xảy ra mới đây mà nó có từ lâu đời. Ngày xưa họ tìm hiểu
sự cháy nổ của các hạt bụi xuất phát từ nổ hầm mỏ nhất là mỏ than.
Các mỏ than thường hay có các chất khí thí dụ như methane (CH4)
chứa các “túi nhỏ” lẫn lộn với than. Khi chúng ta đào tới các túi
khí này cộng với một tia lửa bắt mồi và sự cháy xảy ra. Khi có sự
hiện diện của các bột than, các bột than này sẽ dễ dàng cháy và sinh
ra một năng lượng đáng kể. Năng lượng sinh ra sẽ làm nhiệt độ của
không khí (KK) trong hầm tăng lên và đưa đến thể tích tăng lên một
cách đột ngột. Do thể tích trong hầm không thay đổi, thể tích KK sẽ
chuyển động nhanh theo hướng cửa hầm và hiện tượng nổ xảy ra. Chi
tiết hiện tượng cháy nổ này sẽ trình bày rõ ràng hơn ở dưới đây.
1.
Thế nào gọi là hiện tượng nổ?
Giáo sư Eckhoff (1991)[2] đã định nghĩa sự nổ hay
phản ứng nổ như sau: “Hiện tượng nổ là hiện tượng mà trong đó có
phản ứng hoá học phát nhiệt, hiện tượng này xảy ra trong một môi
trường đẳng tích (thể tích không thay đổi) và sinh ra một sự tăng
trưởng đột ngột và mảnh liệt của áp suất”. Tất cả các vật rắn mà có
thể cháy ở nhiệt độ và áp suất thường đều có thể phát sinh một sự
tăng trưởng đột ngột và mãnh liệt của áp suất. Sự tăng trưởng đột
ngột và mãnh liệt của áp suất này tỉ lệ thuận với diện tích chung
quanh của vật (xem giải thích ở phía dưới). Tiếng nổ “bang” là do
một làn sóng áp suất thật mạnh truyền đi với vận tốc thật nhanh.
Lemkowitz (1996) [3] phân biệt cháy và nổ như sau:
Ø
Cháy là một phản ứng hoá học, xảy ra tương đối chậm và liên
tục. Cháy sẽ làm thiệt hại nhà cửa và vật liệu do ngọn lửa hoặc sức
nóng của nó. Cháy cũng làm thiệt hại đến mạng sống hoặc làm bị
thương con người qua ngọn lửa, làm thiếu oxygen hoặc phát sinh khí
độc như carbon monoxide (CO).
Ø
Nổ là hiện tượng cháy nhanh và phát sinh bất thình lình một
năng lượng lớn, thông thường trong một môi trường ở dạng khí hay
lỏng. Hiện tượng này phát sinh ra một làn sóng áp suất thật nhanh.
Áp suất từ hiện tượng nổ sẽ hủy hoại nhà cửa, vật liệu và có thể làm
bị thương hay làm chết người trực tiếp hay gián tiếp như nhà sập,
vật đè, v.v. Sự nổ sẽ gây ra đám cháy lớn hay một tia lửa dài. Cũng
giống như sự cháy, hiện tượng nổ có thể giết người bằng cách làm
làm thiếu oxygen cũng như sa thải khói độc. Thông thường nổ kèm
theo sự cháy sau đó.
Trong sự đốt cháy người ta phân biệt hai loại lửa:
1) Chất đốt và oxygen (hoặc không khí) hoà lẫn và đưa vào phòng đốt
bằng một nguồn (premixed flame) gọi “là ngọn lửa hoà lẫn trước”
(Hình 2a ); 2) Chất đốt và oxygen đưa vào phòng đốt bằng hai nguồn
khác nhau (diffusion flame)(Hình 2b) gọi là “ngọn lửa khuyếch tán”.
Hình 2: Mẫu hình đơn
giản cho hai loại ngọn lửa. (a) ngọn lửa hoà lẫn trước; (b) ngọn lửa
khuyếch tán. Hai hình vẽ ở đây chỉ dùng để giải thích. Trong thực
tế, người ta thường cho không khí vào bằng một dòng xoáy để ngọn lửa
dễ dàng ổn định (dễ dàng cháy liên tục, không bị tắt). Kỹ thuật này
hy vọng sẽ trình bày vào một dịp thuận tiện khác.
Cháy xảy ra trong môi trường chất
đốt và không khí (hay oxygen) không hoà lẫn trước, nhưng hiện tượng
nổ xảy ra môi trường chất đốt và không khí trộn lẫn trước.
3.
Điều kiện và nơi có thể xảy ra
Như đã
nêu ở trên, tất cả các vật rắn mà có thể cháy ở nhiệt độ và áp suất
thường đều có thể phát sinh một sự tăng trưởng đột ngột và mảnh liệt
của áp suất. Tuy nhiên để có một ngọn lửa phát sinh và truyền đi
phải đáp ứng tất cả các điều kiện dưới đây (VDI 2263 (1992) [4]):
Ø
Vật liệu có thể cháy và sinh ra một sức nóng
Ø
Có đầy đủ oxygen (không khí)
Ø
Có một vật “mồi hữu hiệu “ (sức nóng hoặc ngọn lửa)
Nếu có hiện tượng nổ xảy ra, sẽ đáp ứng thêm hai
điều kiện nữa:
Ø
Có đầy đủ các hạt bụi cháy được
Ø
Các hạt đạt đủ nồng độ và trộn lẫn với không khí trong môi
trường nổ
Giải thích cho điều kiện cuối cùng như sau. Ta có
một khúc gỗ hình khối mỗi cạnh 1 m hay 1.000 mm (Hình 3a) và 1.000
khúc gỗ mỗi cạnh 100 mm (Hình 3b).
Hình 3: 1 m3
gỗ (a) Khúc gỗ hình khối mỗi cạnh 1 m = 1.000 mm; (b) 1.000 khúc
gỗ hình khối mỗi cạnh 100 mm.
Giả sử 1.000 khúc gỗ nhỏ tung đều trong không khí như hình vẽ (3b)
có nghĩa là không khí có thể tiếp với tất cả các bề mặt của chúng nó
và chúng có thể (điều kiện) cháy cùng một lúc.
Diện tích chung quanh của các khúc gỗ tính như sau:
Khúc gỗ lớn: Achung quanh
= 6 x (1 x 1) = 6 m2
Các khúc khỗ nhỏ: Achung quanh = 1.000
x (6 x (0,1 x 0,1) = 60 m2
Như vậy ta chia khúc gỗ lớn ra một 1.000 lần nó sẽ cháy nhanh hơn 60
lần. Đó là lý do tại sao chúng ta hay bửa củi để nấu bếp.
Nếu chúng ta nghiền nát các khúc gỗ ra nhiều lần nữa
thành các hạt bụi, thí dụ mỗi cạnh khoảng 1 mm hay 0,001 m. Tổng
diện tích chung quanh được tính như sau:
Vhạt bụi = 0,001 x
0,001 x 0,001 = 1 x 10-9 m3
Tổng số hạt bụi tương đương với 1 m3 gỗ
nhạt bụi = V1m3
/ Vhạt bụi = 1 / (1 x 10-9) = 1 x 109
hạt bụi
Tổng diện tích chung quanh của các hạt bụi đường
kính 1 mm hay 0,001 m
Achung quanh = 1 x 109
x (6 x 0,001 x 0,001) = 6.000 m2
Như vậy cùng 1 m3 gỗ, ở dạng hạt bụi (mỗi
cạnh 1 mm) sẽ cháy 6.000 lần nhanh hơn và sẽ sanh ra một năng lượng
khổng lồ trong tích tắc, và nhiệt độ không khí sẽ tăng đột ngột,
nhiệt độ tăng thể tích không khí tăng, thể tích bình chứa không thay
đổi (thí dụ phòng hay xưởng làm việc) và cuối cùng sẽ gây ra hiện
tượng nổ.
Hình 4 trình bày sự khác nhau giữa cháy chậm, cháy
nhanh và nổ cho một khúc gỗ và đám củi
Hình 4:
(a) Cháy chậm; (b) Cháy nhanh hơn; (c) Hiện tượng nổ (Hình
Eckhoff (1991)[2])
4.
Đặc trưng sức mãnh liệt
của hiện tượng nổ
Người
ta đặc trưng hiện tượng nổ bằng hằng số gọi là Kst
(st là chữ viết tắt của tiếng Đức “staub” có nghĩa là hạt
bụi). Kst và tốc độ (vận tốc) tăng áp suất (dP/dt)max
tối đa dùng để tính lỗ thoát của bình chứa. Công thức liên kết giữa
Kst, (dP/dt)max và V1/3
gọi là
cubic law dịch là
định
luật hình khối
(1)
V là
thể tích bình chứa, (dP/dt)max là vận tốc tối đa của áp
suất, Kst là một hằng số của hạt bụi. Định luật hình khối
có giá trị khi ([2], [5]):
v
Cùng
một nồng độ giữa hạt bụi và không khí hay oxygen
v
Bình
chứa có hình dáng tương tự như nhau
v
Chiều
dầy của ngọn lửa tương đối nhỏ (mỏng) so với bình chứa (xem giải
thích ở dưới)
v
Hỗn
hợp (hạt bụi và không khí) có cùng độ rối loạn (turbulence)
Định luật hình khối được tính theo giả sử (dP/dt)max
xảy ra khi áp suất đạt được độ lớn nhất (tối đa) (Pmax)
khi ngọn lửa chạm vào thành bình ([6], [7]). Giả sử này xảy ra trong
hiện tượng nổ củ khí đốt thí dụ hydrogen (H2) và oxygen
(O2). Trong hiện tượng nổ của các hạt bụi, (dP/dt)max
đạt được trước khi ngọn lửa chạm vào thành bình.
Kst là hằng số từ thí nghiệm ra. Có rất
nhiều loại bình để làm thí nghiệm. Chúng nó khác nhau cả về hình
dáng và thể tích. Ngày nay người ta thường dùng hai loại bình 20 lít
(Hình 5a và 5b) và 1.000 lít (1 m3). Vì thí nghiệm (xử
dụng ít hạt bụi cho mỗi thí nghiệm) cho bình 20 lít vẫn rẻ hơn bình
1.000 lít cho nên loại bình 20 lít vẫn còn thông dụng nhưng độ chính
xác vẫn thấp hơn vì độ rối loạn trong bình 20 lít thấp so với bình
1.000 lít ([2], [10]). Thí nghiệm cho rằng Kst là một
hằng số không tùy thuộc vào độ lớn của bình nếu bình chứa lớn hơn 10
lít ([5]). Bình chứa để làm thí nghiệm đo Kst của các hạt
bụi được chọn theo tiêu chuẩn quốc tế là bình 1.000 lít (1 m3).
Hình
5a:
Bình bom 20 lít (bom Hartmann) để thí nghiệm.
Thí nghiệm đo Kst
với bột than đá. Bột than sẽ đưa vào bình nhỏ (Dispersion reservoir,
bên tay phải bình). Sau đó bơm không khí (KK) vào để trôn lẫn với
bột than ở áp suất vài bar. Sau đó mở ống thông (Dispersion valve),
vì áp suất trong bình 20 lít (hình cầu) và bình nhỏ chênh lệch nhau
nên bột than và KK được phun vào bình 20 lít bằng bộ một phận phun
(Dispersion nozzle). Trong tích tắc khi hỗn hợp bột than và KK vào
trong bình 20 lít, một tia lửa nhân tạo ngay chính giữa bình sẽ được
tạo nên và hỗn hợp sẽ bốc cháy và tốc độ áp suất được ghi nhận bằng
máy điện toán.
Hình
5b:
Bình bom 20 lít (bom Hartmann) để thí nghiệm. Hình thật sự. (Hình
lấy từ web của
Katholieke Universiteit Leuven)
Hình 6:
Tốc độ tăng của áp suất theo thới gian. Thí nghiệm thực hiện với
bột than đá, nồng độ 473 g than đá cho 1 m3 KK hay 9,46
gram cho bình 20 lít, năng lượng mồi là 10 KJ và đo bằng bình 20
lít. Từ hình vẽ ta có thể tính được Kst (công thức (1))
bằng cách vẽ tiếp tuyến để chọn (dP/dt)max và V = 20 lít.
Từ lúc
bắt đầu cháy khoảng 70 mili giây (70 ms) (hỗn hợp bột than đá và KK
đưa vào bình 20 lít khoảng 70 ms để hỗn hợp đủ thời gian toả đều
trong bình) đến khi bình đạt áp suất khoảng gần 6 bar khoảng 140
mili giây (140 ms), như vậy trong khoảng 70 mili giây (140 – 70 =
70 mili giây) bình đã tăng gần 6 bar. 70 mili giây có nghĩa là 0,07
giây, chúng ta không kịp chạy ra khỏi phòng hay xưởng làm việc để
tránh áp suất này.
5.
Tốc độ cháy của ngọn lửa
Có rất nhiều từ chuyên môn mà cần giải thích cho
những đọc giả không chuyên ngành. Chúng ta nhìn vào đèn Bunsen (Hình
5). Đèn Bunsen gồm mốt ống hình tròn dài, dài đủ để chúng ta có một
tốc độ của hỗn hợp khí đốt và KK không thay đổi dù ống dài hơn nữa
(fully developed velocity profile). Đường kính của ống rất nhỏ
(khoảng 5 – 30 mm). Hỗn hợp khí đốt và KK chảy (thổi) vào ống và có
ngọn lửa ngay phía ngoài ống. Chúng ta thấy màu thật sáng màu xanh
có hình chữ V ngược gọi là ngọn lửa (tiếng Anh gọi là flame front),
đó là ranh giới, một bên phía ngoài chữ V ngược là hỗn hợp khói (khí
đốt và KK đã cháy xong) và phía dưới chữ V ngược là hỗn hợp khí đốt
và KK chưa cháy. Tại một điểm bất kỳ trên ngọn lửa sẽ có hai loại
vận tốc: 1) Vận tốc thứ nhất vuông góc với ngọn lửa có hướng về phía
hỗn hợp khí đốt và KK chưa cháy (ký hiệu Su) gọi là “vận
tốc của sức cháy” (burning velocity) và 2) Vận tốc thứ
hai có hướng ra phía ngoài thành (ký hiệu Ur) phía hỗn
hợp khói gọi là “vận tốc của hỗn hợp khí”
(gas velocity). “Vận tốc của sức cháy” rất quan trọng trong
sự đốt cháy và nó được dùng để đánh giá sự mảnh liệt của ngọn lửa
hay sự mảnh liệt của sức nổ. Hai vận tốc này cộng lại gọi là “vận
tốc của ngọn lửa” (flame speed). Nếu ngọn lửa ổn định
(steady state) nghĩa là ngọn lửa đứng yên, vận tốc của ngọn lửa bằng
“không”.
Chúng ta định nghĩa hai loại vận tốc như sau:
a)
Vận tốc của
sức cháy (burning velocity) là vận
tốc của ngọn lửa mốc là hỗn hợp khí đốt và KK. Dùng ít “phép thuật”
toán, vận tốc sức cháy có thể tính được từ đường biểu diễn P-thời
gian ở Hình 6.
b)
Vận tốc của
ngọn lửa là vận tốc mà mốc là tọa độ
cố (nhất) định.
“Tốc độ của sự cháy” của một loại hạt rất quan
trọng vì chúng ta dùng nó để chuẩn đoán độ cháy của hạt (độ nguy
hiểm của hạt nếu hạt bị cháy nổ).
|
|
|
|
(a) |
(b) |
Hình
7:
Mô hình và đèn (ngọn lửa) Bunsen (hình chụp lấy trong internet).
6.
Sự rối loạn (turbulence)
Sự rối loạn rất quan trọng trong sự đốt cháy hay nói
một cách khác, nếu có sự rối loạn vận tốc của sức cháy sẽ tăng lên
hay sức cháy hoặc sức nổ trở nên mảnh liệt hơn. Để giải thích cho
điều này, chúng ta hãy quan sát thí nghiệm “đóng-mở” của ống dài.
Trong ống dài chứa hỗn hợp chất đốt (dạng khí hay rắn) và không khí
(KK). Nồng độ chất đốt trong KK trong phạm vi có thể xảy ra phản ứng
nổ.
Trường hợp 1 (Hình 8a và
8b): Mồi tại đầu mở của ống (Hình 8a,
trạng thái bắt đầu t = 0 giây). Vì sức nóng từ ngọn lửa (flame
front), hỗn hợp chất đã đốt xong (khói) tại ngọn lửa sẽ chuyển động
xuyên qua hỗn hợp đã đốt xong và chuyển động theo hướng ra khỏi bình
(Hình 8b, khi t = Dt giây). Hỗn hợp chất đã đốt xong không đụng chạm
tới ngọn lửa và ngọn lửa cứ tiếp tục cháy cho đến khi không còn hỗn
hợp chất đốt và KK chưa cháy còn lại trong bình. Ngọn lửa có hai
chiều (hình tròn) và di chuyển đều. Trong trường hợp này ngọn lửa di
chuyển với tốc độ bằng tốc độ của sức cháy thành lớp (không có sự
rối loạn) (laminar burning velocity)
Hình 8:
Thí nghiệm “đóng-mở” của ống dài.
Trường
hợp 2 (Hình 8c và 8d): Mồi tại đầu “đóng”
của ống (Hình 8c, t = 0 giây). Ngay lúc bắt đầu, ngọn lửa vẫn còn ở
dạng hai chiều và bằng với vận tốc của sức cháy thành lớp (không có
sự rối loạn). Hỗn hợp ở trạng thái ban đầu yên tĩnh (lặng yên), khi
vừa bắt đầu cháy thì có hiện tượng khác xảy ra, Ngọn lửa nóng lên và
bắt đầu phát ra năng lượng cho hỗn hợp khí đã vừa cháy xong (khói).
Sự giãn nở của hỗn hợp vì nhiệt độ tăng sẽ đẩy ngọn lửa di chuyển về
phía đầu mở của ống. Khí đầu ống phía sau ngọn lửa bị bít kín, bắt
buộc hỗn hợp khí đã bị đốt quay ngược đầu lại và chuyển động với vận
tốc lớn hơn vận tốc của sức cháy thành lớp (không có sự rối loạn) và
sẽ làm ngọn lửa bị biến dạng. Hỗn hợp khí (khói) bây giờ có sự rối
loạn và làm ngọn lửa cũng trở thành ba chiều. Diện tích bề mặt của
ngọn lửa tiếp xúc với hỗn hợp chất đốt và KK (unburned gas) lớn hơn
diện tích của ngọn lửa ở dạng hai chiều, nhiều năng lượng phát sinh
ra làm nóng hỗn hợp khí chưa cháy, hỗn hợp khí chưa cháy nóng hơn,
dễ bắt mồi cháy hơn, và sẽ cháy nhanh (nhiều) hơn. Vận tốc của ngọn
lửa sẽ bằng vận tốc sức cháy cộng với vận tốc của hỗn hợp khí đã bị
đốt (khói).
Essenhigh và Woodhead (1959) [9] đã làm thí nghiệm
này với hỗn hợp “nút bần”-không khí trong một ống bằng kiếng với
chiều dài 5,2 m và đường kính bằng 56 mm và 76 mm. Họ đã khám phá ra
vận tốc ngọn lửa trong trường hợp 2 (mồi tại đầu “đóng”) lớn hơn 20
lần so vối vận tốc ngọn lửa trong trường hợp 1 (mồi tại đầu “mở”).
Như vậy sự rối loạn rất quan trọng trong sự đốt cháy.
Có rất nhiều tài liệu nói về liên quan giữa sự rối loạn và sự đốt
cháy. Tốc độ cháy trong trường hợp có sự rối loạn lớn hơn tốc độ
cháy không có sự rối loạn khoảng 2 – 4 lần cho chất đốt là các hạt
rắn (chất khí có thể lớn hơn nhiều). Có nghĩa là áp suất tăng đột
ngột nhanh hơn 2 – 4 lần. Áp suất cũng lớn hơn (khoảng 40%) trong
trường hợp có sự rối loạn [10].
Khi cháy nó có thể tạo ra
sự rối loạn. Sự rối loạn làm tăng lên tốc độ cháy.
Giải thích hơi phức tạp nên không trình bày ở đây.
7.
Năng lượng tối thiểu để bắt mồi cho ngọn lửa
Bao nhiêu joule (1 joule = 2,77778 x 10-7
kw-giờ) để ngọn lửa có thể bắt đầu cháy? Câu hỏi này rất khó trả lời
vì nó tùy thuộc vào:
-
Vật liệu (bột than, đường hay gỗ, v.v.). Bột kim
loại cũng có thể cháy thí dụ nhôm, đồng.
-
Độ lớn của hạt (đường kính bao nhiêu, bao nhiêu
phần trăm hạt nhỏ)
-
Phần trăm khí đốt trong hạt. Thí dụ trong than
đá hay gỗ có một phần khí hydrocarbon sẽ bay hơi trước (khoảng
250 – 700 oC) và những chất khí này sẽ dễ dàng cháy
trước và mồi phần còn lại là carbon và chất bẩn.
-
Nhiệt độ của môi trường
-
Độ rối loạn
-
v.v.
Điều quan trọng là chúng ta phòng hờ các trường hợp
có thể làm mồi cho ngọn lửa như:
-
Lửa, khí (khói, không khí, v.v.) nóng
-
Vật nóng
-
Chạm điện
-
Từ trường (???)
-
Hàn xì
-
Tia lửa
do hai vật rắn chạm vào gây ra
-
v.v.. .
Nên nhớ là các hạt có
thể tự cháy nếu nhiệt độ tăng lên. [2], [11] và [12]
có nêu rất nhiều dữ kiện cho nhiều các hạt khác nhau. Bảng 3 và 4
chỉ một vài loại hạt thông dụng, áp suất tối đa (Pmax) và
nhiệt độ tối thiểu (Tmin) mà các hạt tự cháy
|
Pmax (bar) |
Tmin (oC) |
Bột mì |
8,5 |
|
Bột gạo |
7,4 |
490 |
Sữa bột |
8,1 |
460 |
Cà phê |
6,8 - 9,0 |
470 |
Bột thịt |
8,5 |
540 |
Trà |
8,2 |
510 |
Bột giấy |
5,7 - 9,8 |
490 - 580 |
Gỗ |
9,0 |
500 |
Cao su |
7,5 - 8,5 |
|
Than bùn (Brown coal) |
9,1 |
420 |
Than Butiminous |
9,0 |
590 |
Than Anthracite |
9,0 |
610 |
Bò hóng (trong ống khói) |
8,8 - 9,2 |
760 - 840 |
Bảng 3:
Pmax: áp suất tối đa có thể xảy ra khi có hiện tượng
nổ; Tmin: Nhiệt độ tối thiểu mà hạt có thể tự bốc cháy mà
không cần các loại mồi khác [2].
Kim
loại cũng có thể cháy (Bảng 4)
Kim loại |
Pmax (bar) |
Tmin (oC) |
Manganese |
6,3 |
330 |
Nhôm |
10 - 12,5 |
500 - 650 |
Đồng |
4,1 |
390 |
Sắt |
5,2 |
580 |
Kẽm |
6,0 - 7,3 |
570 - 800 |
Bảng 4: Pmax và Tmin
cho một vài loại kim loại tường gặp [2]
8. Nồng
độ của chất đốt trong không khí (hay oxygen)
Các
hạt có thề cháy khi có sự hiện diện của chất oxy hoá như không khí
(KK). Nhiều KK hay ít KK quá cũng không thể cháy được. Nồng độ của
các hạt nếu xảy ra hiện tượng cháy nổ hoàn toàn tùy thuộc vào loại
hạt (bột hay than hay kim loại, v.v.
9.
Độ nhuyễn
(đường kính) của hạt bụi
Như đã
giải thích ở phía trên. Hạt càng nhỏ cháy càng nhanh. Điều kiện cháy
là các hạt phải có điều kiện tiếp xúc với không khí.
10.
Cách đề phòng
Cách
đề hay nhất là không làm việc với chất có thể cháy. Điều này không
thể được vì kim loại (hạt nhôm) không cháy nhưng với điều kiện nào
đó sẽ cháy được và gây ra hiện tượng nổ con mảnh liệt hơn các hạt
cháy được ở điều kiện thường. Vài điều sau đây nên lưu ý:
-
Không để các hạt bụi bám trên tường, ống thông hơi hay ống khói,
v.v. vì khi cháy các hạt này sẽ tung lên do sự rối loạn và tham
gia phản ứng nổ.
-
Nhiều loại hạt (thí dụ than đá) có chứa nhiều hydrocarbon như CH4,
C2H6, .v.v. các hydrocarbon này sẽ thoát
ra khoảng từ 150 – 300 oC và nó sẽ dễ cháy và sẽ là
vật mồi cho các hạt.
-
Áp
suất tối đa khoảng 5 – 10 lần áp suất ban đầu. Nếu chúng ta sấy
vật liệu ở áp suất cao hơn 1 bar (điều kiện thường) thì hãy
thiết kế bình chứa chịu đựng áp suất 10 lần so với áp suất ban
đầu.
-
Phải thiết kế lỗ thoát hơi (xem Hình 9). Khi áp suất trong bình
quá áp suất mà lỗ thoát hơi được thiết kế, lỗ thoát hơi sẽ tự
động mở
-
Nếu quá trình sản suất quá phức tạp thì phải có cố vấn thêm của
người biết về vấn đề này.
Hình 9:
Bình chứa có lỗ thoát hơi.
Tài liệu tham khảo
[1]
Kees, van Wingerden (1995). The Safe of the Dust explosion in
Process Industry. Research Programme 1996-1998, part 1,
Ref.nr.:M-20-95/15, Christian Michelsen Research AS, Bergen, Norway
(in Norwegian).
[2]
Eckhoff, R.K. (1991). Dust Explosion in the Process Industries.
Butterworth-Heinemann Ltd, England.
[3]
Lemkowitz, S.M. (1996). Dust Explosion Behaviour and Explosion Risk.
Course Dust Explosion, 30-31 May, 1996, Stockholm, Sweden.
[4]
VDI 2263 (1992). Dust Fire and Dust Explosions. Hazards - Assessment
- Protective Measures. Verein Deutscher Ingenieure.
[5]
Bartknecht, W. (1981). Explosions:
Course-Prevention-Protection. Springer-Verlag.
[6]
Hertzberg, M., Cashdollar, K.L., and Zlochower, I.A. (1986).
Flammability Limit Measurements for Dust and Gases: Ignition Energy
Requirements and Pressure Dependences. 21st Symp. (Int.) on
Combust., The Combust. Inst., PA, pp. 303-313.
[7]
Bradley, D., Chen, Z., and Swithenbank, J.R. (1988). Burning Rates
in Turbulent Fine Dust-Air Explosions. 22nd Symp. (Int.) on
Combust., The Combust. Inst., PA, pp. 1767-1775.
[8]
Eckhoff, R.K. (1977). The Use of the Hartmann Bomb for Determining Kst
Values of Explosible Dust Clouds. Staub - Reinhalt. Luft,
37, No.3, pp. 110-112.
[9]
Essenhigh, R.H., and Woodhead, D.W. (1959). Dust Explosions in
Factories: Speed of Flame in Slowly Moving Clouds of Cork Dust.
Safety in Mines Research Establishment, Minish of Power, Report No.
166.
[10]
Amyotte P.R., Chippett S., and Pegg M. J. (1988). Effects of
Turbulence on Dust Explosions. Prog. Energy Combust. Sci.,
Vol.14, pp. 293-310.
[11]
Field P. (1982) Dust Explosions. Handbook of Powder Technology.
Elsevier Scientific Publishing Company.
[12]
Institut für Explosionsschutz und Sprengtechnik (1987). Brenn-
und Explosions- Kenngrössen von Stäuben. Erich Schmidt Verlag.
|