Những
nhân tố nào đã có ảnh hưởng tới sự lựa chọn khoa học của ông?
Trong một đất nước kém phát triển,
nhà khoa học có uy tín hơn nhà văn. Tôi tự nhủ mình rằng nếu tôi dấn
thân vào con đường văn chương thì sẽ không đi tới đâu, và điều này
là có lý. Do đó, tôi quyết định ngả về phía khoa học, vì dù sao cũng
hấp dẫn tôi mạnh hơn.
Ngay trong khoa học ông đã có
sự phân biệt lĩnh vực này với lĩnh vực khác?
Không, lúc đó còn chưa. Khi tới
Lausanne, tôi nghĩ rằng mình sẽ trở thành kỹ sư, nhưng ngay lập tức
tôi nhận ra rằng người ta chủ yếu yêu cầu tôi học thuộc những công
thức đã có sẵn và chỉ sau vài tháng tôi đã ý thức được rằng tôi sinh
ra không phải để làm cái nghề đó. Tất nhiên, chắc tôi cũng sẽ nhận
thấy như vậy nếu tôi theo học ở trường Đại học Bách Khoa Paris. Kỹ
sư là những người sử dụng các định luật do các nhà vật lý phát minh
ra và thực tình tôi muốn làm nghiên cứu hơn. Ở tuổi 18, tôi đã từng
tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi mà hồi đó người ta còn chưa
biết.
Vật lý học đối với tôi luôn luôn
là một khoa học cơ bản nhất, bởi vì nó đặt ra những câu hỏi sâu sắc,
chẳng hạn như cấu trúc của vật chất là như thế nào. Nhưng để học vật
lý ở trình độ cao nhất thì còn có thể ở đâu khác nếu không phải là
các trường đại học ở Mỹ. Lúc đó tôi còn chưa biết rành lắm về các
trường đại học ở Mỹ, nhưng tôi có nghe nói về ba trường khoa học nổi
tiếng thế giới: trường MIT (Massachuset Institute of Technology -
Viện Công nghệ Massachuset) ở Boston, Califonia Institute of
Technology (Viện Công nghệ Califonia) ở Pasadena, thường gọi tắt là
Caltech và Đại học Princeton. Thế là tôi quyết định sẽ chuyển trường
và bèn viết thư cho ba trường nói trên xin nhập học.
Điều đó có dễ dàng không?
Cuối cùng thì cũng dễ dàng thôi,
nhưng lúc đầu tôi cũng hơi lo lắng, vì cho rằng người Mỹ chắc không
mấy am hiểu về chương trình học của Pháp và đối với họ cái bằng tú
tài có thể chẳng nói lên điều gì đáng kể. Hơn nữa, tôi lại xin họ
cấp học bổng, bởi vì ở Mỹ học phí rất đắt, cỡ hàng chục ngàn đôla
mỗi năm. Một số tiền vượt quá xa thu nhập hàng năm của cha tôi.
Trong thư gửi cho các trường, tôi có thông báo: “Nếu các ngài đồng ý
nhận tôi vào học, thì nhất thiết phải cấp học bổng cho tôi, nếu
không tôi sẽ không thể tới được”. Tôi cũng đề nghị họ cho tôi vào
thẳng năm thứ hai vì tôi không muốn mất một năm đã học ở Lausanne.
Ông thử hình dung một chút xem, một anh chàng vô danh viết từ Thụy
Sĩ, tiếng Anh thậm chí còn chưa nói thạo mà lại dám đòi một học bổng
để du học! Tôi đã phải làm một loạt bài trắc nghiệm đặc biệt và chắc
là đã thành công vì cả ba trường đều đồng ý nhận tôi và tất nhiên cả
ba đều đồng ý cấp học bổng.
Một trong những phẩm chất chủ yếu
của các trường đại học lớn của Mỹ (lúc này tôi vẫn chưa biết ba
trường mà tôi chọn là lớn tới mức nào, chỉ sau này khi sống trong
khu đại học tôi mới phát hiện hết tầm cỡ của chúng), đó là sự khuyến
khích và giúp đỡ những người tỏ ra là có tài năng.
Giờ đây tôi chỉ còn khó khăn là
phải lựa chọn và quyết định. Chính ở đây số phận lại cho tôi một cú
hích mới và lần này tôi theo một cách khá thú vị. Được lớn lên trong
một nước nhiệt đới, lại đã được nếm mùi mùa đông đầu tiên ở Thụy Sĩ,
tôi nhận thấy cái lạnh không hợp gu với mình. Vì vậy tôi thích ánh
nắng và sự ấm áp ở California hơn.
Thế ra xét cho đến cùng tuyết
lại là yếu tố khiến ông từ bỏ MIT và Princeton?
Đúng thế, và điều này cũng thật
thơ ngây. Tôi tới Caltech vào tháng 9 năm 1967 và tôi kinh ngạc phát
hiện ra chất lượng đào tạo và nghiên cứu ở đây. Caltech quả đúng là
thánh địa của khoa học. Với 800 sinh viên được lựa chọn từ các
trường trung học và đại học tốt nhất của Mỹ mà có tới 400 giáo sư và
nghiên cứu viên. Họ không phải là những giáo sư và nghiên cứu viên
tầm tầm bậc trung mà là những người đã nổi tiếng thế giới, là những
nhà khoa học “đầu ngành” trong lĩnh vực nghiên cứu của họ, trong đó
có tới 5 người được giải thưởng Nobel. Ghê gớm đấy chứ, phải không
ông! Đa số họ đều là viện sĩ của Viện Hàn lâm khoa học Mỹ. Ngay
trong khu đại học đã có những nhà vật lý rất nổi tiếng, như Richard
Feynman, giải thưởng Nobel về vật lý và là một trong số những người
đặt nền móng cho Điện động lực học lượng tử, rồi Murray Gell - Mann,
giải thưởng Nobel về vật lý, người phát minh ra các hạt quark (thành
phần cơ bản của vật chất).
Nhưng cú hích thứ ba của số phận
đối với tôi, đó là cái bóng của Edwin Hubble vẫn còn trùm lên khu
đại học này, bởi vì chính ở đây, ở Pasadena này, Hubble đã thực hiện
tất cả các phát minh vĩ đại của mình về bản chất của các thiên hà và
về sự giãn nở của Vũ trụ. Đây là những phát minh được thực hiện vào
những năm 1920 -1950 và đã dẫn tới sự ra đời của lý thuyết Big Bang.
Để làm những việc đó, ông đã sử dụng kính thiên văn có đường kính
2,5m của Caltech đặt trên núi Wilson. Vả nữa, ngay từ đầu thế kỷ,
trường đại học này liên tiếp có những kính thiên văn lớn nhất thế
giới, và khi tôi đến, vào năm 1967, thì trường đã có một kính thiên
văn đường kính 5m đặt trên núi Palomar. Và cả điều này nữa tôi cũng
không hề biết trước khi tới đây.
Vậy là ông đã rơi
đúng vào chỗ cần phải tới để làm vật lý thiên văn mà không
hề mưu tính trước?
Đúng
thế, đúng là ngẫu nhiên (mà có thật là ngẫu nhiên không
nhỉ?) đã làm nên mọi chuyện. Rất nhiều những phát minh quan
trọng về Vũ trụ đều được làm ở đây, bởi vì những kính thiên
văn lớn của trường đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu nổi
tiếng tới. Năm 1963, Marteen Schmidt, một giáo sư ở Caltech,
đã phát hiện ra các quasar, đó là những thiên thể ở biên
giới của Vũ trụ phát năng lượng rất lớn. Vào năm 1967, ở khu
đại học lại bùng lên cơn sốt về thiên văn học. Đây đúng là
nơi lý tưởng để làm nảy sinh chí hướng khoa học ở chàng
thanh niên 19 tuổi đang khao khát muốn hiểu biết tất cả.
Thật là ấn tượng khi được tắm mình trong tất cả những phát
minh đó và được học các giáo sư giảng về những công trình
của chính họ và bởi vì chúng tôi chỉ có khoảng 15 - 16
người, nên có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với từng người,
thậm chí cả những người nổi tiếng nhất. Thật là tuyệt diệu!
Và chính điều này đã làm thay đổi tôi, một người xuất thân
từ hệ thống giáo dục Pháp, trong đó thầy và trò luôn luôn
giữ một khoảng cách nhất định. Chẳng hạn, tôi hoàn toàn sững
sờ khi thấy Feynman, một trong số những đỉnh cao của vật lý
hiện đại, lại rất kiên nhẫn trả lời từng câu hỏi mà những
chàng trai mười chín hai mươi đặt ra cho ông. Ông còn thảo
luận và vui đùa với chúng tôi nữa. Ấy là chưa kể sự tự do
không thể tưởng tượng nổi mà chúng tôi có được. Tôi rất ngạc
nhiên thấy sinh viên đi chân đất, phanh ngực áo mà vẫn có
thể lên lớp nghe một giáo sư được giải Nobel giảng bài!
Nhưng xét cho tới cùng thì sao lại không nhỉ?
Sau cú sốc đầu tiên qua
đi, tôi bắt đầu thấy được giá trị của cái môi trường hết sức
màu mỡ này đối với sự phát triển tài năng của mỗi người, bất
kể địa vị hay vẻ bề ngoài của họ là thế nào. Và hơn thế nữa
là cái đặc ân tối thượng, đó là chúng tôi bất cứ lúc nào
cũng có thể gõ bất cứ cánh cửa nào - những trí tuệ vĩ đại ở
đây đều dành thời gian trả lời tất cả những câu hỏi của
chúng tôi!
Feynman mà ông vừa nói
tới là một trong số những người khổng lồ của vật lý hiện đại
và mới mất gần đây (tức năm 1989). Ông ấy cũng là một nhà
phổ biến khoa học thiên tài và đã kích thích chí hướng vật
lý cho rất nhiều người.
Tình yêu của Feynman đối
với vật lý rất dễ lây lan. Ông kết hợp được tài năng hiếm
hoi của một nhà nghiên cứu thiên tài và của một nhà sư phạm
xuất chúng.
Chúng tôi rất muốn
biết thêm về các bài giảng của Feynman. Ông ấy đối xử với
các học trò của mình như thế nào?
Ông ấy luôn tạo ra bầu
không khí thoải mái bằng cách kể một câu chuyện hoặc một
giai thoại vui và điều đó làm cho chúng tôi ngay lập tức cảm
thấy thư giãn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy ở ông có một chút
thái độ trịnh thượng nào đối với lũ sinh viên chúng tôi. Ông
luôn tôn trọng chúng tôi. Tôi nghĩ rằng đó là nhờ nền giáo
dục mà ông đã được thụ hưởng, bởi vì khi ở tuổi thiếu niên
ông cũng luôn luôn lục vấn cha ông với đủ loại câu hỏi và
cha ông dù bận đến mấy cũng trả lời ông không hề chậm trễ.
Tôi cho rằng ông rất thích bọn trẻ thường xuyên đặt ra những
câu hỏi và rồi sau đó ông lại thích thú đặt ra cho họ những
vấn đề hóc búa. Đây là một giáo sư vô song. Ông có một quan
niệm riêng của mình về giảng dạy vật lý. Ông nhìn tự nhiên
với đôi mắt luôn luôn mới mẻ và vô tư và giải thích lại tất
cả theo cách riêng của mình. Ông không bao giờ đi theo những
con đường đã mòn nhẵn và luôn luôn xem xét lại những ý tưởng
đã được chấp nhận. Ông có một trực giác đặc biệt về các hiện
tượng vật lý. Khi ông công phá một bài toán, người ta có cảm
giác như là ông đã có sẵn câu trả lời và những lập luận được
tiến hành sau đó chẳng qua chỉ là để củng cố về mặt lý luận
cho trực giác của mình mà thôi. Thế mà chính ông lại là
người vẫn đặt ra những bài toán cho những đứa mới tập tọe
như lũ chúng tôi! Những bài giảng của ông như có ma lực. Ông
giải thích mọi điều cho chúng tôi một cách giản dị và sáng
sủa đến bất ngờ. Ta có cảm giác như nhờ có sự thẩm thấu mà
mình hiểu rõ được mọi thứ: nào là tự nhiên được tổ chức như
thế nào, những ngôi sao tiến hóa ra sao, nào là nước chảy
như thế nào, và các nguyên tử có cấu trúc ra sao. Ông đã làm
cho chúng tôi trở nên thông minh trong những giờ giảng của
mình, nhưng khốn thay, khi ngồi một mình trong phòng, đối
diện với cuốn vở ghi bài giảng của ông thì ta lại cảm thấy
tắc tị! Còn xa chúng tôi mới có được thiên tài của ông. Và
cuối cùng trường đại học cho rằng việc giảng dạy của ông chỉ
thích hợp với các nhà vật lý đã thành danh hơn là cho lũ
sinh viên mới tập tọe như chúng tôi. Ngày hôm nay, những bài
giảng của ông đã được xuất bản và thường dùng để tra cứu cho
tất cả các nhà vật lý trên toàn thế giới.
Tự xem mình là thiên
tài lúc ở bên cạnh Feynman và lúc ở một mình trong phòng lại
không biết làm gì tiếp theo, đó quả là một trải nghiệm đáng
sợ.
Đúng thế, đối với những
người mới bắt đầu còn chưa được tiếp xúc với những thí
nghiệm, những tính toán phức tạp cũng như những phương trình
khiến người ta phải chóng mặt, thì đó có lẽ không phải là
cách tốt nhất để học vật lý, nhưng dẫu sao, được nghe ông
nói, được nhìn thấy ông chấm hết bài nói của mình với những
động tác khoáng đạt và nhấn mạnh từng câu với những cái bĩu
môi đầy biểu cảm, cũng đã mê hồn lắm rồi. Ông đã phát lộ một
nhiệt tình sục sôi và là thần tượng của lũ sinh viên chúng
tôi, những người không chỉ khâm phục ông ở tài năng khoa học
mà còn cả ở sức sống tràn trề đến kỳ lạ của ông. Ông hăm hở
ngốn ngấu cuộc sống: nào là chơi đàn băngiô (ta có thể thấy
bức ảnh chụp ông đang chơi nhạc cụ này in ở trang đầu của
cuốn bài giảng về vật lý của ông), nào là chải chuốt đầu tóc
và còn cả bình luận về những người đàn bà đẹp nữa. Cũng xin
nói thêm rằng Feynman còn có tài hài hước rất thâm thúy. Khi
ông mất vào năm 1989, sau một thời gian dài phải chống chọi
với căn bệnh ung thư, cả khu đại học đã khóc vì nhớ tiếc
ông. Bất cứ ai có cơ may được tiếp xúc trực tiếp với ông đều
nhớ tới một sự hiện diện tỏa sáng của một phẩm cách tuyệt
vời. Để có thể đánh giá tốt nhất nhân vật khác thường này,
tôi xin giới thiệu ông nên đọc cuốn tự truyện của Feynman đã
được dịch ra tiếng Pháp: Ngài muốn cười phải không, ngài
Feynman
Tuy nhiên một lĩnh vực khác
cũng thu hút sự chú ý của tôi, đó là thiên văn học. Trước
hết, có lẽ bởi vì cái bóng của Hubble - người đã phát hiện
ra các thiên hà và sự giãn nở của Vũ trụ - vẫn còn bao trùm
cả khu đại học...
Và mặc dù thế, ông
cũng đã không trở thành nhà vật lý. Vậy điều gì đã dẫn dắt
ông trở thành nhà vật lý thiên văn?
Ông biết đấy, trong một
trường đại học của Mỹ, người ta thường chọn một ngành như là
hoạt động chính và đối với tôi đó là vật lý. Nhưng ở
Caltech, thiên đường tuyệt vời của khoa học, sinh học, địa
chất... có cả và tất nhiên cả thiên văn học nữa. Tôi khảo
cứu gần như tất cả các bộ môn khoa học đó để tự quyết định
xem mình sẽ chọn lĩnh vực nào để làm luận án tốt nghiệp. Đối
với tôi, đề tài nghiên cứu cơ bản nhất đó là vật lý hạt cơ
bản. Đây là lĩnh vực của hai vị thần trong khu đại học khi
đó: Richard Feynman và Murray Gell-Mann, cả hai đều được
trao giải Nobel về vật lý. Chính Gell-Mann là người cũng với
một giáo sư khác của Caltech, vào năm 1963, đã đưa ra giả
thuyết về các hạt quark như “ viên gạch” cơ bản nhất cấu tạo
nên vật chất. Nhờ các hạt quark, Gell-Mann đã giải thích
được những tính chất của rất nhiều hạt lúc đó sinh ra nhan
nhản trong các máy gia tốc năng lượng cao. Tôi đã mê đắm tất
cả những thành tựu đó.
Tuy nhiên một lĩnh vực
khác cũng thu hút sự chú ý của tôi, đó là thiên văn học.
Trước hết, có lẽ bởi vì cái bóng của Hubble - người đã phát
hiện ra các thiên hà và sự giãn nở của Vũ trụ - vẫn còn bao
trùm cả khu đại học, nhưng cũng còn bởi vì đa số các giáo sư
vật lý của tôi cũng đều tham gia nghiên cứu vật lý thiên văn
và họ thường nói về nó trong các bài giảng của mình. Hai đợt
thực tập vào mùa hè năm 1967 và 1968 đã có ảnh hưởng sâu sắc
đối với tôi. Vì cần phải kiếm sống trong dịp hè, nên tôi tìm
công việc làm thêm. Hệ thống trợ cấp trong các trường đại
học ở Mỹ đã trù liệu trước việc tuyển mộ tạm thời sinh viên
để làm các tính toán hoặc thực nghiệm, và, tất nhiên, một
chỗ như Caltech, việc gõ cửa một giáo sư đang nghiên cứu vấn
đề mà tôi quan tâm là chuyện không khó khăn gì. Công việc
đầu tiên của tôi là trong phòng thí nghiệm của giáo sư
William Fowler, một nhà vật lý được giải thưởng Nobel nữa
của Caltech, cha đẻ của vật lý thiên văn hạt nhân. Chính ông
là người đã giải thích được các nguyên tố nặng - tức là các
nguyên tố nặng hơn hiđrô và hêli và tạo nên cơ sở của sự
sống - đã được chế tạo trong lòng các ngôi sao như thế nào.
Nói tóm lại là ông ta
đã giải thích được sự sinh ra các nguyên tố của Vũ trụ trong
lòng các ngôi sao - một loại nhà máy điện hạt nhân.
Đúng thế. Ông ấy đã mô tả
chi tiết những phản ứng diễn ra trong lò luyện đan sáng tạo
của các ngôi sao. Công việc của tôi đơn giản chỉ là đo tỷ lệ
của một số phản ứng hạt nhân diễn ra trong Mặt Trời. Đây là
lần đầu tiên tôi trực tiếp tiếp xúc với vật lý thiên văn,
một sự tiếp xúc còn quá xa xôi, bởi vì tôi mới chỉ đo các tỷ
lệ này nhờ một máy gia tốc hướng các hạt tới một bia, chứ
chưa được đụng tới kính thiên văn. Để làm điều đó tôi phải
đợi tới mùa hè năm sau, trong thời gian đó tôi trở thành trợ
tá của nhà vật lý Gordon Garmire, người nghiên cứu lĩnh vực
có tên là thiên văn học tia X. Thường thì người ta nghĩ rằng
thiên văn học rốt cuộc là quy về quang học, về thị giác,
nhưng từ vài chục năm trước, thiên văn học đã giàu có lên
rất nhiều nhờ nghiên cứu tất cả ánh sáng tạo nên phổ điện
từ, bởi vì Vũ trụ không chỉ phát ra ánh sáng thấy được, mà
cả ánh sáng gamma, tia X, tia tử ngoại, tia hồng ngoại và cả
sóng vô tuyến nữa. Giáo sư của tôi chuyên nghiên cứu các
thiên thể phát ra các tia X. Ánh sáng có năng lượng lớn này
(nó có thể xuyên qua cơ thể và cho phép nhìn thấy phổi của
chúng ta) thường gắn liền với các hiện tượng dữ dội trên bầu
trời. Chẳng hạn, khi vật chất khí trong một ngôi sao rơi vào
một lỗ đen, nó sẽ bị va chạm mạnh, nóng lên và phát sáng rất
mạnh thành các tia X trước khi vượt quá bán kính không thể
quay lui. Và để nghiên cứu các tia X này, cần phải đưa các
kính thiên văn lên trên bầu khí quyển của Trái Đất vì bầu
khí quyển có tác dụng chặn chúng lại. Điều này thật may mắn
cho chúng ta vì các tia này rất độc hại đối với sự sống.
Nhưng điều này chỉ
mới bắt đầu khi người ta đưa được các kính thiên văn tia X
lên không gian. Đó là vào những năm 60. Và thế là một lần
nữa, ông ta lại ở đúng chỗ của cái đang diễn ra.
Đúng thế, tôi đã gặp nhiều
may mắn. Garmire vừa mới quan sát được những nguồn thiên văn
phát tia X và vấn đề là cần phải biết có sự phát ánh sáng
thấy được ở nơi mà tên lửa phát hiện được nguồn phát tia X
hay không. Để có câu trả lời, cần phải chụp ảnh các phần của
bầu trời có nguồn tia X bằng những kính thiên văn quang học.
Kính thiên văn với đường kính 5m trên núi Palomar - kính
thiên văn lớn nhất thế giới! - đã được nhất trí chỉ định để
làm việc đó và giáo sư của tôi đã đưa tôi đi cùng.
Tôi sẽ còn nhớ mãi đêm
quan sát đầu tiên của tôi ở nơi thánh địa của thiên văn học
với một niềm xúc động sâu sắc. Đây là một kỳ quan đích thực
của công nghệ. Được xây dựng vào năm 1948, kính thiên văn
này vẫn hoạt động rất tốt. Nó lớn tới mức phải dùng thang
máy để lên trên cao. Kính thiên văn này cho phép nhìn thấy
những thiên thể sáng yếu hơn ngôi sao sáng yếu nhất có thể
nhìn thấy bằng mắt trần 40 triệu lần. Vì nhìn thấy các ngôi
sáng càng yếu tức là nhìn thấy càng xa hơn, và nhìn càng xa
tức là nhìn được càng sớm hơn, nên kính thiên văn này cho
phép ra lần ngược lại thời gian, tới tận 5 tỷ năm sau Big
Bang và do đó, nó cho ta khả năng nhìn thấy Vũ trụ ở tuổi
thanh xuân của nó. Tôi luôn luôn có một cảm giác thần bí và
trái tim tôi đập rộn rã hơn khi tôi tới Palomar và thấy cái
mái vòm che kính thiên văn 5m hiện lên sừng sững ở chỗ ngoặt
của con đường. Đối với tôi, nó giống như một thánh đường của
thế kỷ 20 đang hướng lên bầu trời.
Thế ra đây là lần đầu
tiên ông đặt mắt vào ống kính thiên văn?
Đúng thế, trừ khi nhà
thiên văn không còn cần đặt mắt vào ống kính nữa. Những quan
sát thiên văn hiện đại từ nay được thực hiện thông qua các
máy móc điện tử. Hình ảnh do kính thiên văn thu được sẽ hiện
lên màn hình TV.
Quả thực là chuyến đi đó
đã góp phần lớn làm cho tôi ngả về phía thiên văn học. Tôi
mê mẩn về những cái mà tôi nhìn thấy. Lần đầu tiên tôi cảm
thấy sự rộng lớn bao la của Vũ trụ. Tôi tự nhủ mình rằng Vũ
trụ bao la kia còn chứa đựng biết bao những điều bí ẩn và
thậm chí với trí tuệ nhỏ bé của mình, tôi cũng có thể góp
phần, dù là nhỏ, để đẩy lùi ranh giới của những cái còn chưa
biết và vén những bức màn bí mật của chúng. Số những bài
toán chưa có lời giải trong vật lý thiên văn dường như là vô
tận, trong khi, theo tôi nghĩ, trong vật lý hạt cơ bản chúng
chỉ là hữu hạn. Nhưng một nhân tố khác, cũng hết sức đặc
biệt, đã làm cho tôi ngả hẳn về phía vật lý thiên văn: toàn
bộ chương trình thăm dò không gian của NASA (Cơ quan nghiên
cứu Vũ trụ của Mỹ - ND) dành để khảo sát hệ Mặt Trời đều
được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Jet Propulsion của
Caltech. Tôi sẽ còn nhớ mãi cảm xúc của mình khi được xem
những hình ảnh đầu tiên mà con tàu thăm dò Mariner 7 gửi từ
sao Hỏa về. Trên một màn hình lớn đặt ngay trong lớp - hình
như lớp của giáo sư William Fowler - những hình ảnh về bề
mặt sao Hỏa dần dần hiện lên trước mắt chúng tôi theo mức độ
các tín hiệu vô tuyến từ con tàu thăm dò về tới Trái Đất. Đó
là một cảm giác không thể mô tả nổi khi ta nhìn thấy sao Hỏa
lần đầu tiên hé lộ cho loài người thấy bộ mặt thật của mình:
chẳng có những người xanh nhỏ bé, cũng chẳng có những kênh
đào, mà chỉ có những phong cảnh đầy sỏi đá hoang vu. Khỏi
phải nói loại trải nghiệm như vậy có ấn tượng như thế nào
đối với một đầu óc còn non trẻ. Tôi cảm thấy mình ở giữa một
không khí trí tuệ sục sôi kỳ diệu!
Vậy là ở
chính thời điểm đó ông đã quyết định sự lựa chọn của
mình. Ông có thấy tiếc các lĩnh vực khác không?
Có một lĩnh vực mà
tôi cũng say mê không kém, đó là sinh học phân tử,
nhưng thật tiếc là tôi không có thời gian để khảo
cứu. Chính Caltech cũng lại là một trong những trung
tâm lớn về lĩnh vực này. Max Delbruck, một trong số
những người sáng lập môn sinh học phân tử, giáo sư
của khoa sinh học, đã được nhận giải Nobel về y học
năm 1969 (năm mà Gell-Mann được nhận giải Nobel về
vật lý). Vào mùa hè năm 1968, tôi đã tới gõ cửa
Delbruck để xin ông nhận tôi làm trợ tá về sinh học.
Ông đã rất tử tế chấp nhận đề nghị của tôi. Tôi nghĩ
chắc là tôi sẽ phải giúp ông nghiên cứu về tập tính
của thực vật dưới tác dụng của ánh sáng tử ngoại.
Nhưng đúng thời điểm đó, nhà vật lý nghiên cứu các
nguồn tia X lại dành cho tôi công việc mà tôi vừa kể
ở trên. Tôi không thể cưỡng lại nổi lời mời gọi của
vật lý thiên văn. Nhưng dẫu sao tôi cũng hơi tiếc là
đã không được làm việc cùng với Delbruck. Dẫu sao,
đối với tôi, ba lĩnh vực khoa học có tác dụng làm
đảo lộn nhiều nhất quan niệm của chúng ta về thế
giới trong những năm sắp tới cũng vẫn là vật lý
thiên văn, vật lý hạt cơ bản và sinh học (mà đặc
biệt là những nghiên cứu về não). Và nếu được làm
lại từ đầu, thì ngày hôm nay tôi cũng vẫn sẽ chọn
một trong ba lĩnh vực đó.
Cũng cần phải nói
rằng, việc chọn nghề thiên văn là điều khá lạ lùng
đối với một người Việt Nam, nơi mà các bậc cha mẹ
thường muốn thúc ép con cái mình chọn những nghề
kiếm được nhiều tiền hơn (như bác sĩ, luật sư...).
Họ ít khi khuyến khích con cái họ trở thành nhà
nghiên cứu khoa học và càng không phải là ngành
thiên văn, một môn khoa học mà ngay từ đầu đã chẳng
có một ứng dụng thực tế nào. Về điều này tôi vô cùng
biết ơn cha mẹ tôi, những người luôn luôn động viên
khích lệ và ủng hộ về mặt tinh thần những lựa chọn
cũng như những theo đuổi trí tuệ của tôi.
Và thế là ông
cũng bỏ cả toán học luôn?
Đúng thế, tôi rất
yêu toán học, nhưng tôi chỉ xem nó như một công cụ,
chứ không phải như mục đích tự thân. Tôi thích hiện
thực cụ thể hơn là những thực thể trừu tượng. Các
hành tinh, các sao và các thiên hà tôi đều có thể
nhìn thấy nhờ các kính thiên văn, chúng là thực hoàn
toàn.
Ông đã ở
California 3 năm, từ 1967 đến 1970, một thời kỳ đã
chứng kiến những đảo lộn vĩ đại trong cảnh quan xã
hội và văn hóa. Trước khi nói về giai đoạn tiếp
theo, giai đoạn ở Princeton, xin ông hãy mô tả đôi
chút về môi trường xung quanh ông khi đó.
Quả thực đó là một
thời kỳ rất giàu những sự kiện đáng ghi nhớ. Robert
Kenedy và Martin Luther King bị ám sát. Sinh viên,
mà đặc biệt là ở Berkeley, rầm rộ biểu tình chống
chiến tranh ở Việt Nam. Nhiều giá trị về đạo đức và
tình dục được xem xét lại và những giá trị mang tính
vật chất chủ nghĩa của giai cấp tư sản bị vứt bỏ.
Đây cũng là thời kỳ nở rộ của phong trào hippie gắn
liền với ma túy, tóc dài và quần áo lòe loẹt. Đó
cũng là Essalen với sự phát triển tiềm năng của con
người và Kỷ nguyên Mới. Tất cả những chuyện đó diễn
ra xung quanh tôi, nhưng về phần tôi, tôi chỉ tham
dự với tính cách là một khán giả. Trước hết, đó là
do bầu không khí ở khu đại học nhỏ của Caltech - chỉ
có gần 800 sinh viên - ít thuận lợi đối với những
hoạt động chính trị hay xã hội. Chúng tôi cảm thấy
mình như ở trong tháp ngà giữa những sự xáo trộn đó.
Sau nữa, cũng bởi vì tôi không có thời gian. Chỉ cần
ông thử hình dung một chút sẽ thấy: tôi vừa phải lo
học chuyên môn, học thêm tiếng Anh, lại còn phải
kiếm sống và đủ thứ công việc lặt vặt khác.
Ông đã chọn
thầy hướng dẫn làm luận án tiến sĩ như thế nào?
Ở Mỹ, hai trung
tâm thiên văn lớn nhất là Caltech và Princeton. Nhờ
những kính thiên văn cỡ lớn của mình, Caltech là một
trung tâm quan sát lớn, trong khi đó, Princeton, ở
bờ phía Đông (do thời tiết xấu nên không có một kính
thiên văn lớn nào) lại nổi tiếng trước hết là về mặt
lý thuyết. Lẽ ra tôi có thể ở lại Caltech làm luận
án, nhưng các giáo sư của tôi khuyên nên đến
Princeton để có thể tiếp xúc với những trí tuệ khác
và biết thêm những lối tư duy khác. Thật trùng hợp
là đúng lúc đó có một giáo sư của Princeton tới
Caltech vài ba tháng và ông đã kể với tôi rất nhiều
về chương trình nghiên cứu ở đó và thuyết phục tôi
nên tới Princeton để tiếp tục học tập. Khi đó tôi đã
thầm nuôi hy vọng được làm luận án với Lyman
Spitzer, một nhà vật lý thiên văn lớn mà tôi đã nghe
nói rất nhiều.
Và thế là
ngay từ đầu ông đã biết về đề tài của mình?
Hoàn toàn không.
Tôi tới Princeton vào năm 1970 và nhận học vị tiến
sĩ về vật lý thiên văn ở đó vào năm 1974, nhưng chỉ
vào năm cuối cùng đó tôi mới tiếp cận đề tài luận
án. Ban đầu tôi làm việc trên các bài toán khác
nhau, mỗi bài toán mất từ 6 tháng tới 1 năm.
Tôi đánh giá rất
cao triết lý giảng dạy ở Đại học Princeton, bởi vì,
thay cho việc dành nhiều năm để nghiên cứu chỉ một
vấn đề (nguyên tắc làm luận án của Pháp), ở đây sinh
viên được khảo cứu nhiều vấn đề. Chính vì vậy mà nó
đáp ứng được sự vô cùng phong phú và đa dạng trong
nghiên cứu vật lý thiên văn chứ không bó gọn trong
một chuyên môn quá hẹp. Mục đích cơ bản không phải
là tìm ra các lời giải mà là học cách suy nghĩ. Tôi
còn nhớ những cuộc trao đổi rất dài trên bảng đen
với các giáo sư của tôi, trong đó thông qua sự thẩm
thấu tôi đã học được cách tiếp cận và giải quyết một
bài toán như thế nào. Chẳng hạn, tôi đã nghiên cứu
sự tiến hóa động của các đám sao cầu (những tập hợp
hình cầu chứa hàng ngàn ngôi sao liên hệ với nhau
bằng lực hấp dẫn) hay nghiên cứu sự tiến hóa về mặt
hóa học của các thiên hà (các nguyên tố nặng hình
thành trong các thiên hà như thế nào). Tôi thậm chí
còn tiến hành quan sát và quay về Palomar sử dụng
kính thiên văn đường kính 5m ở đó để nghiên cứu
chuyển động của các sao ở tâm của thiên hà
Andromede.
Vào cuối năm thứ
ba, tôi tới gõ cửa nhà giáo sư Lyman Spitzer để xin
ông nhận hướng dẫn tôi làm luận án tiến sĩ. Ông chấp
nhận với điều kiện đề tài luận án phải là nghiên cứu
chất khí trong môi trường giữa các vì sao.
Lyman Spitzer cùng
với êkip của mình đã chế tạo được một kính thiên văn
hoạt động trong vùng phổ tử ngoại, được thiết kế
chuyên để nghiên cứu môi trường giữa các vì sao.
Kính thiên văn này mang tên Copernic,
người đã trục xuất Trái Đất ra khỏi vị trí trung tâm
của Vũ trụ, và được đưa lên quỹ đạo năm 1972. Nó đã
gửi về Trái Đất một vụ bội thu thông tin. Và bây giờ
cần phải có một lý thuyết giải thích một số dữ liệu
trong đó và đấy là đề tài luận án của tôi.
Xin ông kể
đôi chút về giáo sư Lyman Spitzer.
Thêm một lần nữa
tôi lại có cơ may tiếp xúc với một con người thực sự
đặc biệt. Mỗi tuần tôi chỉ được gặp ông 1 giờ đồng
hồ, vì với cương vị trưởng khoa và nhiều trách nhiệm
trong các hội đồng quốc gia và quốc tế ông cực kỳ
bận rộn. Nhưng đó là một giờ vô cùng quý báu. Tôi
trình bày với ông những kết quả mà tôi thu được
trong tuần lễ trước. Ông gật đầu mỗi khi đồng ý và
nhíu mày mỗi khi thấy không ổn.
Cũng như các nhà
khoa học lớn khác, ông có một trực giác cực kỳ nhạy
cảm và cũng như Feynman, ông biết đáp số còn trước
khi bắt tay vào tính toán. Một giờ làm việc với ông,
tôi học được nhiều hơn so với một tuần làm việc với
các nhà khoa học ở tầm cỡ nhỏ hơn.
Spitzer đã có
những đóng góp rất cơ bản cho lý thuyết về môi
trường giữa các vì sao và về sự tiến hóa động của
các đám sao cầu.
Chính ông là cha
đẻ của kính thiên văn không gian mang tên Hubble,
được tàu con thoi đưa lên quỹ đạo vào tháng 4 năm
1990. |
|
©
http://vietsciences.free.fr Trinh
Xuan Thuan, un asptrophysicien,
Phạm Văn Thiều dịch
24/02/2005 |
|
|
|