"There's
plenty of room at the bottom"
Richard
Feynman (Nobel Vật lý 1965)
Nano có
nghĩa là nanomét (ký hiệu: nm) bằng một phần tỷ mét (1/1.000.000.000 m), một
đơn vị đo lường
để
đo kích
thước những vật cực nhỏ. Cơ cấu nhỏ nhất của vật chất là nguyên tử có kích
thước: 0,1 nm, phân tử là tập hợp của nhiều nguyên tử: 1 nm, vi khuẩn: 50
nm, hồng huyết cầu: 10.000 nm, tinh trùng: 25.000 nm, sợi tóc: 100.000 nm,
đầu cây kim: 1 triệu nm và chiều cao con người: 2 tỷ nm.
Khoa học và
công nghệ nano (nanoscience and nanotechnology) là một bộ môn khảo sát, tìm
hiểu đặc tính những vật chất cực nhỏ, để thao tác (manipulate), chồng
chập những vật chất này, xây dựng vật thể to hơn. Người ta gọi phương pháp
xây dựng từ vật nhỏ đến vật to và to hơn nữa là phương pháp "từ dưới lên"
(bottom-up method). Sự xuất hiện của khoa học và công nghệ nano đang cách
mạng lề lối suy nghĩ và phương pháp thiết kế toàn thể các loại vật liệu từ
dược phẩm trị liệu đến các linh kiện điện tử với những đặc tính đã định sẵn
ngay từ thang phân tử.
Một sản phẩm của "công nghệ nano"
là cơ thể con người. Con người, động vật và thực vật là do những nguyên tố
hóa học tạo nên. Giả dụ có một phương pháp có thể làm phân rã cơ thể con
người đến tận thành phần cấu tạo cơ bản, ta sẽ thu lượm được vài chục lít
khí oxygen, hydrogen và nitrogen; một đống than (carbon), calcium, muối; vài
nhúm nguyên tố vô cơ như sulfur, phosphorous, kim loại như sắt, magnesium,
sodium và hơn một chục nguyên tố linh tinh khác. Nếu đánh giá theo tiêu
chuẩn thương mãi thì toàn bộ các nguyên tố hóa học này gần như không có giá
trị. Tuy nhiên, tạo hóa đã biết dùng phương pháp mà bây giờ ta gọi là "công
nghệ nano" để biến những nguyên tố bất động, vô tri trở thành một sinh vật
có ý thức, có khả năng sinh sản, biết suy nghĩ, biết đi, biết bò, biết bơi,
biết vui, biết sướng, biết hờn dỗi, biết hỉ nộ ái ố... Giá trị thương mãi
của sinh vật thông minh này là vô giá!
"Có rất nhiều chỗ trống ở miệt dưới"
Tiến sĩ
Richard Feynman (1918-1988, giải Nobel Vật lý 1965) là một thiên tài vật lý.
Năm 1959, ông đã có một dự đoán tài tình về công nghệ nano trong một bài nói
chuyện với
nhan
đề
"There's plenty of room at the bottom" (Có rất nhiều chỗ trống ở miệt
dưới) tại California Institute of Technology (Caltech, Mỹ) [1]. Ông là người
có tính hài hước, bình dị, thích bông đùa, tếu táo. Sinh thời ông là một tay
trống nhạc Samba, thích
hòa đồng
với sinh viên. Điều nầy cũng phản ánh qua cái nhan đề của bài nói chuyện.
Ông chơi chữ; "bottom" có nghĩa là cái mông đít, bàn tọa lại còn có nghĩa là
cái đáy, cái tận cùng. "Miệt dưới" trong tiếng Việt mang đầy đủ hai ý nghĩa
nầy.
Đọc qua
nhan đề bài nói chuyện, không ít người trong thính giả hoang mang hỏi: "Thầy
Feynman ơi! Chắc
thầy
lại đùa nữa rồi?". Nhưng
thầy
Feynman không đùa,
thầy
nói chuyện nghiêm túc. Ông đặt vấn đề làm sao có thể chứa toàn bộ 24 quyển
Bách khoa Từ điển Britannica với tổng cộng 25.000 trang giấy trên đầu cây
kim có đường kính 1,5 mm. Theo Feynman, khả năng này hiện hữu. Thính giả ngơ
ngác, vì ở năm 1959 dụng cụ điện tử tiên tiến nhất là cái tivi điều khiển
bằng ống chân không mà mỗi lần bật lên phải đợi vài phút hình ảnh mới xuất
hiện. Cũng ở thời điểm này, ông chủ hãng Sony (Nhật Bản), Morita Akio, vừa
tung ra thị trường thế giới đài radio bán dẫn (transistor radio) bỏ túi dùng
pin. Từ cái radio to kềnh càng với ống chân không dùng điện nhà đến cái radio bỏ
túi là một thành quả ngoạn mục của kỹ thuật thu nhỏ (miniaturization) đương
thời. Có phải là vấn đề của Feynman đưa ra là một chuyện không tưởng?
Feynman trấn an người nghe là ông không "xạo sự", tất cả những điều ông nói
đều khả thi, theo đúng và nằm trong phạm vi cho phép của những qui luật vật
lý. Như vậy, Feynman đã thuyết phục thính giả của ông bằng cách nào?
Ông giải
thích bằng con số rất đơn giản. Muốn đặt 25.000 trang giấy trên mặt của đầu
kim ta chỉ cần thu nhỏ 25.000 ngàn lần toàn thể bộ bách khoa từ điển. Có
nghĩa là những chữ in cũng phải thu nhỏ 25.000 lần. Trong các mẫu tự, dấu
chấm trên đầu chữ "i" là ký hiệu nhỏ nhất. Sau khi thu nhỏ 25.000 lần, dấu
chấm vẫn còn có một kích cỡ của tập hợp 1000 nguyên tử. Con số 1000 nguyên
tử còn rất to và cho rất nhiều lựa chọn để con người thao tác (manipulate)
bằng một phương pháp vật lý nào đó. Feynman tiếp tục luận điểm của mình. Ông
phỏng chừng có 24 triệu quyển sách trong các thư viện trên toàn thế giới.
Nếu tất cả được thu nhỏ 25.000 lần thì toàn thể sách viết biểu hiện tri thức
của loài người trên quả đất sẽ được "in" vỏn vẹn trên 35 trang giấy A4! Feynman
còn nói đến khả năng làm những sợi dây dẫn điện phân tử và các linh kiện
điện tử như transistor ở thang phân tử. Ông nói đến công cụ lớn làm nên
những công cụ nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa để giúp con người di dời, thao tác và
điều khiển nguyên tử và phân tử theo ý mình.
Mục đích bài nói chuyện của
Feynman không phải chỉ dừng ở kỹ thuật thu nhỏ (miniaturization) mà còn phác
họa khả năng hình thành một nền công nghệ mới trong đó con người có thể di
chuyển, chồng chập các loại nguyên tử, phân tử để thiết kế một dụng cụ cực
kỳ nhỏ ở thang vi mô (microscopic) hay thiết kế một dụng cụ to ngay từ cấu
trúc phân tử của nó. Phương pháp đó ở thế kỷ 21 được gọi là "công nghệ nano"
với cách thiết kế từng nguyên tử một "từ dưới lên" (bottom-up method). Thật
ra, kỹ thuật thu nhỏ hay là phương pháp "từ trên xuống" (top-down method) đã
là xương sống của việc xây dựng và phát triển công nghiệp điện tử từ hơn 50
năm qua. Transistor là một linh kiện chính trong các vi mạch của các
loại dụng cụ điện tử. Nó là "linh hồn" từ cái máy tính tay (calculator)
khiêm tốn đến cái máy vi tính phức tạp. Phương pháp "từ trên xuống" đã được
áp dụng để thu nhỏ transistor có độ to ban đầu khoảng vài cm ở thời điểm
phát minh (năm 1947) cho đến ngày hôm nay thì đến bậc nanomét; vài chục
triệu lần nhỏ hơn.
"Định
luật" Moore
Liên quan
đến kỹ thuật thu nhỏ, Gordon Moore, một trong những nhà sáng lập của công ty
Intel (Mỹ), trong một bài viết vào năm 1965 về sự thu nhỏ, đã tiên đoán bằng
trực giác của một nhà khoa học là cứ mỗi hai năm mật độ của các transistor
được nhồi vào một chip cho
máy vi tính sẽ tăng gấp đôi nhờ vào kỹ thuật chế biến thu nhỏ và đặc tính
của nguyên tố silicon. Người ta đặt cái tên "Định luật" Moore (Moore's law)
cho sự tiên liệu này, dù nó không phải là một định luật dựa theo lý thuyết
trong ý nghĩa thông thường. Cũng vào thời điểm 1965, Intel chế tạo một cái
chip có diện tích vài cm2
chứa 30 transistor. Chip
này đủ "thông minh" làm công việc đơn giản cộng trừ nhân chia thay cho cái
bàn toán Tàu. Đây là bước đầu thành công cho thấy sự tiến bộ của việc thu
nhỏ từ cm đến mm. Chip của
máy vi tính hiện nay cũng có một diện tích vài cm2 nhưng chứa vài
chục triệu đến trăm triệu transistor. Càng nhiều transistor thì hiệu năng
của máy vi tính càng nhanh, càng cao và càng ít hao năng lượng.
Định luật
Moore đã đúng hơn 40 năm qua kể từ năm 1965 và sẽ tiếp tục đúng trong vòng
15 năm tới. Tuy nhiên, đặc tính thu nhỏ của silicon sẽ đến một mức giới hạn
và dừng lại ở một kích thước nhất định nào đó. Để giải quyết khó khăn
này,
tháng 11 năm 2007 Intel tung ra thị trường thế giới một transistor mới với
kích cỡ 45 nanomét dùng một nguyên tố gọi là hafnium để thay thế silicon.
Transistor này nhỏ đến mức người ta có thể xếp 2000 transistor trong một
khoảng không gian dày bằng sợi tóc. Hằng tỷ transistor được tập tích trong
một chip vi tính cũng
chỉ to vài cm2. Muốn nhìn các transistor này ta cần kính hiển vi
điện tử với độ phóng đại vài trăm nghìn lần.
Với những
thành quả ngoạn mục của phương pháp thu nhỏ "từ trên xuống" trong công
nghiệp điện tử, người ta không khỏi thắc mắc tại sao lại phải cần đến công
nghệ nano "từ dưới lên", vì dù sao các công cụ cũng đã đạt đến thứ nguyên
nanomét? Vấn đề chính của các transistor thu nhỏ là sự phát nhiệt. Càng được
thu nhỏ, transistor càng nóng. Sự phát nhiệt làm tổn hại và giảm công năng
của các dụng cụ điện tử. Nếu tò mò một chút, ta thấy trong các máy vi tính
lúc nào cũng có chiếc quạt gió để làm nguội
chip.
Nhu cầu thu nhỏ hơn nữa và tránh sự phát nhiệt cần phải nhờ đến giải pháp
"từ dưới lên" của công nghệ nano và khái niệm "phân tử điện tử
học" (molecular electronics) ra đời. Một thí dụ của phân tử điện tử học là
transistor phân tử (molecular transistor). Trong những năm gần đây, nhiều
nhóm nghiên cứu dùng phân tử ống than nano làm vật liệu để chế tạo
transistor phân tử có kích thước vài nanomét.
Đây là một
transistor đã đụng đến "tận đáy" của vật chất. Ngoài ra, ống than nano có
đặc tính dẫn điện đạn đạo (ballistic conductivity) mà không gây sự phát
nhiệt. Việc nghiên cứu transistor ống than nano đang tiến triển khả quan cho
nhiều hứa hẹn. Người ta dự đoán nếu transistor ống than nano được dùng cho
máy vi tính thì máy sẽ thu nhỏ bằng cục đường uống cà phê (2 x 2 x 2 cm)!
Công nghệ nano và sinh học
Những dự
đoán thiên tài của giáo sư Richard Feynman gần 50 năm trước không còn là một "khả
năng" mà đã trở thành sự thật ở thế kỷ thứ 21. Khoa học và công nghệ nano mở
rộng một thế giới mới cho con người, nhưng thật ra chúng đã là một "ngành"
rất xa xưa của thiên nhiên. Từ những tế bào mang sự sống đầu tiên thành hình
trên quả đất hơn 3 tỷ năm trước cho đến sự xuất hiện của loài linh trưởng
homo sapiens có ý thức và linh hồn, trải qua hàng
trăm triệu năm tạo hóa đã dùng công nghệ nano thao tác các nguyên tử và phân
tử vô tri gieo mầm cho sự sống, tạo ra muôn loài sinh linh biết thích ứng
với môi trường sống xung quanh trong đó có con người - đỉnh cao của quá
trình tiến hóa - với trí thông minh kỳ diệu. Đây là quá trình thiết kế "từ
dưới lên" dùng những thành phần đơn giản nhất, để cuối cùng hoàn thành một
cấu trúc phức tạp nhất, trong những điều kiện bình thường nhất (nhiệt độ 0 -
40
°C,
áp suất 1 atm của khí quyển).
Một thí
dụ khác trong phạm vi nhỏ hơn có quá trình phát triển và tiến hóa ngắn hơn
cũng theo phương pháp "từ dưới lên" là quá trình thụ tinh, tạo phôi rồi phát
triển thành sinh vật và con người. Các tế bào phôi chứa phân tử DNA mang
những thông tin di truyền và là "nhà máy" sản xuất các tập hợp phân tử sinh
học điển hình là các loại protein với các chức năng khác nhau cần thiết cho
một sinh vật có cảm giác và linh hồn. Quá trình tiến triển từ phôi đơn giản
vô tri đến cấu tạo hài hòa của một con người có ý thức, cảm giác chỉ cần 40
tuần. Đây là một khả năng kỳ diệu của tạo hóa!
Các
loại protein là những thí dụ cụ thể
của
các loại động cơ, công cụ điện (electrical device) sinh học ở thứ nguyên
nanomét. Hay nói một cách khác đây là những phân tử hay tập hợp phân tử biết
chuyển hoán năng lượng thành cơ năng
để đi,
bò, nhún nhảy, quay tròn, truyền đạt tín hiệu điện, đã hiện hữu ngay trong
các loài vi khuẩn hoang sơ có một cấu trúc sinh học đơn giản từ 3 tỷ năm
trước. Con bào ngư cũng biết lợi dụng công nghệ nano làm vỏ để bao bọc thân
thể. Giữa vỏ bào ngư và viên phấn viết bảng có sự giống nhau và khác nhau.
Cả hai đều là calcium carbonate (CaCO3) nhưng vỏ bào ngư là một
vật liệu rất cứng, chống nước mặc dù độ dày chỉ khoảng vài mm, trong khi
viên phấn có thể bị bẻ gãy dễ dàng và tan rã trong nước. Vỏ bào ngư có độ
cứng 3.000 lần lớn hơn viên phấn. Nguyên nhân là sự khác biệt của cấu trúc
vi mô. Con bào ngư như một kỹ sư xây dựng thiên tài tạo ra vỏ có cấu trúc
nano bằng cách trải từng lớp calcium carbonate ở độ dày 500 - 800 nanomét
(1/100 sợi tóc) (Hình 1) như anh thợ nề lót từng viên gạch tường, trong khi
viên phấn chỉ là những hạt calcium carbonate được ép vào nhau vô thứ tự.
Kinh nghiệm thường ngày cho thấy, khi dùng búa đập vào mảng bức tường theo
chiều dọc rất khó làm tan nát các viên gạch. Tương tự, khi có một va đập vào
vỏ bào ngư, vết nứt không xuyên thủng qua vỏ nhưng nó sẽ đi dọc theo đường
biên giữa các mảng calcium carbonate, nhờ vậy vỏ được bảo toàn. Cấu trúc này
được các nhà khoa học mô phỏng để làm áo giáp và mũ cối quân đội.

Hình 1: Vỏ
bào ngư với những mảng CaCO3. Độ dày mảng là 500 - 800 nm (1/100
sợi tóc). (Nguồn:
www.treehugger.com)
Bài học vỏ
bào ngư đã cho các nhà khoa học một nhận thức quan trọng là mặc dù cùng một
nguyên tố cấu thành nhưng tùy phương cách thiết kế ở thang vi mô vật liệu sẽ
có những đặc tính khác nhau. Sinh vật đã có lịch sử tiến hóa hàng trăm triệu
năm, là mô hình hoàn thiện nhất để con người bắt chước. Thật ra, mô phỏng từ
Mẹ thiên nhiên không phải là điều xa lạ đối với con người. Loài người nhìn
chim muông để tạo ra phi cơ bay trong bầu trời, phi thuyền bay vào vũ trụ;
nhìn kình ngư để tạo ra tàu thủy lướt sóng, tàu ngầm vượt lòng đại dương.
Nhưng ở thế kỷ 21, sự mô phỏng không còn giới hạn ở cái phiến diện bên ngoài
mà đã đi vào "tận đáy" của các hệ thống sinh học. Thật vậy, sự vận hành của
các động cơ và công cụ sinh học ở thang phân tử đã đặt một câu hỏi lớn cho
các nhà khoa học là con người có thể nào tận dụng kỹ thuật nhân tạo để mô
phỏng thiên nhiên tạo ra những động cơ và công cụ ở thứ nguyên nanomét.
Những thách thức này đã thúc đẩy sự thành hình của nền khoa học và công nghệ
nano.
Mặc dù vào
thập niên 70 của thế kỷ trước đã lác đác xuất hiện vài quyển sách giáo khoa
về sinh học vật lý viết bằng tiếng Anh và tiếng Nhật, nhưng mãi cho đến cuối
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 các nhà vật lý mới chú ý đến các loại động cơ,
dụng cụ, chất xúc tác sinh học siêu nhỏ ở mức vi mô. Theo thiển kiến của
người viết, nguyên nhân chính là một bức tường vô hình chắn sự giao lưu của
hai ngành sinh học và vật lý. Các nhà vật lý thường ít chuyên tâm đến các
ngành khác. Nếu có thì cũng chỉ vươn đến ngành hóa trong đó bộ môn hóa lý
(physical chemistry) và hóa học lượng tử (quantum chemistry) đã trở thành
hai nhịp cầu nối liền vật lý và hóa học. Mặt khác, các nhà sinh học biết rất
ít về những qui luật vật lý, có khuynh hướng tránh xa toán học, họ chỉ quan
sát các hiện tượng mang nhiều tính định tính hơn là định lượng. Tuy
nhiên, sự thành hình của nền công nghệ nano đã kéo hai ngành vật lý và sinh
học xích lại gần nhau. Sự tương tác giữa vật lý, hóa học và sinh học là một
nền tảng vững chắc và cần thiết cho khoa học và công nghệ nano.
"Trăm
nghe, trăm thấy và một sờ"
Sau bài nói
chuyện nổi tiếng mang đầy tính thuyết phục của Feynman, hàng ngàn khoa học
gia trong 50 năm qua đã nghiên cứu, thu thập tri thức, sáng tạo
ra nhiều phương pháp, mò mẫm đi vào thế giới cực nhỏ để "vào hang hùm bắt
cọp con"! "Cọp con" ở đây là những nguyên tử và phân tử mà các nhà khoa học
muốn nhìn thấy, muốn nắm bắt, di chuyển chúng theo chủ ý của mình và cuối
cùng thiết lập những đặc tính cho một ứng dụng nào đó.
Kể từ khi
khái niệm về nguyên tử trong khoa học tự nhiên ra đời cách đây hơn 100 năm,
người ta đã xác nhận nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vạn vật nhưng trên
thực tế chưa ai nhìn thấy được cho đến năm 1981. Vào năm này, hai nhà nghiên
cứu của công ty IBM, G. Binning và H. Rohrer, tuyên bố với thế giới là hai
ông đã "nhìn" thấy nguyên tử bằng kính hiển vi quét đường hầm (scanning
tunelling microscope, STM) do hai ông phát minh và đoạt giải Nobel cho thành
quả này.
"Trăm nghe không bằng một thấy",
nhưng con người vẫn chưa thỏa mãn. Sự tò mò của con người thôi thúc bắt đôi
bàn tay phải táy máy hành động, vì "Trăm thấy không bằng một sờ"! Ngoài việc
nhìn thấy nguyên tử, STM còn cho khả năng di chuyển nguyên tử. Năm 1990,
D. Eigler và E. Schweizer cũng tại IBM lần đầu tiên "sờ" được nguyên tử. Hai
ông dùng đầu dò (tip) của STM để di chuyển từng đơn vị nguyên tử theo ý của
mình. Lời tiên đoán của Feynman năm 1959 nay đã thành hiện thực. Thí nghiệm
của của Eigler và Schweizer đã được thực hiện trong chân không và nhiệt độ
cực thấp (-270 °C).
Hai ông đã di chuyển 35 nguyên tử xenon để tạo ra 3 mẫu tự "IBM" (Hình 2).
Chiều ngang của toàn thể 3 mẫu tự này chỉ có 3 nanomét. Đây là mẫu tự nhỏ
nhất của thế giới loài người!

Hình 2: Mẫu
tự nhỏ nhất của thế giới loài người. (Nguồn: Wikipedia)
Việc di
chuyển nguyên tử là việc đơn giản nhất, nhưng với kỹ thuật hiện tại vẫn còn
rất khó khăn. Vì vậy, kéo hai nguyên tử kết hợp thành phân tử rồi chồng chập
các phân tử lên nhau tạo thành một động cơ hay một công cụ siêu nhỏ như
thiên nhiên đã làm là một điều khó khăn nếu không muốn nói là hoang tưởng ở
thời điểm hiện tại.
Động cơ
nano nhân tạo
Các nhà hóa
học có một cách làm khác. Họ là những chuyên gia hiểu rất rõ về các liên kết
hóa học (chemical bonding). Họ biết từng đặc tính của nguyên tử, từ đó tổng
hợp (synthesize) bằng nhiều phương pháp cho ra các sản phẩm phân tử tạo ra
các loại vật liệu hơn hai trăm năm nay. Họ không lôi kéo một cách "vật lý"
các nguyên tử để tạo thành phân tử hay hợp chất, nhưng họ trộn dung dịch nầy
với dung dịch kia, cho vào ống nghiệm lắc lắc xoay xoay. Với bàn tay "phù
thủy", họ có thể cắt vài nguyên tử ra khỏi phân tử mẹ hay gắn vào một nhóm
nguyên tử khác, hoặc kết hợp các phân tử khác nhau trở thành phân tử mới với
đặc tính định sẵn bằng những phản ứng hóa học rất hiệu quả. Ở một khía cạnh
nào đó, họ đã tạo ra những vật liệu bằng những thao tác nano, di dời các
nguyên tử bằng các phản ứng hóa học. Từ truyền thống lâu đời này, các nhà
hóa học ở một vị trí lý tưởng để chế tạo ra những động cơ hay công cụ phân
tử nhân tạo.
Tuy
nhiên, ta phải khiêm cung nói rằng con người đang tập tành bắt chước tạo hóa
làm những công cụ phân tử ở mức sơ đẳng nhất. Nói cho dễ hiểu, trong khi con
người đang cưa đẽo những khúc gỗ làm chiếc xe cút kít thì tạo hóa đã hoàn bị
một chiếc xe Mercedes hạng sang! Dù là một cỗ máy to lớn hay là tập hợp phân
tử, động cơ chẳng qua là một công cụ chuyển hoán năng lượng; từ hóa năng hay
điện năng thành cơ năng. Một động cơ phân tử sinh học biết xoay, biết đi,
biết bò, biết ứng xử với môi trường xung quanh là một tập hợp phân tử cực kỳ
phức tạp. Tinh trùng là một thí dụ. Hiện tại, tạo ra một động cơ nano (phân
tử) nhân tạo với phương pháp nano "từ dưới lên" tương tự như hệ thống sinh
học là một việc không tưởng. Nhưng các nhà hóa học đã có khả năng tạo những
bộ phận đơn giản cho động cơ nano. Việc đầu tiên là tổng hợp những siêu phân
tử (supramolecule) làm các bộ phận cấu thành, sau đó "ráp" các bộ phận nano
này thành động cơ. Trong mười năm qua, họ đã tổng hợp các bộ phận phân tử có
tác dụng như một bật điện, khối quay (rotor), cánh quạt, trục, phanh, bánh
răng, bánh cóc (rachet) v.v... [2]. Nhiên liệu cho các động cơ nổ là xăng,
cho động cơ nano nhân tạo là ánh sáng mặt trời. Đương nhiên, đây là những
động cơ rất đơn giản so với động cơ phân tử sinh học nhưng cũng đòi hỏi
nhiều cố gắng và kiến thức trong hóa hữu cơ và quang hóa học
(photochemistry).
Khi một
vật thể vi mô có kích thước nanomét hay thậm chí micromét (độ dày sợi tóc là
0,1 mm = 100 micromét = 100.000 nm), những hiện tượng ta không thấy hoặc
không quan trọng ở thế giới bình thường vĩ mô (macroscopic) sẽ xuất hiện
hoặc trở nên quan trọng ở thế giới vi mô. Chẳng hạn, khi các vật thể ở đơn
vị mét (vĩ mô) được thu nhỏ đến micromét hay nanomét, diện tích bề mặt sẽ
tăng từ một triệu đến một tỷ lần - những con số cực kỳ lớn. Sự gia tăng bề
mặt rất hữu ích trong các chất xúc tác cho phản ứng hóa học,
ứng dụng
quang
tổng hợp và chuyển hoán năng lượng mặt trời. Nhưng cũng vì sự gia tăng bề
mặt, lực kéo của môi trường xung quanh (như của nước hay không khí), sức
căng bề mặt nhanh chóng gia tăng làm cản trở sự di động của vật này. Mặt
khác, bằng mô hình vi tính (computer model) người ta dự đoán rằng lực ma xát
gần như zero trong cấu trúc nano. Điều này rất quan trọng cho sự bền bỉ, ít
hao mòn vì không ma xát của các bộ phận di động, xoay, nhảy, bước của động
cơ nano. Dù lực ma xát zero chưa được kiểm chứng bằng thực nghiệm, nhưng khi
ta nhìn lại cơ thể con người và so với các loại cỗ máy nhân tạo, phải công
nhận rằng "bộ máy" con người từ mực vi mô đến vĩ mô ít bị bào mòn và "xài"
tốt, ít nhất cũng đến cái tuổi "thất thập cổ lai hi"!
 |
Leo Esaki, Nhật, Nobel vật lý 1973 |
Ngoài
ra, trong thế giới cực nhỏ nano, cơ học cổ điển Newton áp dụng cho các vật
vĩ mô trở nên vô hiệu và chúng ta đi vào mảnh đất của cơ học lượng tử. Một
quả banh tennis khi va vào một bức tường thì sẽ bật trở lại. Đây là một
việc hiển nhiên thường ngày. Nhưng khi được thu nhỏ đến kích thước nano thì
quả banh có thể đi xuyên bức tường giống như một bóng ma trong phim kinh dị!
Đây là một hiện tượng vật lý thật sự và được gọi là hiệu ứng đường hầm Esaki
(Esaki's tunnelling effect) - một hiệu ứng cơ bản trong cơ học lượng tử.
Hiệu ứng nầy cho điện tử nhiều ứng dụng đặc biệt nhờ khả năng đi xuyên qua
lá chắn cách điện. Vì vậy, những linh kiện điện tử ở thang nano không những
làm gia tăng mật độ tập tích mà còn tạo ra một môi trường cho điện tử di
chuyển tự do, dẫn đến sự giảm nhiệt và gia tăng hiệu suất.
Về
mặt lý
thuyết, cơ học lượng tử là một cơ sở vững chắc để dự đoán và giải thích các
hiện tượng của thế giới nano. Mặt khác, nhiệt động học (thermodynamics) là
một bộ môn cổ điển của vật lý từ thế kỷ 19, khảo sát các hiện tượng vĩ mô
thông qua các biến số như nhiệt độ, áp suất và năng lượng. Dù bộ môn này chỉ
dựa trên "hiện tượng luận" (phenomenological) nhưng nó đã đưa ra những định
luật cực kỳ chính xác cho việc lý giải từ sự cân bằng hóa học đến cơ cấu vận
hành và hiệu suất của động cơ nổ.
Trong
lĩnh vực sinh học, hiện nay người ta vẫn chưa hiểu rõ cơ chế hoạt động
của động cơ phân tử, vì vậy chưa định lượng được hiệu suất chuyển hoán năng
lượng của các loại động cơ tí hon này [3]. Muốn trả lời câu hỏi này ta phải
cần đến nhiệt động học. Nhưng liệu các định luật khoa học áp dụng cho thế
giới bình thường vĩ mô có thể kéo dài đến tận đáy của thế giới vi mô (nano)?
Chúng ta chưa có một câu trả lời dứt khoát
vì hai lý
do.
Thứ nhất, đối tượng khảo sát của nhiệt động học phải ở trong một môi trường
cô lập. Điều này đúng ở các động cơ nổ trong đó piston chỉ hoạt động
trong ống xy lanh có nhiệt độ và áp suất riêng mà không bị ảnh hưởng bởi thế
giới bên ngoài. Ngược lại, động cơ sinh học hoạt động trong một tế bào là
một hệ thống mở giao lưu với môi trường xung quanh. Thứ hai, nhiệt động học
khảo sát một tập hợp hàng tỷ phân tử. Thí dụ, động cơ chiếc xe Toyota Camry
2 lít chứa khoảng 1022 (10.000 tỷ tỷ) phân tử. Làm sao có
thể ngoại suy các định luật nhiệt động học của một tập hợp hằng tỷ phân tử
trở thành định luật cho một vài phân tử? Đây là một thử thách mà các nhà
khoa học phải trực diện để hoàn bị cách kiến giải và thực hành của khoa học
và công nghệ nano. Nếu việc ngoại suy này đạt được kết quả mong muốn, nhiệt
động học sẽ cho ta biết những cơ chế chuyển hoán năng lượng tạo ra sự chuyển
động từ những động cơ thật to như đầu máy xe lửa đến các động cơ thật nhỏ
trong tế bào sinh học. Có thể lúc đó các nhà khoa học sẽ tiến rất gần đến
việc thiết lập "lý thuyết cho tất cả mọi vật" (theory of everything) từ cực
lớn đến cực nhỏ, điều mà các nhà vật lý lý thuyết từng mơ ước hơn 100 năm
nay.
Tiềm năng
ứng dụng và nguy hiểm ẩn tàng
Công nghệ
là một quá trình liên quan đến cách áp dụng kiến thức khoa học vào việc chế
tạo các sản phẩm kinh tế tạo ra sự giàu có, các phương tiện để phục vụ con
người hay bảo vệ sự sống còn của một đất nước. Cho đến thời điểm hiện tại
động cơ và công cụ nano vẫn là một khái niệm trong phòng nghiên cứu, chưa là
một thực thể trên thương trường. Tuy nhiên, về mặt vật liệu và cấu trúc nano
đã
có
sự tiến triển rõ rệt vì nhu cầu đổi mới của các nền công nghệ hiện có. Ống
than nano là một vật liệu nano được chú trọng nhiều nhất vì đây là vật liệu
mới cho
nhiều
khả năng
chế tạo các dụng cụ với điện tính và cơ tính
siêu việt,
có tiềm năng ứng dụng rộng lớn
vào cuộc sống đời thường, kể cả trong y học và quốc phòng. Nhu cầu này thúc
đẩy sự phát triển vượt bực trong kỹ thuật sản xuất, làm giá của ống than
nano giảm hơn 1.000 lần trong 10 năm qua, từ vài trăm đô la Mỹ xuống đến vài
xu cho một gram.
Các cấu
trúc nano của ống than nano được hình thành có hình dạng như một cánh rừng
nhiệt đới trong đó các ống nano mọc thẳng như thân cây. Với hình dạng này,
ống than nano có thể đạt đến diện tích bề mặt 1.000 m2
(bằng một
miếng đất để xây nhà)
cho một
gram vật liệu, rất cần thiết khi dùng làm bộ cảm ứng (sensor). Thể
xốp (porous) titanium dioxide (TiO2) với những lỗ nano có diện
tích bề mặt 200 - 500 m2 (bằng một sân tennis) cho một gram TiO2.
Tinh thể nano (hay là chấm lượng tử, quantum dot) silicon đã được chế tạo
thành công trong phòng thí nghiệm. Thể xốp nano titanium dioxide và chấm
lượng tử silicon là những cấu trúc nano được thiết kế cho pin mặt trời tương
lai.
Động cơ
và các công cụ nano trong lĩnh vực phân tử điện tử học cho thấy nhiều tiềm
năng ứng dụng nhưng hiện nay vẫn còn là những đề tài nghiên cứu cơ bản. Việc
thương mãi hóa các sản phẩm nano có thể thực hiện trong vòng 10 đến 20
năm và thời gian này kéo dài hay rút ngắn tùy vào chính sách đầu tư vào
nghiên cứu của chính phủ. Áp dụng vào y học là một điểm nổi bật trong các
ứng dụng của sản phẩm nano. Đặc tính tải thuốc (drug delivery) đến các tế
bào và chẩn bệnh trong cơ thể con người của các loại vật liệu y học được
khảo sát từ nhiều năm qua. Trong lĩnh vực này, động cơ nano có tiềm năng rất
lớn. Động cơ cần được điều khiển đi theo hướng được chỉ định như tinh trùng
biết tiến về noãn sào trong quá trình thụ tinh, biết cảm ứng và có khả năng
nhận thuốc và nhả thuốc vào tế bào nhiễm bệnh ở một "địa chỉ" nhất định. Ống
than nano được dùng làm giàn giáo cho tế bào xương phát triển để hàn các
vết gãy nứt của xương. Ống than nano có khả năng xuyên thủng màn tế bào như
cây kim nano, có thể là một công cụ để tải thuốc, vắc xin, dược liệu chống
ung thư vào các tế bào nhiễm bệnh [4].
Các ứng
dụng của công nghệ nano được đặc biệt lưu tâm trong lĩnh vực quốc phòng. Có
lẽ cũng vì lý do này, ngân sách dành cho nghiên cứu cơ bản hay ứng
dụng trong công nghệ nano đạt đến hàng tỷ đô la hằng năm ở các nước tiên
tiến. Các vật liệu mới được hình thành theo phương pháp "từ dưới lên" sẽ
có ứng dụng rộng khắp trong công nghệ quốc phòng. Giống như tiến trình
tạo vỏ bào ngư, các nhà khoa học nghiên cứu các loại vật liệu nano tạo ra
kim loại, ceramic, polymer vừa mỏng, vừa nhẹ, vừa siêu cứng cho chiến hạm,
xe tăng, máy bay và áo giáp cá nhân có khả năng chống bom đạn. Những loại
vật liệu "tàng hình" thông minh biết hấp thụ hay phản hồi radar tùy lúc, hay
biết đổi màu giống môi trường xung quanh đang được nghiên cứu để tối ưu hóa
hiệu quả tàng hình và ngụy trang. Transistor phân tử và transistor sinh học
(biotransistor) dùng DNA là những đề tài nghiên cứu quan trọng trong lĩnh
vực truyền thông quốc phòng.
Vật liệu
và sản phẩm nano là con dao hai lưỡi. Vì là những vật cực nhỏ, chúng có thể
là phương tiện trị liệu nhưng cũng là mầm móng gây bệnh ở mức tế bào. Trên
phương diện "sức khoẻ và an toàn chức nghiệp" (occupational health and
safety), người ta vẫn chưa hiểu rõ những tác hại nào có thể xảy ra khi hạt
nano đi vào cơ thể mà không bao giờ bị phân hủy theo qua trình chuyển hóa tự
nhiên (metabolism). Hiện nay vẫn chưa có một quy định chặt chẽ nào cho việc
sử dụng và xử lý các sản phẩm vật liệu nano, điển hình là ống than nano và
fullerene C60. Song song với những tiến bộ khoa học, khả năng tác hại của
những mối nguy hiểm ẩn tàng cần phải đặc biệt cảnh giác.
***
Đã gần
nửa thế kỷ từ ngày Feynman thốt ra những lời dự đoán thiên tài, nền công
nghệ nano dần dần được hình thành và đang đưa loài người đến cuộc cách mạng
kỹ nghệ lần thứ hai. Về mặt lý thuyết, cơ học lượng tử - bộ môn vật lý của
thế giới vi mô - đã khẳng định vai trò độc tôn của mình trong việc giải
thích và tiên liệu những hiện tượng nano. Thêm vào đó, việc triển khai nhiệt
động học cổ điển đến các hệ thống vi mô bằng ngôn ngữ của công nghệ nano và
công nghệ sinh học là một đề tài quan trọng trong vật lý lý thuyết, không
những để giải thích cơ chế và hiệu suất vận hành của các động cơ nano nhân
tạo mà còn dẫn dắt chúng ta thoát khỏi vòng vô minh để lý giải nguồn
cội xuất hiện của sự sống dựa vào các động cơ phân tử sinh học.
Về mặt
công nghệ, sự kết hợp của chính sách quản lý khoa học sáng suốt có tầm nhìn
xa của chính phủ tại một số nước tiên tiến và số vốn đầu tư kếch sù của các
doanh thương đã đẩy mạnh những tiến bộ khoa học và nhanh chóng thương mãi
hóa nhưng thành quả nghiên cứu tạo ra sản phẩm. Năm 2004, Mỹ đứng đầu thế
giới trong việc đầu tư vào công nghệ nano (1,7 tỷ đô la/năm ) sau đó là Nhật
Bản (1 tỷ đô la/năm), Hàn Quốc (đứng thứ 6), Úc (thứ 9), Trung Quốc (thứ 10)
và Đài Loan (thứ 11, 120 triệu đô la/năm) [5]. Dựa theo những số tiền đầu tư
to lớn này, công nghệ nano chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội và
sinh hoạt của chúng ta trong vài thập niên tới. Những vật cực nhỏ sẽ cho
nhân loại tiềm năng kinh tế cực to ở thế kỷ 21.
©
Copyright
Trương Văn Tân
19 December
2007
Tài liệu tham khảo:
(1)
Richard Feynman, "There's plenty of room
at the bottom" (Google search).
(2)
A. Credi, "Artificial molecular motors
powered by light", Aust. J. Chem. 59 (2006) 157.
(3)
M. Haw, "The industry of life", Physics
World, November 2007, 25.
(4)
L. Lacerda,
S. Raffa, M.
Prato, A. Bianco and K. Kostarelos, "Cell-penetrating CNTs for delivery of
therapeutics", Nano Today 2 (December 2007) 38.
(5)
F. Simonis and S. Schilthuizen,
"Nanotechnology: innovation opportunities for tomorrow's defence" (Google
search).
©
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org
Trương Văn Tân