Những bài cùng tác giả
1/ Lịch La Mã.
Lịch La Mã rất quan trọng đối với chúng ta vì đây là nguồn gốc của thứ lịch
ngày nay. Vào thời cổ xưa, người La Mã kể ngày bắt đầu vào lúc mặt trời lặn.
Họ chia ban ngày ra làm: sáng, trưa, chiều, và ban đêm gồm có: chiều, mặt
trời lặn, đêm trường (nuit profonde), gà gáy (chant du coq) và rạng đông. Sự
phân chia không rõ ràng này được người La Mã dùng mãi tới năm 263 trước Tây
Lịch. Vào năm này, người La Mã chiếm được tại Catane một chiếc đồng hồ mặt
trời do người Hy Lạp dựng nên. Vì chiếc đồng hổ này được thiết lập cho một
tỉnh tại Sicile nên khi mang về La Mã, nó không thể nào chỉ đúng giờ được
nhưng nhờ nó mà người La Mã mới có ý niệm rõ ràng về đơn vị thời gian. Vào năm 753 trước Tây Lịch, Romulus thiết lập nên kinh thành Rome thì lịch
đã có từ lâu. Người La Mã đã dùng các tháng căn cứ vào mặt trăng và một năm
có 10 tháng, gồm 4 tháng dài (grand mois) với 31 ngày là các tháng 3, 5, 7
(quintilis) và 10. Sáu tháng kia chỉ có 30 ngày. Như vậy một năm của người
La Mã chỉ có 304 ngày và được bắt đầu vào tháng 3. Mặc dù có một khoảng
trống 60 ngày vào giữa tháng Chạp và tháng 3, không người La Mã nào quan tâm
đến điều này cả, phải chăng họ không cần để ý tới các ngày tháng mùa đông
lạnh lẽo?
Vua Numa Pompilius nổi tiếng đạo đức Về sau vào khoảng năm 712 trước Tây Lịch, Vua Numa Pompilius mới thêm vào
lịch tháng Giêng và tháng 2 khiến cho số ngày trong một năm là 354. Vì quan
niệm số chẵn là số không may mắn và “số lẻ làm vừa lòng các thần thánh hơn”
(l’impair plait aux dieux), nên người La Mã đã thêm vào lịch một ngày nữa để
tổng số ngày là 355. Muốn tạo ra 2 tháng với 51 ngày mới này, người La Mã đã
lấy bớt một ngày ở mỗi tháng có 30 ngày và vì vậy, tháng Giêng mới cũng có
29 ngày như 6 tháng kia, riêng tháng 2 là tháng cuối cùng trong một năm nên
phải chịu hai điều thiệt thòi, đó là tháng ngắn nhất lại chứa đựng số ngày
chẵn (28). Trong một tháng, tên gọi các ngày cũng rất vô lý. Ngày đầu tháng được gọi là
Calendes. Ngày Nones tới vào ngày thứ 5 hay thứ 7, ngày Ides (iduare = phân
chia) ở vào ngày thứ 13 hay 15. Nếu kể cả ngày Nones và ngày Ides, thì
khoảng thời gian bao gồm các ngày đó là 9 ngày, vì thế mới có danh từ Nones
(thứ 9). Người La Mã tính ngày căn cứ vào ngày lễ sắp đến. Khi ngày Calendes đã đi
qua, họ căn cứ vào ngày Nones, rồi họ kể ngày thứ mấy trước ngày Ides, tiếp
theo là các ngày trước Calendes. Hai ngày trước ngày lễ, thay vì phải gọi là
ngày thứ hai về trước (2è jour avant) lại được người La Mã gọi là ngày thứ
3. Sự nhầm lẫn một đơn vị này cứ được người La Mã dùng cho các ngày thường.
Thí dụ về các ngày trong tháng Giêng (31 ngày theo lịch Julien) được kể như
sau: (1) Calendes, (2) ngày thứ 4 trước Nones, (3) ngày thứ 3 trước Nones,
(4) ngày trước Nones, (5) Nones, (6) ngày thứ 8 trước Ides, (7) ngày thứ 7
trước Ides, (8) ngày thứ 6 trước Ides, (9) ngày thứ 5 trước Ides, (10) ngày
thứ 4 trước Ides, (11) ngày thứ 3 trước Ides, (12) ngày trước Ides, (13)
Ides, (14) ngày thứ 19 trước Calendes, (15) ngày thứ 28 trước Calendes, (16)
ngày thứ 17 trước Calendes, (17) ngày thứ 16 trước Calendes, (18) ngày thứ
15 trước Calendes, (19) ngày thứ 14 trước Calendes, (20) ngày thứ 13 trước
Calendes, (21) ngày thứ 12 trước Calendes, (22) ngày thứ 11 trước Calendes,
(23) ngày thứ 10 trước Calendes, (24) ngày thứ 9 trước Calendes, (25) ngày
thứ 8 trước Calendes, (26) ngày thứ 7 trước Calendes, (27) ngày thứ 6 trước
Calendes, (28) ngày thứ 5 trước Calendes, (29), ngày thứ 4 trước Calendes,
(30) ngày thứ 3 trước Calendes, (31) ngày trước Calendes của tháng Hai. Vì một năm của người La Mã có 355 ngày nên không lâu, người dân thấy rõ sự
sai lệch đối với 4 mùa. Muốn điều chỉnh khuyết điểm này, người La Mã cứ 2
năm lại thêm vào một tháng thứ 13 có 22 ngày và tháng này được gọi là
Mercédonius. Nhưng không hiểu tại sao tháng Mercédonius lại được xen vào
giữa hai ngày 23 và 24 của tháng Hai. Nhờ cách xử dụng tháng phụ này, người
La Mã đã làm cho một năm có 366 ngày và như vậy, vẫn còn sai lệch nhưng tới
đây, họ chưa tìm được cách sửa chữa tiếp theo. Sau nhiều cuộc sửa đổi bị thất bại vì bất đồng ý kiến, chính quyền La Mã
đành trao trách nhiệm này cho Trường các Giáo Trưởng (le Collège des
Pontifes) quyền ấn định cho các tháng nhuận số ngày thích hợp với từng hoàn
cảnh. Chính vì đặc quyền này mà “lịch” đã trở nên một nơi dinh dưỡng sự gian
lận. Các giáo trưởng đã lạm dụng đặc quyền để làm cho năm dài thêm hay ngắn
bớt với mục đích thiên vị các viên Tổng Tài (Consul) đang tại chức, hay làm
hại những người chống đối họ. Việc làm này đã khiến cho công việc xác định
các kỳ hạn thu và đóng thuế bị xáo trộn, các buổi họp tư pháp gặp cản trở,
các ngày tết lễ rơi vào những dịp trái với thiên thời và quyền công dân bị
xâm phạm. Trước sự gian lận của các giáo trưởng, người dân tại mọi nơi đều đồng thanh
đòi cải tổ lịch. Sự kiện này khiến cho nhà độc tài Jules César phải quan tâm
tới lịch vào năm 63 trước Tây Lịch. César cho mời nhà thiên văn Hy Lạp
Socigène khi đó đang sống tại Alexandrie, Ai Cập, làm cố vấn cho mình.
Hai thế kỷ về trước, Vua Ai Cập Ptolémée III Evergète đã ra một đạo luật
chấp nhận một ngày phụ cho mỗi 4 năm 365 ngày và đại thiên văn gia Hipparque
đã nhận xét vào năm 180 trước Tây Lịch rằng một năm ngắn hơn 365 ngày.
Socigène cũng biết tới điều khám phá của Hipparque nhưng có thể vì cho rằng
sai biệt 5 phút trong 1 năm không đáng kể, vì điều này chỉ làm sai lịch 1
ngày rưỡi sau 2 thế kỷ, nên Socigène đã đề nghị với Jules César cách sửa đổi
bắt nguồn từ ý tưởng của Vua Ptolémée
Jules César
Ptolémée III Để chấm dứt sự lộn xộn về lịch, Jules César quyết định rằng thứ lịch mới
không liên quan gì đến mặt trăng, hoàn toàn căn cứ vào mặt trời và phải được
làm cho thích hợp với 4 mùa. Muốn vậy, từ năm 708 La Mã (tức là năm 46 trước
Tây Lịch), ngày Xuân Phân sẽ mãi mãi là ngày 25 tháng 3. César còn ấn định
rằng cứ 4 năm có một năm 366 ngày và ngày phụ sẽ được thêm vào tháng 2,
tháng 28 ngày, ngắn nhất và cũng là xấu nhất. Nhưng đáng lẽ cho tháng 2 này 29 ngày, César đã phải tránh né động chạm tới
nhiều điều dị đoan của dân chúng bằng cách chấp nhận một quy tắc phức tạp.
Theo người La Mã, các tháng dành cho các thần thánh dưới Hỏa Ngục (dieux
infernaux) phải có số ngày chẵn, còn số ngày lẻ là của thần thánh nơi Thiên
Đường (dieux supérieurs). Vì vậy quy tắc sửa đổi đã ấn định tăng gấp đôi
ngày 24 tháng 2 để không làm thay đổi tên gọi các ngày trong tháng, và vì
ngày này là ngày thứ sáu trước Calendes của tháng 3, nên được gọi là
“bissextus (anté) calendes martias” (nguyên ngữ của chữ bissextil trong
tiếng Pháp). Đồng thời Jules César còn mang đầu năm về tháng Giêng, chứ không phải là
tháng Ba như cũ. Để làm cho thứ lịch mới này thích ứng với các điều nhận xét
thiên văn, năm 708 La Mã có 455 ngày, rồi sau đó là ngày mồng 1 tháng Giêng
(năm 45 trước Tây Lịch). Với thứ lịch mới này, thứ tự các tháng bị xáo trộn. Tháng Quintilis (hay thứ
5) trở thành tháng Bẩy, tháng Bẩy hóa ra tháng Chín (Septembre có nghĩa là
7), tháng Chín trở nên tháng 11 (Novembre bao hàm ý nghĩa thứ 9) và tháng
Mười Décembre trong lịch cũ được gọi là tháng thứ 12. Mặc dù tên gọi bị sai
lệch nhưng vì quen dùng, người La Mã không muốn sửa đổi. Để ghi nhớ công trình của Jules César đã đóng góp vào cách cải tổ lịch,
người ta gọi thứ lịch mới này là “Lịch Julien”. Sự cải cách của Jules César khá chính xác. Nhà khoa học biết rằng năm chí
tuyến (année tropique) bằng 365.2422 ngày trong khi năm tính theo lịch
Julien là 365.25 ngày, như vậy sự sai biệt mỗi năm là 0.0078 ngày hay 11
phút 11 giây đối với 4 mùa, khiến cho sau 4 thế kỷ, lịch Julien chỉ chậm đi
3 ngày, một khuyết điểm rất nhỏ so với cuộc đời của con người. Một năm sau ngày sửa đổi lịch, Jules César bị ám sát chết. Việc thêm một
ngày nhuận (jour bissextil) được trao cho các giáo trưởng (Pontifes) nhưng
các vị này đã phát biểu đạo luật về lịch một cách sai lạc do câu “mỗi 4 năm”
khiến cho các năm nhuận chỉ cách nhau bằng 2 năm thường. Trong vòng hơn 30
năm, việc thêm ngày nhuận vẫn được thực hiện một cách sai lệch như vậy, làm
cho trung bình một năm là 365.33 ngày. Để sửa chữa lỗi lầm này, Hoàng Đế
Auguste vào năm thứ 8 trước Tây Lịch, đã ra lệnh hủy bỏ các năm nhuận trong
12 năm, khiến cho tới năm thứ 5 sau Tây Lịch, Lịch Julien mới trở lại bình
thường và việc tìm kiếm lại các ngày tháng vào các năm về trước gặp rất
nhiều trở ngại. Vào năm 325 trước Tây Lịch, dưới triều Hoàng Đế Constantine, Giáo Hội Nicée
(le Concile de Nicée) đã ấn định ngày lễ Phục Sinh (Pâques) phải là ngày Chủ
Nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn thứ nhất (première pleine lune) của mùa
Xuân. Vào năm đó ngày Xuân Phân rơi vào ngày 21 tháng 3. Trải qua gần 4 thế kỷ, tới khi Jules César tìm cách cải tổ Lịch, phân điểm
(équinoxe) đã đi trước 3 ngày đối với ngày ấn định. Nhưng ông Socigène lại
tính là 4 ngày nên mới ấn định ngày Xuân Phân là ngày 25 tháng 3 vào năm 45
trước Tây Lịch. Sự nhầm lẫn ít nhất 24 giờ này do các dụng cụ quan sát thiên
văn kém chính xác và thật ra, vào thời kỳ đó cũng khó mà xác định lúc nào
mặt trời đi qua thiên xích đạo (équateur céleste). Qua nhiều thế kỷ, lịch Julien vẫn sai lệch đối với Phân Điểm cho tới thế kỷ
thứ 8, Giáo Hội La Mã mới tỉnh ngộ rằng ngày Phục Sinh là ngày lễ của mùa
Xuân lại được cử hành vào mùa Hạ. Tới thế kỷ 13, sự kiện này lại được mang
ra thảo luận nhưng việc làm ra luật định không thành công. Vào năm 1414, trong Hội Nghị Tôn Giáo Constance, Hồng Y Giáo Chủ Pierre
d’Ailly đã trình bày trước Giáo Hoàng Jean 23 điều mà toàn thể các tu sĩ ý
thức về việc ấn định ngày lễ Phục Sinh. Tới khi Hội Nghị Tôn Giáo Trente
được tổ chức (1545/1553), các giáo sĩ cũng không tìm ra được một lối thoát
nào cho ngày lễ Phục Sinh cả. Năm 1582, Giáo Hoàng Grégoire 13 triệu tập một hội đồng các nhà bác học
trong đó đáng kể nhất là nhà thiên văn kiêm tu sĩ Dòng Tên người Đức
Clavius. Mục đích của việc sửa đổi lịch của Giáo Hoàng Grégoire 13 gồm hai
phần: (1) phát biểu các quy tắc tổng quát ấn định về lịch sẽ dùng cho tương
lai, (2) sửa chữa các nhầm lẫn gây ra bởi lịch cũ sao cho ngày tháng của
lịch mới thích ứng với năm mặt trời. Từ năm có Hội Nghị Tôn Giáo Nicée, 1257 năm đã trôi qua. Vì năm tính theo
lịch Julien dài hơn năm mặt trời thực (true solar year) 11 phút 14 giây, tức
là sau 129 năm, sự sai biệt là 1 ngày, nên tới năm 1582, ngày Xuân Phân sẽ
rơi vào ngày 11 tháng 3 nghĩa là đi trước 10 ngày so với ngày đã được ấn
định tại Hội Nghị Tôn Giáo trước kia. Vì muốn giữ ngày 21 tháng 3 làm ngày
Xuân Phân nên Giáo Hoàng Grégoire 13 đã quyết định rằng ngày tiếp theo ngày
thứ Năm, mồng 4 tháng 8 năm 1582, sẽ là ngày thứ Sáu, 15 tháng 8 năm 1582,
như vậy năm 1582 chỉ có 355 ngày và từ năm 1583, ngày 21 tháng 3 sẽ là ngày
Xuân Phân. Vì lịch Julien sai biệt so với 4 mùa mất 3 ngày trong 4 thế kỷ, nên muốn giữ
cho sự trùng hợp của ngày Xuân Phân vào ngày 21 tháng 3, Giáo Hoàng Grégoire
13 còn ấn định thêm vài cách sửa chữa khuyết điểm. Do sự sửa đổi kể trên, người ta thấy rằng: a) theo như quy luật cũ, cứ 4 năm
lại có một năm nhuận. b) các năm thế kỷ (année séculaire) theo lịch Julien
đều là nhuận, từ nay trở thành năm thường trừ khi số thế kỷ chia đúng cho 4.
Vì thế các năm 1700, 1800, 1900 không còn là nhuận nữa trong khi các năm
1600, 200 đều có một ngày nhuận vì số 16 và số 20 chia đúng cho 4. Thứ Lịch mới do Giáo Hoàng Grégoire 13 ấn định không khác biệt mấy so với
Lịch Julien, ngoài các bổ khuyết về chi tiết và vì vậy người ta còn gọi Lịch
Grégorien này là Lịch Julien Mới (le calendrier julien nouveau style). Lịch Grégorien khá chính xác. Nếu tính số trung bình, nhà khoa học thấy
rằng: 1) năm tính theo Lich Julien = 365.25 ngày, 2) năm tính theo Lịch
Grégorien = 365.2425 ngày, 3) năm chí tuyến (tropique) = 365.2422 ngày. Như
vậy năm của Lịch Grégorien dài hơn năm mặt trời thực 0.0003 ngày và sự sai
biệt chỉ lên tới 3 ngày sau 10,000 năm. Nếu như vậy, trong 3,000 năm, người
ta chỉ cần sửa chữa 1 ngày, một việc làm quá dễ dàng, lại xét ra không cần
thiết ngay bây giờ bởi vì Lịch hiện nay còn có thể xử dụng tới năm 4,000. Thực ra độ chính xác khi tính lịch còn bị ảnh hưởng bởi nhiều lý do khác
nữa. Đầu tiên, năm chí tuyến (tropique) giảm đi 5 giây mỗi ngàn năm, rồi
khoảng thời gian 1 ngày lại tăng lên 0.001 giây sau một thế kỷ vì sự ma xát
thường xuyên của thủy triều đã hãm bớt chuyển động quay của trái đất. Các
nhà khoa học tính ra rằng do Lịch Grégorien và do hai lý lẽ kể trên, sau
10,000 năm, ngày Xuân Phân sẽ tới vào tháng 3, đi trước ngày ấn định khoảng
8 ngày. Ngay sau khi Giáo Hoàng Grégoire 13 công bố sửa đổi Lịch, thì tại thành phố
La Mã và tại hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, thứ lịch mới được xử dụng
ngay. Cũng vào năm 1582 tại nước Pháp và dưới triều Vua Henry III, việc cắt
bớt 10 ngày được thực hiện vào tháng Chạp, sau ngày 9 là ngày 20 tháng 12.
Tại nước Hòa Lan vào năm 1582, ngày lễ Giáng Sinh đi kế tiếp ngày 14 tháng
12 nhưng đạo luật đổi ngày này không được các tỉnh có tín đồ Tin Lành chấp
nhận trong khi đó, các miền theo Cơ Đốc giáo tại hai nước Đức và Thụy Sĩ đón
nhận sự cải tổ Lịch vào năm 1584. Tại nước Ba Lan, giới Cơ Đốc giáo đã chống
đối việc sửa đổi lịch, một vụ hỗn loạn đã xẩy ra tại Riga nhưng rồi Lịch
Grégorien cũng được người dân dùng vào năm 1586. Năm sau, tới lượt nước Hung
Gia Lợi dùng Lịch mới này. Việc cắt bỏ 10 ngày làm cho thời gian mất hẳn tính liên tục, nên đã khiến
nhiều xứ Cơ Đốc giáo cũng phản đối mãnh liệt trong khi đó, các tín đồ Tin
Lành còn chống lại một cách lâu dài hơn. Nhà thiên văn danh tiếng Kepler nói
rằng “các người Tin Lành ưa thích ngày tháng sai lệch với mặt trời hơn là
đồng ý với Giáo Hoàng”. Sự chống đối còn được nhiều người góp công vào,
chẳng hạn như học giả người Pháp Joseph Scaliger với các bài chỉ trích. Tại
nhiều nơi, người ta đã phải dùng binh lực để dẹp các vụ hỗn loạn. Cuối cùng
các tín đồ Tin Lành tại Hòa Lan, Đức và Thụy Sĩ cùng dùng Lịch Grégorien
nhưng trễ hơn một thế kỷ sau, vào khoảng năm 1700. Hai nước Anh và Thụy Điển chính thức dùng Lịch Grégorien vào năm 1752. Tại
nước Anh sau ngày mồng 2 tháng 9 là ngày 14 tháng 9: người Anh đã phải bỏ đi
11 ngày bởi vì năm 1700 đã đi qua. Như vậy tháng 9 năm 1752 là tháng ngắn
nhất trong Lịch Sử của Đế Quốc Anh. Tại nước Anh, việc sửa đổi lịch đã khiến
cho trên nhiều đường phố, các tín đồ Tin Lành vừa biểu tình, vừa hô khẩu
hiệu “hãy trả cho chúng tôi 11 ngày”. Thêm vào đó, việc nước Anh chấp nhận
đồng thời ngày mồng Một tháng Giêng làm ngày đầu năm càng làm uất hận các
tín đồ trung thành với tập quán. Tại các lãnh thổ có dân chúng theo Chính Thống giáo (Orthodoxe) như Nga Sô,
Hy Lạp, Bảo Gia Lợi và Nam Tư, Lịch Julien vẫn được xử dụng tới tới đầu thế
kỷ 20. Vì các năm thế kỷ 1700, 1800 và 1900 đều được tăng thêm một ngày, nên
từ mồng Một tháng 3 năm 1900, lịch của tín đồ Chính Thống giáo sai biệt với
Lịch Grégorien 13 ngày. Về sau Giáo Hội Chính Thống cũng bắt đầu dùng Lịch
Grégorien khiến cho thứ lịch này có tính quốc tế. 2/ Lịch Giáo Hội (Calendrier écclésiastique).
Lịch Giáo Hội La Mã có mục đích tính toán về các ngày lễ tôn giáo. Trong khi
các thứ lịch khác chỉ căn cứ vào mặt trăng hay mặt trời, lịch Giáo Hội lại
liên hệ tới cả hai. Giáo Hội phân biệt hai thứ lễ: ngày lễ cố định và ngày
lễ lưu động, nhưng bởi vì có khi cố định đối với lịch mặt trời, có khi cố
định đối với lịch mặt trăng, nên các sự cố định hay lưu động này không có
tính chất đặc thù. Lịch Giáo Hội là thứ rất phức tạp, các phép tính liên quan tới lịch được gọi
là “comput” do chữ “computare” là “tính”. Mục đích của comput là xác định
ngày Lễ Phục Sinh (Pâques). Các ngày lễ tôn giáo đều phụ thuộc vào Lễ Phục Sinh. Ngày Chủ Nhật thứ 9 hay
63 ngày trước Lễ Phục Sinh là Lễ Chủ Nhật Thất Tuần (Septuagésime). Ngày Chủ
Nhật của Hội Giả Trang (dimanche de Carnaval) hay Quinquagésime trước Lễ
Phục Sinh 7 tuần lễ. Sau ngày đó là ngày Thứ Tư Lễ Di Hài (Mercredi des
Cendres). Lễ Hiện Xuống (Pentecôte) đi sau Lễ Phục Sinh 7 tuần, trước ngày
lễ này là Lễ Thăng Thiên (Ascension) rơi vào ngày thứ Năm. Ngày Chủ Nhật sau
Lễ Hiện Xuống là Lễ Tam Vị Nhất Thể (Trinité). Còn nhiều ngày lễ khác nhưng
quan trọng nhất vẫn là Lễ Phục Sinh. Ngày Lễ Phục Sinh Do Thái (Pâques juive) bắt đầu vào ngày 14 tháng Nisan. Sở
dĩ ngày trăng tròn này được chọn vì vào thời xa xưa, ánh sáng trăng rất cần
thiết cho lữ khách ban đêm. Ngày 15 Nisan là ngày tiệc tùng rồi tới ngày 16
có lễ dâng lên Chúa một nhánh lúa nặng hạt: tại Palestine, lúa mạch chín sớm
nhất sau ngày Xuân Phân, vào khoảng đầu tháng 4. Vậy người cổ xưa đã cử hành
Lễ Phục Sinh Do Thái vào lúc trăng tròn đầu tiên của mùa Xuân. Theo Giáo Hội La Mã, Chúa Jesus Christ đã cử hành 3 lễ Phục Sinh. Tới Lễ
Phục Sinh thứ tư, vào trước hôm chết, Chúa đã đặt ra Thánh Thể (Eucharistie)
và buổi họp các Tông Đồ (la Cène) ở vào ngày thứ Năm, 14 tháng Nisan. Ba
ngày sau, tức là vào ngày 17, Chúa Jesus sống lại. Vì vậy các tín đồ Thiên
Chúa giáo muốn rằng Lễ Phục Sinh phải rơi vào ngày Chủ Nhật đầu tiên sau
ngày trăng tròn của mùa Xuân. Căn cứ vào các sự kiện theo thiên văn học, các nhà niên biểu (chronologiste)
đều kết luận rằng sự phục sinh của Chúa Cứu Thế đã ở vào ngày Chủ Nhật, mồng
5 tháng 4 năm 33. Nhưng việc cử hành Lễ Phục Sinh đã được thực hiện vào
nhiều ngày khác nhau: ngày 17 Nisan, ngày Chủ Nhật đầu tiên sau ngày 17
tháng Nisan. Một số tu sĩ lại theo ngày lễ Phục Sinh cổ Do Thái, tức là ngày
14 Nisan. Tuy nhiên, đa số tín đồ Thiên Chúa giáo và cả Giáo Hoàng đều chấp
nhận ngày Chủ Nhật theo sau ngày 14 Nisan (vào tháng 3). Sau 3 thế kỷ chưa tìm ra được một giải pháp ổn thỏa, Hội Nghị Tôn Giáo Nicée
mới đề ra quy tắc mà ngày nay người ta còn áp dụng: “Ngày Lễ Phục Sinh là
ngày Chủ Nhật sau 14 ngày mặt trăng và tuổi trăng này rơi vào ngày 21 tháng
3 hay liền sau đó” (Pâques est le dimanche qui SUIT le 14è jour de la Lune
que atteint cet âge au 21 mars ou immédiatement après). Theo như quy tắc
này, Lễ Phục Sinh có thể rơi vào các ngày từ 22 tháng 3 tới 25 tháng 4, tức
là ở vào một trong 35 ngày khác nhau. Sau Hội Nghị Tôn Giáo Nicée và do các bất đồng ý mà Lễ Phục Sinh đã được cử
hành vào các ngày không thống nhất, và tình trạng này còn tồn tại tới thế kỷ
thứ 9 hay hơn nữa. Nhờ các điều tìm kiếm về comput julien của tu sĩ Denys le
Petit mà từ thế kỷ thứ 6 tới năm 1582, Giáo Hội La Mã đã căn cứ vào đó để
tính toán ngày Lễ Phục Sinh. Vào năm 432 trước Tây Lịch, Méton đã khám phá ra tính chất sau đây: 19 năm
mặt trời bằng 235 tuần trăng, như vậy sau 19 năm, các biến tướng (phase) của
mặt trăng sẽ trở lại như cũ và do đó, người ta có thể tiên đoán về các ngày
trăng tròn và điều chỉnh trước cho lịch có thể thích hợp cả với mặt trời và
mặt trăng. Lý thuyết của Méton rất đặc sắc: nếu gọi L là tuần trăng, B là năm chí
tuyến, A là năm julien, thì L = 29.530588 ngày, 235 L = 6,939.6882 ngày; A =
365.25000 ngày, 19 A = 6,939.7500 ngày, B = 365.242200 ngày, 19 B =
6,939.6018 ngày. Như vậy sau 19 năm julien, sự sai biệt là 1 giờ 30 phút hay
1 ngày sau 17 chu kỳ Méton (hơn 320 năm). Căn cứ vào chu kỳ Méton, các nhà
khoa học đã lập ra Lịch Vĩnh Viễn chỉ các ngày trăng mới (calendrier
perpétuel des nouvelles Lunes du comput julien). Thực ra các tuần trăng không bằng nhau mà thay đổi trong khoảng 14 giờ. Sự
sai nhầm còn tăng thêm vì các ngày nhuận và cần đến 4 chu kỳ Méton mới có
một số ngày chẵn (1 chu kỳ Méton = 6,939.75 ngày), nên việc tiên đoán về các
biến tướng của mặt trăng chỉ được kể là gần đúng. Rồi các năm tháng cứ trôi
qua, sau thế kỷ 16 sự sai biệt lên tới 3 ngày. Vào năm 1582, khi Giáo Hoàng Grégoire sửa đổi lịch Julien thì đối với lịch
mặt trăng, các số vàng (nombre d’or) cũng được thay thế bằng các gia số
(epacte do tiếng Hy Lạp épiaktos là (số) thêm vào). Mặc dù cải tiến mới này,
Lịch Giáo Hội vẫn chưa trùng hợp với mặt trăng. Sở dĩ có sự sai biệt vì các
gia số chỉ trù liệu về chuyển động trung bình của mặt trăng. Nhờ Khoa Thiên
Văn mới, các nhà khoa học biết rằng do sự sai biệt mà Lễ Phục Sinh lại có
thể cử hành sớm hơn hoặc trễ hơn dự định 1 tuần lễ, có khi tới 1 tháng. Về
sau các nhà khoa học dùng gia số và chủ tự (lettre dominicale) để tính ngày
Lễ Phục Sinh trong lịch Grégorien. Cũng vì chu kỳ của các chủ tự (cycle
dominical) là 28 mà một cuốn lịch có thể dùng lại 28 năm sau. 3/ Lịch Trung Hoa.
Vào năm 213 trước Tây Lịch, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn học trò,
làm cho ngày nay người ta khó lòng biết chắc chắn các niên biểu của người
Trung Hoa vào thời cổ xưa. Người Trung Hoa cho rằng 20 thế kỷ trước Tây
Lịch, tổ tiên của họ đã biết một năm có 365 ngày¼ và đã dùng một năm 366
ngày tiếp theo 3 năm 365 ngày. Sự kiện này còn bị nghi ngờ nhưng chắc chắn,
người Trung Hoa đã dùng lịch 12 tháng có 30 ngày và 29 ngày liên tiếp. Người Trung Hoa đã kiểm soát lịch bằng cách dùng bóng của cây gậy (gnomon)
đo lúc chính ngọ vào ngày đông chí. Họ còn cho rằng đã tìm thấy một thứ chu
kỳ 19 năm tương tự như chu kỳ Méton. Người Trung Hoa tính lịch theo Can và Chi, bắt nguồn từ Kinh Dịch. Có 10 Can
là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. 12 Chi được kể như
sau: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Lịch của người Trung Hoa không những được tính căn cứ vào sự chuyển vận của
mặt trăng mà còn dựa vào các hiểu biết về Lý Số. Sau một khoảng thời gian
khá dài, Lịch Trung Hoa cũng bị sai lệch với bốn mùa. Vào năm 1629, Vua
Trang Liệt đã nhờ 2 nhà truyền giáo tây phương là Rho và Terranz góp công
vào việc sửa đổi lịch. Hai vị linh mục này rất giỏi về thiên văn, đã xúc
tiến việc cải tổ nhưng chưa thành thì linh mục Terranz qua đời. Công việc
trên được linh mục Shall tiếp nối. Nhờ công trình của 3 nhà truyền giáo này
mà Bộ Khâm Định Vạn Niên Thư được hoàn tất. Đây là một bộ sách tính lịch rất
giá trị, đã chứa đựng nhiều thay đổi theo nền Thiên Văn Học của phương Tây
và cho các kết quả về ngày tháng từ năm 1624 tới năm 2020. Tới đời Vua Khang Hy, Bộ Luật Thượng Khảo Thành cũng được làm xong với sự bổ
chính của hai linh mục A. Pereyra và J. Royler. Một bộ luật luật thứ ba khá
quan trọng ra đời dưới thời Vua Càn Long, là Bộ Khâm Định Hiệp Ký Biên
Phương. Trong bộ luật này, người làm lịch đã chú trọng rất nhiều đến Lý Số
và đã bỏ bớt một phần nào các yếu tố do nền Thiên Văn Học mang lại.
4/ Lịch Cộng Hòa (Calendrier Républicain).
Sau Cuộc Cách Mạng Pháp năm 1793, Hội Nghị Quốc Ước (Convention) đã ra một
đạo luật ngày 6/10/1793 nói về cách dùng một thứ lịch mới. Các nhà cách mạng
Pháp đã lấy ngày 22/9/1792 làm ngày đầu tiên vì do sự ngẫu nhiên, ngày tuyên
bố nền Cộng Hòa rơi đúng vào ngày Thu Phân khi phân điểm đi qua kinh tuyến
Paris. Theo Lịch Cộng Hòa, một năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Tên gọi các
tháng được ấn định theo quy ước Fabre d’Eglantine, đều có một âm điệu rất
kêu tai và có vần cuối phụ thuộc vào từng mùa. Mùa Thu: Vendémiaire (tháng hái nho), Brumaire (tháng sương mù), Frimaire
(tháng sương giá) Mùa Đông: Nivôse (tháng tuyết), Pluviôse (tháng mưa), Ventôse (tháng gió) Mùa Xuân: Germinal (tháng mầm lá), Floréal (tháng hoa), Prairial (tháng cánh
đồng) Mùa Hạ: Messidor (tháng gặt hái), Thermidor (tháng nhiệt), Fructidor (tháng
trái cây). Theo lịch mới này, một năm có 5 ngày phụ xếp vào cuối tháng Fructidor, rồi
cứ 4 năm lại có thêm 1 ngày nhuận được gọi là Ngày Cách Mạng (jour de la
Révolution). Các năm nhuận 3, 7, 11... không trùng hợp với các năm nhuận
theo lịch Grégorien. Các ngày trong tháng được xếp đặt làm 3 đợt, mỗi đợt 10
ngày (décade) và các tên gọi như sau: primidi, duodi, tridi, quartidi,
quintidi, sextidi, septidi, octidi, nonidi, décade. Chủ trương của các nhà làm Lịch Cộng Hòa là muốn cho thứ lịch mới này được
toàn thể các nước trên thế giới xử dụng, giống như họ đã dùng hệ thống mét.
Nhưng thật là trái ngược khi các tên tháng kể trên lại chỉ thích hợp với bốn
mùa của nước Pháp. Vì thế đây chính là yếu điểm bị chỉ trích của Lịch Cộng
Hòa. Lịch Cộng Hòa thực ra chỉ được dùng trong 12 năm. Hoàng Đế Napoléon đã ra
đạo luật ngày 9/9/1805 hủy bỏ thứ lịch này kể từ ngày 1/1/1806 và như thế,
năm Cộng Hòa thứ 14 bắt đầu từ ngày 23/9/1805 (tính theo lịch Grégorien) chỉ
kéo dài 3 tháng 8 ngày./.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Phạm Văn Tuấn.
|