Những bài cùng tác giả
Đất nước đang trên tiến trình hội nhập, thế nhưng Khoa học và Giáo dục
VN thì lại đang ỳ ạch, mặc dù đáng ra - theo tấm gương thành công của
các nền kinh tế Đông Á và Trung quốc vốn có văn hóa tương đồng với chúng
ta - lĩnh vực này cần phải đi trước một bước.
Theo Bộ KH&CN, tổng đầu tư cho 17 phòng thí nghiệm trọng điểm là 1.126
tỷ đồng (bắt đầu từ năm 2001), trung bình 1 phòng thí nghiệm trọng điểm
đầu tư hơn 66 tỷ đồng tương đương 4,4 triệu USD. Các đề tài, dự án có sử
dụng phòng thí nghiệm trọng điểm đã công bố được 640 bài báo, có 22 bằng
sáng chế & giải pháp hữu ích, hơn 300 bằng khen, nhưng chí có 3 công
trình đăng trên các tạp chí quốc tế, trong khi lại đào tạo được tới 56
tiến sĩ, 58 thạc sĩ và nâng cao nghiệp vụ cho hàng trăm cán bộ khoa học
thuộc các lĩnh vực có liên quan – số lượng nhiều nhưng chất lượng quá
thấp theo chuẩn mực quốc tế !
Trong khi đó một nhóm nhà thiên văn ở ĐHQG HN đã biết dùng những thiết
bị quá hạn sử dụng (thải) chỉ để hướng dẫn sinh viên, đo được các thông
lượng Muon ở Hà nội và cho ra kết quả in trên tạp chí quốc tế có uy tín.
Một GS ngành Cơ học chủ trì nhiều đề tài kinh phí lớn tính tóan lũ lụt,
nhưng không cho ra được một kết quả chuẩn mực là bài báo công bố quốc
tế, trong khi một TS cùng chuyên môn, với số kinh phí ít ỏi hơn nhiều,
đưa được các tính tóan của mình về bồi lắng bùn cát trên sông Hồng ở cửa
Ba lạt công bố tạp chí quốc tế. Tiếc rằng những nỗ lực công bố quốc tế ở
ta, nhất là công bố nội lực, còn quá ít và thường không nhận được sự ủng
hộ cần có.
Chỉ 10% số đề tài nghiên cứu cơ bản của ngành Cơ học những năm gần đây
là có công bố quốc tế (một đồng nghiệp cho biết lĩnh vực lĩnh vực khoa
học sự sống có khá hơn: 50% số đề tài có công bố quốc tế, nhưng phần
nhiều do cộng tác với nước ngòai mang lại); còn phần lớn các đề tài kinh
phí lớn cấp Bộ-Ngành và cấp Nhà nước đều không có công bố quốc tế. Điều
đáng ngạc nhiên là ở các mức cần phải có đòi hỏi cao hơn, cũng chỉ 10%
số thành viên ban biên tập tạp chí chủ chốt của ngành “Cơ học” là có
công bố quốc tế, và không thành viên nào của Hội đồng Chức danh GS ngành
Cơ học (đồng thời cũng là Hội đồng ngành NCCB) có được công bố quốc tế
5-10 năm gần đây nhất. Trong khi đó Bộ GD&ĐT đang yêu cầu từ luận án TS
phải có bài báo quốc tế để hướng tới hội nhập !
GS Hòang Tụy có cho một ví dụ về “chuẩn mực chức danh” của chúng ta: một
giảng viên đại học ở Nha trang có được hàng chục bài báo quốc tế (đồng
tác giả với các nhà khoa học quốc tế), nhưng vẫn không đủ điểm công
trình để đạt chức danh PGS, vì ở ta bài báo quốc tế vẫn bị tính ngang
với bài báo trong nước và báo cáo hội nghị, bất chấp thực tế là nhiều
PGS và thậm chí cả GS của chúng ta không có nổi một bài báo quốc tế! GS
Nguyễn Văn Tuấn cho biết, không chỉ ở các nền khoa học tiên tiến, mà
ngay ở các hàng xóm của chúng ta như Thái lan, người ta cũng khuyến
khích, thậm chí yêu cầu mỗi GS, từ một tới hai năm phải công bố tối
thiểu 1 bài báo trên tạp chí quốc tế; Đại học Mahidon ở Thái lan thậm
chí đã đòi hỏi luận văn ThS cũng phải có bài báo đăng tạp chí chuẩn mực
có phản biện kín.
Các đồng nghiệp Viện Vật lý nói nhiều tới trường hợp của anh Nguyễn Bá
Ân, một trong số ít chuyên gia có số công bố quốc tế nhiều nhất ở VN -
vượt xa số điểm công trình quy định, nhưng vẫn không được phong GS, do
“chưa đủ điểm viết sách”. Sách “xào xáo” ở VN có đầy, nhưng những nhà
khoa học giỏi biết tự trọng sẽ không cố viết sách nếu họ không đủ hứng
và tâm huyết để viết được quyển sách xứng tầm với các kết quả nghiên cứu
của họ. Nhiều GS quốc tế rất giỏi qua các công bố bài báo quốc tế cũng
không viết sách giáo khoa hay chuyên khảo. Các đồng nghiệp quốc tế đã
rất ngạc nhiên khi biết một nhà khoa học có uy tín quốc tế như anh Ân
không đạt tiêu chuẩn GS ở VN. Trong khi đó một đồng nghiệp của tôi đã
lúng túng khi một GS Pháp sang giúp VN đã nhằm thẳng vào một GS đối tác
của chúng ta và hỏi cậu ấy “Ông ấy nói nhiều nhưng thực sự mạnh nhất về
cái gì ? tôi đã cố tìm tên ông ấy trên các website khoa học nhưng không
thấy…”
Nói đến cái “tiêu chuẩn sách” này cũng như yếu tố “thâm niên”, tôi lại
nhớ đến một bài viết cách đây không lâu trên tạp chí Science nổi tiếng
của Mỹ. Họ kể về trường hợp một TS trẻ tài năng của Trung quốc nhận được
học bổng nghiên cứu danh giá Humboldt 2 năm ở Đức, rồi thêm 18 tháng
nghiên cứu ở Nhật, trở về nước ở tuổi ngòai 30 nhưng với thành tích công
bố quốc tế mạnh ngay lập tức đã được nhận chức danh GS ở một Viện Vật lý
thuộc Viện HLKH TQ, theo chương trình trải thảm đỏ mời về nước các nhân
tài trẻ của họ. Tuy nhiên qua 3 năm thử thách, một Hội đồng chuyên gia
đã bỏ phiếu với đa số thông qua chấm dứt hợp đồng với anh này vì qua 3
năm đó anh ta không có được một bài báo quốc tế nào, dù có được 2 bài
báo đăng tạp chí TQ và viết được một quyển sách. Sau đó anh ấy cũng xin
được một vị trí khiêm tốn hơn là GS Đại học sư phạm Bắc kinh.
Trong nhiều trường hợp, các bằng cấp, chức danh hình thức của chúng ta
không phản ánh đúng thực lực chuyên môn. Theo gương và tư vấn quốc tế,
Bộ KH&CN đã thành lập Trung tâm hỗ trợ đánh giá KH&CN để có được danh
mục công trình cụ thể của từng nhà khoa học. Tuy nhiên, như Trung tâm
cho biết, sau cả năm gửi thư mời thì cho đến nay mới chỉ thu được hơn
2000 phiếu đăng ký chuyên gia (bằng 1/10 lực lượng nghiên cứu). Phần lớn
mẫu này là của thạc sĩ, tiến sĩ mới bảo vệ … Cần có chế tài yêu cầu mọi
cán bộ nghiên cứu khoa học đều phải đăng ký, nếu không sẽ không được
phép nhận các đề tài nghiên cứu và tham gia các Hội đồng khoa học.
Chương trình đào tạo bằng ngân sách Nhà nước (gọi tắt là Chương trình
322) sau một số năm thực hiện đã đào tạo được 1.740 cán bộ từ đại học
trở lên ở nhiều nước có nền KH&CN tiên tiến (41,6% tiến sĩ, 34,25% thạc
sĩ, 13,16% thực tập sinh và 10,97% đại học). Thông qua hoạt động của Quỹ
Giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ (VEF), chúng ta cũng đã gửi đi đào tạo được
hơn 100 tiến sĩ và thạc sĩ ở Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng không kém là
trong số cán bộ đó có bao nhiêu đã trở về nước làm việc ? Những người
trở về đã được xử dụng và phát huy năng lực nghiên cứu như thế nào ? Họ
đã công bố được bao nhiêu bài báo quốc tế khi học ở nước ngòai, và công
bố bao nhiêu bài mới khi làm việc ở VN ?
Một khi các “đầu tầu khoa học” không xứng đáng là các đầu tầu thực thụ,
các “bằng cấp và chức danh khoa học” không tương xứng với thực lực, việc
xét phân và đánh giá các đề tài nghiên cứu khoa học bất tuân chuẩn mực
quốc tế, thì dễ hiểu đòan tầu kéo theo là cả một nền khoa học và giáo
dục méo mó và yếu kém – chẳng giống ai.
Kèm theo đây là thống kê của ISI và WIPO về số bài báo công bố quốc tế
các ngành và số sáng chế của VN, trong so sánh với quốc tế:
Số bài báo công bố quốc tế (ISI) các ngành qua 11 năm (1/1997-12/2007)
Lĩnh vực |
VN |
Thái lan |
Mã lai |
Hàn quốc |
TQ |
Y học lâm sàng
Vật lý
Động thực vật học
Toán
Kỹ thuật
Hóa
Nông nghiệp
Địa chất
Môi trường
Khoa học xã hội
Vi sinh
Sinh học & Hóa sinh
Miễn dịch học
Khoa học vật liệu
Dược
Sinh học phân tử
Kinh tế
Khoa học thần kinh
Khoa học máy tính
Tâm lý học
Khoa học không gian
Liên ngành
|
765
709
595
466
327
301
212
185
177
176
159
114
110
98
69
45
35
15
14
|
4 897
681
2 233
156
1 904
2 618
1 023
327
878
563
900
1 144
678
766
709
275
112
167
426
86
63
16
|
1 705
833
1 119
151
1 457
3 195
654
175
640
265
269
599
89
888
276
79
142
46
387
75
|
25 050
32 313
5 798
4 490
26 867
31 644
2 907
2 204
2 730
1 911
4 861
12 148
1 467
20 946
5 619
3 395
1 605
3 464
12 194
792
1 125
107
|
34 430
86 679
17 761
20 468
53 203
127 749
4 382
16 431
10 071
4 277
3 752
20 037
2 006
60 197
7 356
6 081
2 845
4 800
17 355
2 070
4 903
1 708
|
Tổng cộng |
4 667 |
20 672 |
13 059 |
203 637 |
508 561 |
Số bài báo công bố quốc tế (ISI) của VN qua 11 năm
1997 |
1998 |
1999 |
2000 |
2001 |
2002 |
222 |
239 |
248 |
320 |
355 |
355 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
|
496 |
429 |
590 |
603 |
715 |
|
Số bài báo công bố quốc tế của VN có tăng hàng năm, nhưng chủ yếu là nhờ hợp
tác quốc tế (chiếm 80% số bài). Số bài nội lực (hòan tòan tác giả VN) vẫn
chỉ dừng quanh con số 80 bài/năm trong suốt chục năm qua. Số bài nội lực của
VN năm 2006 chỉ là 72 bài – bằng 1/10 số bài nội lực của Thái lan.
Đơn sáng chế PCT của một số nước (Nguồn:
WIPO)
Nước |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
Nhật |
14.063 |
17.414 |
20.264 |
24.869 |
27.033 |
27.731 |
Hàn Quốc |
2,520 |
2,949 |
3.558 |
4.688 |
5.944 |
7.061 |
Trung Quốc |
1.018 |
1.295 |
1.706 |
2.503 |
3.951 |
5.456 |
Singapore |
330 |
282 |
431 |
443 |
476 |
542 |
Malaysia |
18 |
- |
45 |
38 |
60 |
103 |
Philippines |
20 |
21 |
11 |
26 |
23 |
15 |
Thái Lan |
9 |
7 |
12 |
9 |
11 |
5 |
Indonesia |
16 |
2 |
6 |
8 |
8 |
9 |
Việt Nam |
2 |
7 |
2 |
- |
10 |
5 |
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Phạm Đức Chính
|