Những bài cùng tác giả
Đất nước đang trên tiến trình hội nhập và phát triển. Tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế là khá cao và ổn định so với thời kỳ bao cấp trì trệ trước đây.
Có thể thấy đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đang đóng một vai trò ngày càng
quan trọng trong tíến trình công nghiệp hóa đất nước. Tuy nhiên cũng phải
nhận thấy rằng tốc độ phát triển tương đối khá có được trong giai đọan đầu
hội nhập này dựa nhiều vào nguồn vốn đầu tư và công nghệ nhập từ nước ngòai
cộng với việc chúng ta xuất phát từ cái nền quá thấp so với thế giới. Tốc độ
tăng trưởng (một con số) của chúng ta có thật đáng tự hào không, khi ông
hàng xóm khổng lồ TQ với mức phát triển cao hơn đang tăng trưởng ở mức hai
con số, và anh bạn hàng xóm bé nhỏ Cambodia ở mức phát triển thấp hơn chúng
ta cũng tăng trưởng ở mức hai con số ! Khoa học và Kỹ thuật của VN đã và cần được chuẩn bị thế nào để đáp ứng đòi
hỏi ngày càng cao về nội lực cho sức cạnh tranh của nền kinh tế trên tiến
trình hội nhập ? Bài viết này được trình bầy theo 4 phần: 1.KHVN đang ở đâu
2.KHVN có cần các chuẩn mực khách quan và công bố quốc tế ? 3.Con đường gập gềnh của KHVN
4.KHVN cần được tháo khỏi các trở ngại để hội nhập và phát triển
1.KHVN đang ở đâu
Dư luận thời gian qua bàn luận nhiều về những yếu kém của Khoa học và Giáo
dục nước nhà. Báo cáo của Nhóm chuyên gia ĐH Harvard viết đầu năm 2008, dựa trên thống kê
số bài báo và số bằng sáng chế đăng ký quốc tế của VN trong so sánh với quốc
tế, cụ thể là với các nước láng giềng của chúng ta, đã nhận định: “Sử dụng
mọi thước đo khách quan, dường như nền KH&CN của VN là một thất bại”. Một số người ở ta lập luận có lý rằng số bài báo và sáng chế quốc tế chỉ
phản ánh một phần các họat động KH&CN đa dạng của chúng ta, nhưng bản thân
Bộ KH&CN cũng lúng túng không đưa ra được các công nghệ hay sản phẩm mới
đáng giá để khoe. Phải chăng thành tựu KH&CN chính của chúng ta chỉ là ở khả
năng tiếp nhận, hỗ trợ và sử dụng được công nghệ (không phải là tiên tiến
nhất) được chuyển giao từ nước ngòai để giúp vận hành và phát triển kinh tế
? Cambodia cũng làm được điều đó để giúp đạt được mức tăng trưởng 2 con số
mà chúng ta chưa bao giờ đạt được ! Đó mới chỉ là một nền KH&CN phục vụ cho
một nền kinh tế gia công, chứ chưa phải cho một nền kinh tế có nội lực sáng
tạo và sức cạnh tranh. Nếu chúng ta không quyết tâm và biết cách xây dựng
lực lượng, sức tăng trưởng của chúng ta không những sẽ không tăng mà sẽ chậm
dần lại trong tương lai gần, và chúng ta sẽ mãi không thóat khỏi cái phận đi
sau, và đành an phận với “con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Trên thực tế quốc tế thì tuy số bài báo và sáng chế không phản ánh hết các
họat động KH&CN của một quốc gia nhưng lại phản ánh được trình độ KH&CN và
cả triển vọng vươn lên của nước đó một cách khá chính xác. Thống kê của Viện thông tin khoa học (ISI) về các công bố quốc tế các ngành
của VN và một số nước 11 năm qua (1/1997-12/2007) cho:
Lĩnh vực |
VN |
Thái lan |
Mã lai |
Hàn quốc |
TQ |
Y học
lâm sàng
Vật lý
Động
thực vật học
Toán
Kỹ thuật
Hóa
Nông
nghiệp
Địa chất
Môi
trường
Khoa học
xã hội
Vi sinh
Sinh học
& Hóa sinh
Miễn
dịch học
Khoa học
vật liệu
Dược
Sinh học
phân tử
Kinh tế
Khoa học
thần kinh
Khoa học
máy tính
Tâm lý
học
Khoa học
không gian
Liên
ngành |
765
709
595
466
327
301
212
185
177
176
159
114
110
98
69
45
35
15
14 |
4 897
681
2 233
156
1 904
2 618
1 023
327
878
563
900
1 144
678
766
709
275
112
167
426
86
63
16 |
1 705
833
1 119
151
1 457
3 195
654
175
640
265
269
599
89
888
276
79
142
46
387
75
|
25 050
32 313
5 798
4 490
26 867
31 644
2 907
2 204
2 730
1 911
4 861
12 148
1 467
20 946
5 619
3 395
1 605
3 464
12 194
792
1 125
107 |
34 430
86 679
17 761
20 468
53 203
127 749
4 382
16 431
10 071
4 277
3 752
20 037
2 006
60 197
7 356
6 081
2 845
4 800
17 355
2 070
4 903
1 708 |
Tổng cộng |
4 667 |
20 672 |
13 059 |
203 637 |
508 561 |
Tỷ lệ số bài nội lực năm
2007 |
20% |
47% |
53% |
75% |
78% |
Từ các con số này có thể thấy rằng các công bố quốc tế đến đều từ tất cả các
lĩnh vực, và chủ yếu là từ các lĩnh vực khoa học ứng dụng, chứ không phải là
đặc thù riêng của các lĩnh vực lý thuyết như Tóan hay Vật lý - như ngụy biện
của một số người ở ta. Các công bố quốc tế của Việt nam là rất yếu, chỉ cỡ 1/3 con số tương ứng của
Mã lai (trong khi số dân nước ta lớn hơn 3 lần số dân Mã lai), 1/5 số bài
của Thái lan, dưới 1/11 của quốc đảo Singapore, 1/45 của Hàn quốc, 1/110 của
Trung quốc (số dân VN bằng 1/16 TQ), và 1/700 của Mỹ. Xét riêng về công bố quốc tế từ nội lực (tự ta làm được) – sự tụt hậu của
chúng ta lại càng lớn hơn. Cụ thể, gần nửa số bài của Thái lan là do nội
lực, trong khi tỷ lệ nội lực của chúng ta chỉ là 20%, còn lại là do hợp tác
với quốc tế. Điều đó cho thấy các nhà khoa học của chúng ta vẫn còn phải dựa
nhiều vào hỗ trợ quốc tế (về chuyên môn, phương tiện, hoặc tài chính). Những kết quả nghèo nàn đó có được, dù cho nhà nước luôn coi KH&KT là then
chốt, giành cho 2% vốn ngân sách, nay đã vượt 400 triệu USD/năm. Hai ngành được chúng ta coi là ưu tiên là Khoa học máy tính và Khoa học vật
liệu lại có số công bố yếu hơn các ngành khác, trong đối chiếu với quốc tế !
Ngành Khoa học máy tính tuy được phát triển mạnh theo chiều rộng, song có
thể thấy rằng tầm mức của chiều sâu năng lực vẫn còn hạn chế: hẳn do quá yếu
so với quốc tế nên chưa được đưa riêng trong bảng thống kê. Những giải
thưởng tin học như “Trí tuệ VN”, thực tế mới chỉ tôn vinh thợ tin học, chứ
chưa phải các nghiên cứu chuyên sâu giúp tạo sức bật thực sự. Ngành Khoa học
vật liệu của VN năm ngóai vẫn còn chưa được đưa riêng vào bảng thống kê, và
tuy năm nay đã được đưa vào nhưng với một con số khiêm tốn (số bài báo nói
chung của chúng ta ít hơn Thái lan và Mã lai tương ứng là 5 và 3 lần, nhưng
trên lĩnh vực Khoa học vật liệu thì lại thua họ tới 8 và 9 lần). Hai ngành duy nhất của chúng ta so sánh được so với Thái lan và Mã lai là
Tóan và Vật lý, do các ngành này tập hợp được nhiều anh tài trong quá khứ,
có truyền thống và văn hóa làm khoa học hội nhập hơn. Tuy nhiên sự đóng góp
và sức phát trỉển của hai ngành này cũng bị hạn chế nếu không có những đòi
hỏi chuyên môn từ các ngành khác trong thế cùng tiến và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và sản xuất. Các nhà tóan và vật lý học
với vị thế của mình cần thể hiện tốt hơn các họat động xã hội đa dạng giúp
KH&CN VN phát triển đồng đều vì lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng
của chính họ. Thúc đẩy công bố quốc tế trên các lĩnh vực khoa học ứng dụng
phải là một ưu tiên của chúng ta. Lần đầu tiên Viện KH&CN VN đã bắt đầu nhận thức được ván dề và tiến hành
thống kê số bài báo khoa học và sáng chế của các nhà nghiên cứu của mình,
cho các năm 2004-2008 (với số biên chế gần 2300 cán bộ), với kết quả bình
quân cỡ 150 bài ISI/năm. Xếp hạng theo tỷ lệ (số bài báo ISI [SCI & SCIE]/số
biên chế) thời gian 4.5 năm của 29 Viện thành viên, thì 10 Viện đứng đầu có
thứ tự là là 1.Viện Tóan (1.68), 2.Vật lý (1.05), 3.Sinh học Tây nguyên
(0.83), 4.Hóa học (0.54), 5.Vật lý TP HCM (0.51), 6.Hóa học các HCTN (0.50),
7.Khoa học Vật liệu (0.45), 8.Sinh thái TN sinh vật (0.30), 9.Công nghệ sinh
học (0.28), 10.Kỹ thuật nhiệt đới (0.26). Viện Cơ học đứng thứ 11 (0.24),
Viện công nghệ thông tin thứ 16 (0.16)... Có 3 Viện không có bài ISI nào, và
có 5 Viện chỉ có vẻn vẹn 1 hoặc 2 bài. Đồng thời gian trên, ĐHQG TPHCM (với biên chế gần 3500 người, trong đó có
khỏang 2200 giảng viên) cũng tiến hành thống kê số bài báo khoa học của mình
trong các năm 2006-2008, với kết quả cỡ 80 bài ISI/năm. ¼ số bài ISI của
ĐHQG TPHCM là công bố nội lực (hòan tòan tác giả VN). Hy vọng thời gian tới các cơ quan khoa học khác trong nước sẽ noi gương,
tiến hành thống kê các công trình khoa học theo chuẩn quốc tế để đánh giá
đúng năng lực nghiên cứu và đổi mới chính sách khoa học của mình. Có ý kiến cho rằng trình độ KH&CN của VN có yếu cũng là tương ứng với trình
độ phát triển của nền kinh tế. Nếu ta chia số bài báo và GDP của các nước
theo đầu người, thì đúng là có một sự tương ứng tương đối như vậy. Tuy nhiên
một số nước (như các nước Đông Á) lại có chỉ số bài báo mạnh hơn chỉ số kinh
tế tương ứng (so sánh giữa TQ và Thái lan chẳng hạn, TQ có [chỉ số bài
báo]/[chỉ số GDP] cùng tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn), và điều đó
giúp họ có được tiềm năng nội lực và tốc độ tăng trưởng vượt trội so với các
nước khác. Báo cáo Harvard đã đặc biệt nhấn mạnh thành công kinh tế của các
nước Đông Á (kể cả Singapore) nhờ có nền Khoa học và Giáo dục đi trước một
bước, tương phản với khối Đông Nam Á tương đối trì trệ. Một ví dụ là tỷ lệ
số KS trên đầu người của họ có những thời điểm nhiều gấp 2.5 lần con số
tương ứng ở các nước có trình độ phát triển kinh tế tương đương. Chúng ta có
cơ sở để tin vào chất lượng thực của các KS đó khi nhìn vào số bài báo mà
nền khoa học của họ đóng góp. Trái ngược lại, dù chúng ta có số GS và TS (đồ
hàng mã ?) vượt trội so với các nước bạn Đông Nam Á, thì trình độ Kinh tế -
Khoa học của chúng ta vẫn cứ là rất đuối so với họ. So sánh tỷ lệ chỉ số bài
báo (phản ánh thực lực chính xác hơn số GS, TS) và chỉ số kinh tế thì chúng
ta thua kém ngay cả so với các nước Đông Nam Á như Thái lan và Mã lai, chứ
chưa nói tới khối Đông Á mà chúng ta có nền văn hóa tương đồng và muốn phấn
đấu noi theo. Đó là một thực tế rất đáng lo ngại. Tất nhiên với mỗi chỉ số
để so sánh chúng ta đều có thể tìm ra có những nước khác ở Đông Nam Á hay
Châu Phi còn kém hơn chúng ta, rằng chúng ta chưa phải là bét, nhưng đó
không phải là tư duy của người cầu tiến. Thế giới đều biết đến năng lực nghiên cứu và thành tích công bố quốc tế của
các nhà khoa học Ấn độ. Chúng ta cũng đang mong ước xây dựng được một nền
công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và hiệu quả như họ. Vậy mà Bộ trưởng
phụ trách KH&CN của Ấn độ trong một phát biểu – được GS Phạm Duy Hiển trích
dẫn trong một bài viểt gần đây – đã phê bình mạnh mẽ các nhà khoa học Ấn độ
đã để các nhà khoa học TQ vượt khá xa về số công bố quốc tế. Chúng ta chưa
từng được nghe một lời tự phê bình tương tự từ các nhà lãnh đạo và quản lý
của chúng ta, mặc dù thực trạng yếu kém của KH&CN VN có lẽ ai cũng cảm nhận
được, và ngày càng rõ. Không chỉ đợt tới những con số, chỉ số khách quan mà dư luận trong nước và
quốc tế đề cập tới thời gian gần đây, những người trong cuộc chúng ta đều
biết trực tiếp hay được nghe nhiều về công tác quản lý bất cập, những đầu tư
KH&CN dàn trải, cho các địa phương, phòng thí nghiệm trọng điểm … không hiệu
quả, các đề tài khoa học (kể từ đề tài trọng điểm kinh phí lớn cấp Bộ Ngành,
Nhà nước) thực hiện xong rồi chỉ để xếp ngăn kéo, không sử dụng được và
không được kiểm tra nghiêm túc (thậm chí tên nhiều đề tài nghe cũng không
xuôi), làm giả ăn thật tràn lan, đạo văn, bằng cấp và chức danh rởm phổ
biến, các họat động đặc quyền đặc lợi không được kiểm sóat với sự ngự trị
của một số cá nhân và nhóm gọi là học phiệt đứng trên mọi chuẩn mực khách
quan, các cơ quan khoa học được bao cấp biên chế phình to nhưng hiệu quả
thấp (người ta vẫn nói trong các Viện nghiên cứu chỉ 30% là có làm việc),
chảy máu chất xám, tác động yếu tới nền Giáo dục và Đào tạo của nước nhà … Cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, các con số thống kê quốc tế, dù có thể
chưa bao quát hết, đã phản ánh khá chính xác vị thế của chúng ta. 2.KHVN có cần các chuẩn mực khách quan và công bố quốc tế ? Ở VN bài báo khoa học luôn được gắn (không hòan tòan chính xác) với Nghiên
cứu cơ bản (NCCB). Có ý kiến cho rằng NCCB với mục tiêu chỉ là các bài báo
đăng trên các tạp chí khoa học với kết quả mang tính chung chung không mang
lại nhiều lợi ích cho một nước đang phát triển như VN. Đó là một cách nghĩ
thiển cận. Chỉ có NCCB (chứ không chỉ biết học thuộc sách) chúng ta mới hiểu
thấu và cập nhập được trí thức nhân lọai tạo cơ sở cho các họat động ứng
dụng triển khai. Chỉ có các giảng viên nghiên cứu, chứ không phải các thợ
giảng thuần túy, mới đào tạo được các sinh viên có năng lực sáng tạo biết
học và “hành”. Việc công bố bài báo quốc tế (từ cả NCCB và nghiên cứu ứng
dụng) không chỉ có sức kích thích khả năng sáng tạo của nhà khoa học, mà còn
buộc nhà khoa học phải thường xuyên học và cập nhập thông tin trong lĩnh vực
của mình, chịu sự kiểm sóat và phản biện khách quan về công việc đang làm.
Đó cũng là cách chúng ta học hỏi thêm được không mất tiền từ ý kiến phản
biện của các chuyên gia quốc tế chuyên ngành giỏi. Còn “đóng góp cho khoa
học thế giới” và “xây dựng uy tín cho KHVN” với chúng ta ở giai đọan hiện
nay chỉ là chuyện đứng hàng thứ hai sau các lợi ích đã nói. Không phải là
viển vông khi các quốc gia từ Hàn quốc, TQ, Pakítan, Ấn độ, tới Đông Nam Á
đều thúc đẩy, khuyến khích, và thậm chí thưởng thêm tiền mặt cho các bài báo
công bố quốc tế. Ngay cả các ĐH Đông Nam Á cũng khuyến nghị mỗi GS của họ
một đến hai năm phải có tối thiểu một bài báo công bố quốc tế. Các luận án
TS từ Hàn quốc, TQ tới Philippine đều đòi hỏi phải có bài báo quốc tế ISI.
Thậm chí ĐH Mahidon của Thái lan yêu cầu luận văn ThS cũng phải có bài báo
đăng ở tạp chí có phản biện kín. Phát biểu: “VN không thể bắt kịp thế giới trong NCCB, bởi vậy cần đuổi theo
thế giới trong nghiên cứu áp dụng và công nghệ” là ngược với luận điểm mà
chúng ta đã từng được nghe “có thể bắt kịp trình độ NCCB của các nước tiên
tiến trong vài chục năm, nhưng phải mất hàng trăm năm mới có thể đuổi kịp
trình độ công nghệ của họ”. Đơn giản vì kiến thức cơ bản là công khai, còn
kiến thức công nghệ là bí mật, và công nghệ chỉ có thể được xây dựng cùng
với một nền công nghiệp phát triển tòan diện với nguồn nhân lực chất lượng
cao dồi dào và nền tảng kiến thức cơ bản vững chắc. Với tu duy chộp giật và
ăn sối mà không có cái nền chúng ta không thể đi được xa. Nhận xét “NCCB ở VN chỉ làm lãng phí vô ích tiền thuế của nhân dân, và
nghiên cứu áp dụng phải được ưu tiên trong chính sách của nhà nước” là phiến
diện và không mới. Ở đâu đó trên thế giới có những tranh cãi về vốn đầu tư
giữa NCCB và nghiên cứu ứng dụng (NCƯD), nhưng ở VN chúng ta không hề có
những đầu tư đắt tiền cho NCCB khai phá kiểu như máy gia tốc hạt, lò phản
ứng nhiệt hạch Plasma, hay xây dựng bản đồ gien người,… Kinh phí cho NCCB
cho KHTN&KT năm 2005 là 45 tỷ đồng, tức là chưa tới 3 triệu USD, trong khi
đó tổng kinh phí đầu tư cho KH&CN của chúng ta đã vượt 400 triệu USD/năm –
một tỷ lệ dành cho NCCB là rất thấp so với thế giới. Ở VN NCƯD và triển khai
luôn được ưu tiên và chiếm phần lớn số vốn đầu tư. Tại Viện Cơ học – một cơ
sở không liên quan trực tiếp tới sản xuất, tổng kinh phí các đề tài NCƯD lớn
hơn nhiều lần NCCB, thậm chí kinh phí của chỉ riêng một đề tài NCƯD “cấp nhà
nước” do một chức sắc đã phải về hưu được chủ trì đã vượt tổng kinh phí của
tất cả hai chuc để tài NCCB trong Viện cộng lại. Vấn đề của chúng ta ở đây
không phải là đã dành đủ ưu tiên cho NCƯD hay chưa, mà là việc kiểm tra tính
thật giả và đảm bảo tính nghiêm túc của các đề tài cả NCCB và NCƯD như thế
nào. Lời khuyên chung chung rằng chúng ta cần có hai ba chuyên gia phản biện độc
lập cho mỗi đề tài và có Hội đồng đánh giá… là thừa vì lâu nay người ta đã
thực hiện đúng như vậy. Vấn đề là việc xét phân các đề tài (và cả các chức
danh) bất tuân các chuẩn mực quốc tế, và hòan tòan phụ thuộc vào ý kiến chủ
quan của các Hội đồng và các chuyên gia đánh giá, gọi là các nhà khoa học
đầu ngành, nhưng thực chất chỉ là các chức sắc thâm niên đặc quyền đặc lợi
vốn đã không được lựa chọn trên cơ sở chuẩn mực khách quan theo như quốc tế. Ngụy biện rằng NCƯD không cần phải có công bố quốc tế đã bị phê phán mạnh
trên diễn đàn của Báo Tia Sáng. Mặc dù mục tiêu của NCƯD là giải quyết những
vấn đề cụ thể của thực tiễn, trong quá trình thực hiện, nếu làm nghiêm túc,
luôn có những kết quả nghiên cứu có thể công bố được. Có rất nhiều tạp chí
khoa học quốc tế trên các lĩnh vực ứng dụng, thậm chí còn nhiều áp đảo so
với các tạp chí có thiên hướng lý thuyết, và tạp chí quốc tế cũng có nhiều
mức khác nhau về đòi hỏi chất lượng. Công bố quốc tế sẽ giúp có cơ sở khách
quan để đánh giá chất lượng và tính nghiêm túc của đề tài - đó chính là cái
mà chúng ta đang thiếu. Nhiều họat động nghiên cứu ứng dụng, triển khai được nhà nước bao cấp kinh
phí thường không đưa đến ngay được các hiệu quả thực tế và sản phẩm mới có
sức cạnh tranh trên thương trường, mà đây cũng thường là những đầu tư lớn.
Chính bởi vậy cần có những kiểm sóat nghiêm ngặt về bài báo công bố quốc tế,
bắng sáng chế, quy trình và sản phảm mẫu mới – trước tiên là phải có hàm
lượng khoa học theo các thước đo khách quan. Các chuyên gia đánh giá phải là
các nhà khoa học có thành tích tốt nhất theo các chuẩn mực khách quan quốc
tế và những người đã đưa ra được các sản phẩm mới thành công trên thị
trường, chứ không phải các chức sắc thâm niên với đủ các danh vị hình thức
như phổ biến hiện nay. Không tuân thủ những nguyên tắc khách quan này, chúng
ta sẽ không chống được tệ quan liêu và làm giả ăn thật phổ biến hiện nay, để
xây dựng một môi trường lành mạnh cho KH&CN. 3.
Con đường gập gềnh của KHVN
Để hiểu được các đặc thù riêng của KHVN, chúng ta cần đi ngược lại thời gian
từ mấy chục năm trước. Từ thời gian chiến tranh và xây dựng CNXH ở miền Bắc, được tiếp nối bởi giai
đoạn đầu xây dựng đất nước sau thống nhất, mỗi năm chúng ta chọn (chủ yếu
qua thi tuyển) hàng ngàn học sinh đi du học ở các nước Đông Âu. Nhìn chung
các lưu học sinh đã được lựa chọn của chúng ta học tốt, và khi tốt nghiệp
trình độ cũng không kém mức chung của bạn. Những KS, BS thực hành này, khi
trở về nước, đã tạo thành lực lượng khoa học kỹ thuật nòng cốt cho công cuộc
bảo vệ, xây dựng và công nghiệp hóa đất nước. Chúng ta cũng chú trọng xây dựng lực lượng khoa học cao cấp qua con số các
TS và TSKH đã được đào tạo ở các nước Đông Âu. Lực lượng này được kỳ vọng có
khả năng thực hiện những nghiên cứu khoa học trình độ cao và là đầu tầu cho
khoa học và tiến trình hiện đại hóa nước nhà.Tuy nhiên khi đánh giá tiềm lực
khoa học công nghệ của mình qua con số các TS và TSKH này, chúng ta đã có
không ít ngộ nhận. Để bảo vệ luận án TS (PTS cũ) ở LX, NCS phải có kết quả nghiên cứu, thường
tối thiểu là 2 bài báo đăng trên các tạp chí khoa học có phản biện nghiêm
chỉnh của bạn. Bên cạnh những TS đạt chuẩn, một số TS của ta trình độ còn
non, phải dựa nhiều vào thầy, và do áp lực của trình độ và thời gian, đã
được các nước bạn chiếu cố. Ở mức cao hơn, nhiều TSKH (TS cũ) của chúng ta chưa đạt được tới trình độ
chuẩn mực tương ứng của nước bạn. TSKH của LX phải có được những bài báo
khoa học mạnh, đứng tác giả độc lập, và thường phải có tới vài chục bài báo
đăng các tạp chí khoa học có uy tín. Trong khi đó số bài báo đăng tạp chí có
uy tín của số đông các TSKH của chúng ta chỉ đếm trên đầu ngón tay, và phần
nhiều vẫn phải dựa vào thầy. Nhiều TSKH trở về nước, tách khỏi thầy, đã
không viết nổi một bài báo riêng đăng tạp chí quốc tế chuẩn mực – thể hiện
rõ cái tầm chưa tới của họ. Đáng buồn hơn, vào giai đoạn nhộm nhoạm ở Đông
Âu những năm 90, một số nhà khoa học của ta đã kiếm được bằng TSKH dù họ có
rất ít, thậm chí không có nổi lấy một bài báo đăng tạp chí khoa học quốc tế
nghiêm chỉnh (có thể nói, chỉ ở mức, hoặc thua cả cái chuẩn PTS của thời LX
ổn định). Trên trường quốc tế, bảo vệ luận án TS chỉ là bước đầu tiên trên con đường
sự nghiệp của một nhà khoa học chuyên nghiệp. Tiến hành nghiên cứu khoa học
nghĩa là họ phải có được các bài báo khoa học được phản biện độc lập để được
đăng trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành có uy tín, hay bằng sáng chế, dù
nhà khoa học làm việc ở Đại học hay Viện nghiên cứu, trên lĩnh vực lý
thuyết, thực nghiệm, hay ứng dụng. Công bố khoa học buộc nhà khoa học phải
thường xuyên cập nhập thông tin để duy trì và nâng cao trình độ, chịu sự
giám sát khách quan, lao động sáng tạo đóng góp cho tiến bộ của khoa học
công nghệ. “Publish or Perish” (Công bố hay Lụi tàn) là thực tế mà mỗi nhà
khoa học chuyên nghiệp phải đối mặt. Trong khi đó nhiều TS, TSKH của chúng ta trở về nước, phần vì trình độ còn
non, phần vì hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh và thời kỳ bao cấp trì trệ
kéo dài, đã chỉ duy trì được những hoạt động khoa học tầm thấp (trừ một số
nhỏ các nhà khoa học), công bố trên những tạp chí quốc nội được lập ra kém
xa chuẩn mực quốc tế. Đứng trên quan diểm quốc tế, họ đã không còn giữ được
trình độ của mình tương xứng với bằng cấp quốc tế có được và đã tàn lụi về
mặt chuyên môn. Thế nhưng, một số người trong số họ may mắn có được các bằng
cấp cao sớm nhất và có thiên hướng họat động quản lý hành chính đã nắm những
vị trí được gọi là “đầu ngành” và ngự trị cho tận tới khi đã về hưu, và thậm
chí cả chọn người kế tục, trong hệ thống chức sắc khoa học cứng nhắc (thiếu
cạnh tranh về chuyên môn) của chúng ta. Họ giữ quyền phân chia và chủ trì
các đề tài nghiên cứu với nhiều bổng lộc, cho ra lò nhiều TS nội dưới xa
chuẩn mực quốc tế. Họ cũng xây dựng nên các chức danh và chuẩn mực cho khoa
học nước nhà, nặng về hình thức và xa rời các tiêu chuẩn quốc tế. Một số
chức trách khoa học của ta được mời vào một số Viện HLKH hay đứng chung tên
giải thưởng với các đàn anh quốc tế, như một cử chỉ hữu nghị hay mang tính
đại diện cho VN. Điều đó dẫn tới hiểu nhầm là một số lãnh đạo khoa học của
chúng ta đã đạt tới trình độ đỉnh cao quốc tế, tới hàng Viện Sĩ. Các công việc cụ thể của các KS,BS thực hành dễ được nhận thấy hơn với mọi
người dân bình thường. Còn các công trình nghiên cứu khoa học trình độ cao
theo chuẩn mực quốc tế, các bằng sang chế và sản phẩm mới của các GS, PGS,
TS, TSKH, VS, các nhà khoa học “đầu ngành” của chúng ta là gì, ở ta thường
tránh đề cập tới. Nhưng với quốc tế thì đó lại là tiêu chí thông thường để
họ đánh giá trình độ chuyên môn thực của các nhà khoa học, chứ không phải là
các hình thức danh đã nêu. Mấu chốt sự yếu kém của KHVN chính là từ các “chức sắc KH đầu ngành” tham
quyền cố vị đặc quyền đặc lợi nhưng yếu về năng lực chuyên môn (theo chuẩn
mực khách quan quốc tế), chứ không phải là vấn đề đầu tư của nhà nước cho
KH&CN chưa thỏa đáng. Một số do năng lực khoa học vẫn còn non (dù đã có bằng
cấp hình thức cao TSKH) khi được đặt lên vị trí lãnh đạo, số khác có năng
lực nhưng cũng thoái hóa dần theo thời gian do bận rộn với chức quyền và
không chịu sức ép về chuyên môn. Tư duy phong kiến “học hành đỗ đạt cao để
ra làm quan hưởng vinh hoa phú quý” đã góp phần tạo nên nhân cách của họ. Tư
tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ” đã thúc bách họ nhận vào các cơ
quan khoa học những người thân quen yếu năng lực chuyên môn để hưởng biên
chế bao cấp nhà nước, trao cho họ và giữ cho bản thân những xuất đi nước
ngoài béo bở được bao cấp nhà nước hay viện trợ. Điều đó góp phần đẫn tới
chảy máu chất xám ồ ạt, cùng sự tụt dốc về chất lượng của các cơ quan khoa
học với gánh nặng biên chế phình to dồn cho nhà nước. Viện KH&CN VN khi mới
thành lập cuối những năm 70 đầu 80 ưu tiên nhận chủ yếu là các cán bộ trẻ
giỏi đượcđào tạo từ nước ngoài, nhưng nay như ở Viện Cơ học – số người có
khả năng nghiên cứu công bố quốc tế chỉ đếm được trên đầu ngón tay và không
có những người trẻ có năng lực. Viện hiện nay không hấp dẫn và cũng không hề
có chính sách hấp dẫn cuốn hút các nhà khoa học trẻ giỏi – có thể nhìn thấy
trước một cái đích chết cho một cơ quan nghiên cứu khoa học nếu không có
những thay đổi căn bản trong thời gian tới. Luận điểm NCƯD không cần phải có công bố quốc tế cũng chính là do một số
chức sắc đầu ngành dựng lên để biện minh cho các đề tài kinh phí lớn nhưng
kết quả nghèo nàn của họ (mặc dù họ đã được học ở Tây và biết điều đó là giả
dối). Những đề tài gọi là ứng dụng kinh phí lớn này thường được coi là các
vụ đánh quả của các chức sắc và những kẻ khéo chạy, và giới khoa học cũng
chẳng mấy ai kính trọng gì các đề tài lớn cũng như chủ trì các đề tài này,
trong khi một số nhà khoa học làm việc nghiêm túc thì rất khó khăn để có
được đề tài và kinh phí nghiên cứu. Người ta còn đánh quả cả với các dự án
được quốc tế tài trợ nếu không có được sự tham gia trực tiếp của các nhà
khoa học quốc tế thực sự có năng lực. Một GS có thế lực ngành Cơ học chủ trì
nhiều đề tài kinh phí lớn tính tóan sông hồ, nhưng không cho ra nổi một kết
quả nghiêm túc là bài báo công bố quốc tế, trong khi một TS cùng chuyên môn,
với số kinh phí ít ỏi hơn nhiều, đưa được các tính tóan của mình về bồi lắng
bùn cát trên sông Hồng ở cửa Ba lạt công bố tạp chí quốc tế. Khó khăn thì ai
cũng nói được. Một nhóm nhà thiên văn ở ĐHQG HN đã biết dùng những thiết bị
quá hạn sử dụng (thải) chỉ để hướng dẫn sinh viên, đo được các thông lượng
Muon ở Hà nội và cho ra kết quả in trên tạp chí quốc tế có uy tín. Trong khi
nhiều phòng thí nghiệm trọng điểm được đầu tư hàng triệu USD vẫn không đưa
ra nội một kết quả nghiêm túc là bài báo công bố quốc tế. Các chức sắc xét
phân cho nhau và những kẻ khéo chạy những đề tài kinh phí lớn, tung hô nhau
là giỏi, xuất sắc và lấy tiền nhà nước thưởng cho nhau, không dựa trên bất
kỳ tiêu chuẩn quốc tế khách quan nào. Chính những tập quán làm ăn xấu này
của một số nhà khoa học đã tạo cơ sở cho một số nhà quản lý tiêu cực tham
gia tiếp tay, ăn chia, và gây khó dễ cho những người làm thật. Thậm chí một Chủ tịch Hội đồng NCCB ngành còn đi xa hơn với luận điểm “NCCB
làm cơ sở cho NCƯD không cần phải có công bố quốc tế” để biện minh cho sự
tham lam của ông vừa đồng thời nhận các đề tài NCCB và NCUD đều ở mức kinh
phí lớn (nhưng làm kém) và sự phân phát tùy tiện các đề tài theo ý riêng của
mình. Thậm chí một GS đầu ngành có tiếng từng có thành tích công bố quốc tế
trong quá khứ nhưng nhiều năm nay không còn công bố được nữa, nhưng vẫn muốn
nắm giữ quyền phân phát đề tài NCCB, đã phản đối đề xuất mới của Bộ KH&CN
yêu cầu NCCB phải có công bố quốc tế. Cái cá nhân của họ đã đè bẹp đạo đức
khoa học. Họ đang có đặc quyền và hưởng lợi từ cái cơ chế cũ lạc hậu nên đã
phản ứng khi Bộ KH&CN bàn thảo tới cải cách, rằng “NCCB của chúng ta thời
gian qua đã rất tốt phục vụ cho nghiên cứu ứng dụng, đâu cứ phải vì mấy bài
báo của ai đó mà phải sửa đổi chính sách, ... đâu cứ phải công bố ở đâu, ở
đâu đó mới là khoa học,… Tạp chí Cơ học của ta nay đã đòi hỏi viết bài bằng
tiếng Anh nên cũng đã đạt tiêu chuẩn quốc tế để được đánh giá ngang như bài
báo quốc tế, ... các bài báo nói cho cùng cũng chỉ là những thảo luận, và
viết sách và giáo trình cho sinh viên chọn ra những cái cốt lõi mới có giá
trị NCCB đích thực…”. Có người không có công bố quốc tế nhưng nghe được
những thông tin mơ hồ ở đâu đó nên cũng mạnh mồm “chỉ cần nộp tiền là đăng
được bài báo quốc tế ... Các bài báo của ta cứ dịch ra tiếng Anh là có thể
đăng quốc tế được...”. Có nhà khoa học có tiếng nhưng từ lâu không còn công
bố quốc tế nữa phát biểu “Chỉ mấy bài báo đầu của nhà khoa học là có giá
trị, còn những bài sau chỉ là lặp lại và chế biến từ những kết quả đầu
tiên...” Những phát biểu đó đều là từ những người đã được học ở Tây, chỉ gây
rối cho các nhà quản lý và lãnh đạo ít hiểu biết chuyên môn, ngụy biên cho
các hành vi đàng ngờ của một số chức sắc đầu ngành, và tạo chỗ bấu víu cho
một số đông suy kém về chuyên môn đã có tư tưởng buông xuôi. Với quốc tế việc phải cạnh tranh để có được đề tài và biên chế ở các cơ quan
khoa học là tiền đề cho tiến bộ khoa học. Nhiều khi khỏang cách thực lực
giữa người được và không được cũng không cách xa nhau. Trong khi đó ở ta,
ngay ở ngành Tóan là ngành có quan điểm khoa học tiến bộ nhất thi việc phân
kinh phí đề tài NCCB vẫn mang nặng tính bình quân chủ nghĩa – ai cũng được
phân một số tiền tưong ứng với bằng cấp chức danh cộng với điểm thêm cho
thành tích công bố bài báo, nhất là bài báo quốc tế. Cách phân dàn trải như
vậy làm yếu hiệu quả vốn đầu tư. Nhiều nơi có chia số tiền nhỉnh hơn cho các
đề tài NCCB có công bố quốc tế, nhưng cũng chia đều đề tài cho cả các cán bộ
thâm niên đã về hưu dù nhiều người thực sự chẳng làm gì cả. Có những nơi còn
có những phân chia bất bình đẳng vô lý. Một nhà Vật lý có thành tích công bố
quốc tế nổi bật đã phải thốt lên “người không làm việc xét người làm việc”.
Tiêu cực nổi bật trong NCCB là ở Ngành Cơ học và Viện Cơ học. Có tới cả hai
chục đề tài NCCB trong Viện Cơ học, trong đó có những đề tài kinh phí gấp
vài ba lần các đề tài khác, nhưng cái vô lý nổi cộm là 80% số công bố quốc
tế chuẩn mực ISI của Viện Cơ học 5 năm qua là thuộc về 3 đề tài bị cấp kinh
phí ít nhất. Điều đó xẩy ra bất kể hướng dẫn mới của Bộ KH&CN từ năm 2005
rằng phải ưu tiên các đề tài có công bố quốc tế (nhưng thiếu chế tài cụ thể
!). Cảc chức sắc Hội đồng NCCB ngành Cơ học – những người nắm quyền xét và
phân kinh phí các đề tài NCCB, đồng thời cũng là những người chủ trì các đề
tài ở các mức kinh phí cao nhất, không có nổi một bài báo quốc tế nào. Tại sao nước Mỹ có nền khoa học phát triển với các chuẩn mực khoa học rất
cao mà vẫn có được các GS ở tuổi 30, thậm chí 20, còn ở ta, trên một mặt
bằng rất thấp, điều đó lại là không tưởng ? Thực chất thì các tiêu chuẩn
chức danh GS, PGS, NCVC, NCVCC ở ta là rất thấp về khoa học nhưng lại rất
nặng nề và cứng nhắc về hình thức, có tác dụng ngăn trở và làm nản lòng
những tài năng trẻ thật sự, nhưng lại tạo bậc thang cho vô số kẻ cơ hội leo
trèo, và giúp duy trì địa vị ngự trị cho những chức sắc thâm niên lạc hậu. Quanh ta đòi hỏi cho luận án TS của TQ là 2 bài váo quốc tế SCI (mức cao
trong ISI), Hàn quốc- 2 bài ISI, và Philippine – 1 bài ISI. Trong khi đó ở
ta, không chỉ tiêu chuẩn TS, mà thậm chí cả tới tiêu chuẩn GS và NCVCC cũng
không đòi hỏi phải có công bố quốc tế, còn người nào có được thành tích công
bó quốc tế thì cũng bị phớt lờ và không được xét ưu tiên, bài báo quốc tế bị
đánh đồng với bài báo trong nước. Hội đồng chức danh GS chống chế rằng nếu
đưa tiêu chuẩn công bố bào báo quốc tế vào thì ở ta có quá ít người đạt
được, trong khi đó họ lại từ chối chức danh cho số nhà khoa học đạt thành
tích công bố quốc tế nổi trội vì những lý do rất thiếu thuyết phục như “chưa
đủ điểm viết sách”, “chưa đủ điểm công trình”, “thiếu thâm niên”, hay “thiếu
học trò bảo vệ TS”... Cái gì thực chất là quan trọng nhất ở đây ? Trong khi
đó một đồng nghiệp của tôi đã lúng túng khi một GS Cơ học Pháp sang giúp VN
đã nhằm thẳng vào vị GS “đầu ngành” – đối tác của chúng ta và hỏi cậu ấy
“Ông ấy nói nhiều nhưng thực sự mạnh về cái gì ? tôi đã cố tìm tên ông ấy
trên các website khoa học nhưng không thấy…” Nói đến cái tiêu chuẩn “sách”, “trò TS”, cũng như yếu tố “thâm niên”, tôi
lại nhớ đến một bài viết cách đây không lâu trên tạp chí Science nổi tiếng
của Mỹ. Họ kể về trường hợp một TS trẻ tài năng của Trung quốc nhận được học
bổng nghiên cứu danh giá Humboldt 2 năm ở Đức, rồi thêm 18 tháng nghiên cứu
ở Nhật, trở về nước ở tuổi ngòai 30 nhưng vớỉ với thành tích công bố quốc tế
mạnh ngay lập tức đã được nhận chức danh GS ở một Viện Vật lý thuộc Viện
HLKH TQ, theo chương trình trải thảm đỏ mời về nước các nhân tài trẻ của họ.
Tuy nhiên qua 3 năm thử thách, một Hội đồng chuyên môn đã bỏ phiếu với đa số
thông qua chấm dứt hợp đồng với anh này vì qua 3 năm đó anh ta không có được
một bài báo quốc tế nào, dù có được 2 bài báo đăng tạp chí TQ và viết được
một quyển sách. Sau đó anh ấy cũng xin được một vị trí khiêm tốn hơn là GS
Đại học sư phạm Bắc kinh ... Chính vì những tiêu chuẩn TS và chức danh mơ hồ và tiêu cực, mà năng lực của
một số nhà khoa học trong nước có thành tích công bố quốc tế cũng không thể
được tận dụng trong công tác đào tạo TS. Các NCS thường né tránh làm việc
chuyên môn thực sự nghiêm túc với các nhà khoa học giỏi để có thể kiếm tấm
bằng hình thức dễ dàng hơn với các chức sắc, và nhờ thế của họ để trục lợi
(ở ta kinh phí đào tạo do Bộ GD&ĐT nắm, và NCS có quyền chọn thầy). Nhà khoa
học có thực lực chuyên môn thì không có được trò TS (vì thế cũng không đạt
tiêu chuẩn GS ở ta !) và kinh phí, trong khi các chức sắc thâm niên thì dư
tiền và sản xuất ra nhiều TS rởm. Với quốc tế thì ngược lại: các nhà khoa
học có thành tích công bố quốc tế hiển nhiên có được các đề tài nghiên cứu
và kinh phí để nhận NCS, còn các NCS phải cạnh tranh để tới được số xuất
giới hạn này, nhất là tới thầy giỏi chuyên môn, để có được kết quả tốt cho
thăng tiến chuyên môn sau này (ở ta đâu có cần tới thực lực chuyên môn để
thăng tiến !). Chúng ta cũng phần nào hiểu được tại sao những nghịch lý như vậy vẫn được
nuôi dưỡng giai giẳng, với chỉ một minh họa: không vị chức sắc nào trong Hội
đồng chức danh GS Ngành Cơ học có được bài báo quốc tế ISI trong 10 năm qua
và xa hơn. Trong số vài chục GS “đầu ngành” ngự trị Tạp chí Cơ học, chỉ có
vài người là có bài báo đăng tạp chí quốc tế. Với những đần tầu kém cỏi và
lạc hậu như vậy, KHVN sẽ bị dẫn đi đâu ? 4.KHVN cần được tháo khỏi các trở ngại để hội nhập và phát triển Các nhà quản lý của chúng ta, với số tiền đầu tư cho KH&CN được tăng mạnh,
đã sốt sắng xây dựng đủ lọai chương trình “Đề tài nghiên cứu trọng điểm”,
“Hướng nghiên cứu ưu tiên”, “Phòng thí nghiệm trọng điểm”, “Công nghệ cao”,
... – những việc làm giống như xây lâu đài trên nền cát một cách vội vã,
trong khi một môi trường làm KH lành mạnh trên cơ sở chuẩn mực khách quan
quốc tế còn chưa được xác lập. Cái nền của chúng ta còn quá yếu. Lực lượng
KH&CN của chúng ta tuy đông nhưng chất lượng theo chuẩn mực quốc tế thì
không đạt yêu cầu. Các phong trào thi đua XHCN và viện trợ từ các nước Đông Âu đã không giúp
vực được nền kinh tế thời bao cấp trì trệ, mà chỉ khi biết tôn trọng các
chuẩn mực của kinh tế thị trường, khóan sản phẩm tới người lao động, chúng
ta mới thực sự cởi trói được cho nền kinh tế, phát huy sức dân để đưa kinh
tế thực sự đi lên. Trong KH&CN cũng vậy, trước hết chúng ta phải cởi trói cho KH khỏi cơ chế
lạc hậu, hướng tới những chuẩn mực khách quan đích thực đã được thiết lập
bởi thực tiễn quốc tế: đó là các bài báo công bố quốc tế, bằng sáng chế, sản
phẩm và quy trình mới đưa được vào SX và đứng được trên thị trường, tạo ra
một môi trường lành mạnh để phát huy tiềm năng các nhà khoa học. Nói như thế
nhưng việc thực hiện sẽ không dễ dàng bởi sự cản trở của các lực lượng đang
ngự trị và được hưởng lợi từ những bất cập và chuẩn mực mập mờ của quá khứ.
Sự ì ạch của số đông cán bộ KHKT yếu về chuyên môn nhưng đã quen ỷ lại vào
bao cấp nhà nước cũng là một trở ngại lớn. Việc đầu tiên cần phải làm là, theo gương và tư vấn quốc tế, Bộ KH&CN đã
thành lập Trung tâm hỗ trợ đánh giá KH&CN để có được danh mục thành tích
KH&CN cụ thể của từng nhà khoa học theo mẫu quốc tế (TQ có hẳn riêng một
Viện thông tin khoa học để thu thập thông tin đánh giá các cá nhân, cơ quan
và họat động khoa học, trong so sánh với quốc tế). Tuy nhiên, như Trung tâm
cho biết, sau cả năm gửi thư mời do đích thân Thứ trưởng Lê Đình Tiến ký,
thì mới chỉ thu được hơn 2000 phiếu đăng ký chuyên gia (bằng 1/10 lực lượng
nghiên cứu). Phần lớn số mẫu này là của thạc sĩ, tiến sĩ mới bảo vệ … và hầu
như vằng bóng các vị chức sắc gọi là đầu ngành đang ngự trị các Hội đồng và
chủ trì các đề tài KH kinh phí lớn. Các kiến nghị đưa danh mục công trình
của từng nhà khoa học lên công khai trên website của các cơ sở khoa học theo
như thông lệ quốc tế, thường bị các chức sắc ở các cơ sở phớt lờ với lý do
đó là các thông tin riêng tư, và thay vào đó người ta chỉ muốn bám vào chức
danh và các mối quan hệ. Cần có chế tài yêu cầu mọi cán bộ nghiên cứu khoa học đều phải gửi thông tin
chuyên gia, nếu không sẽ không được phép nhận các đề tài nghiên cứu, hướng
dẫn NCS, và tham gia các Hội đồng chuyên gia. Các thông tin chuyên gia đưa
ra công khai (lên Internet), ngòai những lợi ích chuyên môn đa dạng và cho
công tác quản lý, còn giúp làm minh bạch họat động của các nhà khoa học chịu
giám sát khách quan của cộng đồng. Các nhà lãnh đạo và quản lý phải dựa vào thông tin chuyên gia khách quan để
lập mới các Hội đồng chuyên môn, Hội đông chức danh GS,... thay cho các Hội
đồng cũ gồm các chức sắc thâm niên đã lạc hậu. Các Hội đồng mới phải được
xây dựng từ số chuyên gia có thành tích nổi trội nhất trong công bố bài báo
khoa học trên các tạp chí có uy tín cao, bằng sáng chế có giá trị, sản phẩm
công nghệ mới chiếm được vị trí trên thị trường, qua những năm gần đây, bất
kể tuổi tác, thâm niên, nơi công tác, và chức vụ của họ. Các Hội đồng này
cần được thường xuyên thay đổi, bổ sung theo thời gian. Ở các ngành và lĩnh
vực đã có được nhiều chuyên gia giỏi trình độ tương đương, chúng ta thực
hiện chế độ thay đổi luân phiên để chống hình thành nhóm lợi ích. Cần tách bạch chức vụ quản lý hành chính và chức năng chuyên môn. Không gán
gượng ép cho lãnh đạo hành chính các cơ sở cái mác “chuyên gia đầu ngành” và
trao quá nhiều quyền cho họ, kể cả những việc thuộc về chức năng chuyên môn
như hiện nay. Xét các đề tài khoa học phải dựa trên thông tin chuyên gia về thành tích
nghiên cứu khoa học theo chuẩn mực quốc tế khách quan trong những năm gần
đây và các kết quả đã có được của Chủ trì trên hướng được đăng ký. Quỹ phát triển KH&CN dự kiến sẽ đòi hỏi mọi đề tài NCCB phải có công bố quốc
tế, mọi Chủ trì đề tài phải có công bố quốc tế 5 năm gàn đây, và xét theo
thứ tự từ trên xuống theo từng ngành. Kinh phí sẽ bao gồm cả bổ sung thu
nhập thỏa đáng cho chủ trì tương ứng với thu nhập thực tế ngòai xã hội, và
giúp chủ trì nhận và đào tạo cán bộ trẻ - trước nay thì việc nhận người thực
tế là đặc quyền của các chức sắc cơ sở. Đây sẽ là cơ hội lần đầu tiên NCCB ở
VN thóat khỏi tình trạng hình thức, khẩu hiệu suông và dàn trải lãng phí, để
hướng tới mục tiêu thực là nâng năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học VN
tới trình độ quốc tế khách quan tối thiểu. Mặc dù mức tiền lưong của các cán bộ khoa học hiện không thỏa đáng so với
thu nhập thực tế trong xã hội, đòi hỏi tăng lương là chưa khả thi, vì do cơ
chế, hiện có nhiều nguồn thu nhập thực tế của nhiều công chức và cán bộ khoa
học – kể cả từ nguồn ngân sách - không kiểm sóat được. Thêm vào đó, biên chế
nhà nước phình to với nhiều cán bộ khoa học thiếu năng lực hoặc chẳng làm
được gì cho KH&CN nước nhà - tăng lương đồng đều cho họ sẽ là gánh nặng cho
ngân sách. Cung cấp thêm thu nhập cho các nhà khoa học có năng lực và kết
quả qua đề tài NCCB, để họ tập trung vào chuyên môn, là một giải pháp khả
thi trong hòan cảnh hiện nay. Tuy nhiên ngoài việc xét chọn đề tài theo
thành tích từ trên xuống thì cũng phải phân cấp kinh phí theo năng lực đóng
góp là số lượng và chất lượng các kết quả được công bố - vừa khuyến khích
mọi người làm việc hết mình vừa bảo đảm công bằng tương đối, vì cũng có một
số chủ trì với kết quả chỉ đủ đạt mức giới hạn dưới nhưng còn kiêm thêm các
đề tài khác (NCƯD) và nguồn thu nhập khác nữa. Cũng cần phải có chính sách
khuyến khích hợp lý tương ứng cho các công chức quản lý để họ giúp tiến
trình thực thi được trơn tru và minh bạch, không có tiêu cực. Hãy học tập
kinh nghiệm Singapore ! Với các đề tài NCƯD cấp Bộ Ngành, Nhà nước được bao cấp, tình hình sẽ khó
khăn hơn nhiều vì đây chính là nguồn làm ăn của số đông các chức sắc và cán
bộ KH hiện nay, và thói quen chỉ dựa vào các quan hệ, ý kiến chủ quan của
các hội đồng, lảng tránh các chuẩn mực khách quan quốc tế. Nhiều đề tài NVƯD
chỉ khác đề tài NCCB là cái tên có vẻ dính tới vấn đề cụ thể nào đó ở VN,
nhưng kinh phí lại thường là lớn. Xin được cái giấy chứng nhận ứng dụng ở
một cơ sở nào đó cũng không khó khăn gì. Nếu chúng ta không quyết tâm thay
đổi tình trạng này, chúng ta sẽ không thóat khỏi lãng phí và trì trệ. Tiêu
chuẩn khách quan nếu có khó là khó đều cho tất cả chứ không chỉ riêng ai.
Nếu chúng ta thay đổi các Hội đồng xét duyệt, thay các chức sắc thâm niên
bằng các chuyên gia đáp ứng các chuẩn mực khách quan tốt nhất, và công khai
hóa các thông tin, như đã nói ở trên, chúng ta sẽ có được bước đi đúng đầu
tiên trên hướng này. Cách tổ chức và phân kinh phí các đề tài NCƯD cũng cần
được nhất quán với các đề tài NCCB. Đưa chuẩn mực khách quan quốc tế vào các bằng cấp chức danh khoa học để đảm
bảo những thứ này thực sự có ý nghĩa, đầu tiên là từ các chức danh GS,
NCVCC, KSCC, tiếp theo là PGS, NCVC, KSC, rồi đến TS. Phải xét ưu tiên và
đặc cách cho các nhà khoa học có thành tích chuẩn mực quốc tế cao, và sản
phẩm công nghệ có giá trị - coi đây là tiêu chí quyết định. Điều này cũng
liên quan tới chính sách hấp dẫn các tài năng trẻ từ nước ngòai trở về nước
phục vụ (hãy học kinh nghiệm TQ). Việc xét đề tài NCCB như đã nói ở trên
cũng giúp vào tiến trình này. Phải nhìn vào thực tế hiện nay để thấy rằng số đông các nhà khoa học của
chúng ta không đủ khả năng và điều kiện đào tạo được TS đạt chuẩn tối thiểu,
và gửi người di đào tạo ở nước ngòai phải là hướng chủ đạo (cần quan tâm
chọn NCS giỏi, trường và thầy ở nước ngòai đủ tin cậy). Đối với đào tạo
trong nước, trước tiên cần đòi hỏi mọi thầy nhận hướng dẫm NCS phải có công
bố quốc tế ISI trong 5 năm gần nhất (sau đó sẽ đòi hỏi đến yêu cầu cho luận
văn TS), danh sách các thầy có thể hướng dẫn phải được Bộ GD&ĐT duyệt và đưa
lên công khai trên website để các NCS liên hệ tìm thầy và cạnh tranh để tới
các thầy giỏi. Điều quan trọng không kém là cần có chính sách hậu TS: có đề
tài nghiên cứu và được thăng tiến nhanh về chức danh theo thành tích chuẩn
mực quốc tế để phát huy tối đa năng lực các TS giỏi, không để họ bị bỏ rơi
và tàn lụi dần như những năm qua. Nên thuê các chuyên gia quốc tế giỏi (kể cả Việt kiều) có thành tích công
nghệ và công bố chuẩn mực quốc tế lãnh đạo các đề tài nghiên cứu ứng dụng
trọng điểm, phòng thí nghiệm trọng điểm, và qua đó cũng gíúp đào tạo tạo chỗ
cán bộ VN tham gia (thể thao chúng ta có tiến bộ cũng nhờ nhiều vào thuê
chuyên gia nước ngòai). Các chuyên gia này cũng sẽ có thể tham gia tư vấn
đánh giá tại chỗ các đề tài khoa học của chúng ta. Tìm và mời được chuyên
gia từ nước ngòai đánh giá các đề tài trong nước là rât khó, chưa kể người
ta khó có điều kiện so sánh tương đối để lựa chọn các đề tài khác nhau trong
bối cảnh cụ thể VN. Trong trường hợp này thì các bài báo đăng tạp chí quốc
tế chính là bảo đảm khách quan tôt nhất từ các chuyên gia quốc tế giỏi mà ta
lại không mất tiền và công tìm kiếm. Các Viện nghiên cứu được bao cấp nhà nước cần được thu gọn lại về biên chế
(học tập kinh nghiệm TQ), tuyển biên chế chính thức công khai định kỳ từ các
nhà khoa học giỏi đã có thành tích công bố quốc tế và sản phẩm công nghệ đến
từ mọi nơi. Các CN, KS trẻ mới tốt nghiệp được tuyển chọn vào các Viện
nghiên cứu cần được thử thách và trả lương qua các đề tài nghiên cứu cho đến
một thời hạn nhất định để có được bằng TS và hành trang thành tích, kinh
nghiệm nghiên cứu, trước khi có thể xin biên chế ở các cơ sở nghiên cứu và
ĐH mọi nơi trong nước, phù hợp với năng lực. Hà nội ngày 16 tháng 11 năm 2008 Phạm Đức Chính Viện Cơ học, Viện KH&CN VN, Hà nội.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Phạm Đức Chính
|