Những bài cùng tác giả
Cứ mỗi nhà khoa học với một giả thuyết tưởng mới, thì có
hàng trăm nhà khoa học khác muốn "chứng minh" giả thuyết đó sai.
Chỉ 3 thập niên trước đây, các bản tin liên quan đến khoa học và y khoa rất
ít xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng khoảng giữa
thập niên 1980, cùng với sự bùng nổ thông tin, và giới nghiên cứu khoa học
cũng như các doanh nghiệp về khoa học kĩ thuật nhận ra rằng truyền thông có
thể đem lại lợi ích kinh tế cho cả hai phía, nhưng lại là một địa hạt chưa
được khai thác.
Mặt khác, giới truyền thông nhận thức được sự quan tâm này của quần chúng
nên thường cung cấp cho bạn đọc những thông tin liên quan đến y khoa và khoa
học. Ảnh hưởng của các bản tin y tế và thực phẩm rất lớn. Theo một cuộc thăm
dò ý kiến ở Mĩ, 75% người được thăm dò cho biết họ thường theo dõi các thông
tin liên quan đến thực phẩm và y tế trên các phương tiện truyền thông đại
chúng. Trong số này, 58% người được hỏi cho biết họ sẵn sàng thay đổi lối
sống hay hành động theo các bản tin đó.
Năm 2007 chúng ta đã từng chứng kiến một số sự cố truyền thông khoa học xảy
ra ở nước ta, và cũng gây ra vài tác động tương đối nghiêm trọng. Chẳng hạn
như một bản tin về bưởi và ung thư có làm giảm giá bưởi từ 8.000-10.000
đồng/kílô xuống còn 1.000 đồng/kílô, và gây thiệt hại không ít cho nhiều
nông dân sản xuất và doanh nghiệp phân phối bưởi.
Một bản tin về sự cố của vắcxin viêm gan B có thể dẫn đến phản ứng tiêu cực
của công chúng đến loại vắcxin này. Những “sự cố” này để lại cho chúng ta
một số kinh nghiệm và bài học quan trọng mà tôi muốn tóm lược trong bài viết
này.
Bài học 1: Cần kiểm tra nguồn gốc và chất lượng nghiên cứu
Phần lớn các công trình nghiên cứu có chất lượng cao đều xuất phát từ những
trung tâm nghiên cứu có tên tuổi và uy tín. Một nghiên cứu từ một trường đại
học thường khách quan hơn các công trình nghiên cứu do các nhóm lợi ích
(interest groups) hay công ty kĩ nghệ thực hiện. Chẳng hạn như một nghiên
cứu về hút thuốc lá và sức khỏe mà do kĩ nghệ sản xuất thuốc lá thực hiện có
thể không đáng tin cậy bằng một nghiên cứu do trường đại học thực hiện.
Nhiều thông tin y khoa trên hệ thống truyền thông thường nói đến những “phát
hiện” chưa được công bố hay chỉ được công bố trong hội nghị khoa học. Tất cả
những phát hiện, khám phá của khoa học loại này không được xem có giá trị
cao và không cần chú ý đến. Tất cả các kết quả nghiên cứu khoa đều được công
bố chủ yếu trong các tập san chuyên khoa, những tập san này được giới chuyên
môn quản lí và điều hành. Các báo cáo được chấp nhận công bố trong các tập
san này đều được qua ít nhất là ba đồng nghiệp kiểm tra về sự chính xác và
phương pháp, bằng những tiêu chuẩn khoa học, do đó phẩm chất của chúng khá
cao và đáng tin cậy.
Tuy nhiên, có khi có người lợi dụng khoa học và thường đăng bài ở những tạp
chí hay website đại chúng, dành cho người không chuyên môn, và do đó, bài
báo không có ai kiểm tra về phương pháp hay tính chính xác, và trong trường
hợp này, những kết quả như thế không có giá trị khoa học gì cả.
Câu chuyện về vắcxin viêm gan trong năm 2007 là một bài học quí báu cho việc
kiểm tra nguồn gốc thông tin. Khởi đầu là 4 trường hợp trẻ em mới sinh bị tử
vong sau khi tiêm vắcxin ngừa viêm gan B làm cho nhiều người chất vấn chính
sách này. Một số báo chí bắt đầu đặt câu hỏi về hiệu quả và an toàn của
vắcxin.
Một bài báo với tựa đề khá giật gân “Hàng trăm ca tử vong sau khi tiêm
văcxin viêm gan B ở Mỹ”, mà trong đó tác giả lthông tin trên website của ông
Joseph Mercola ở bang Illinois (Mĩ), một bác sĩ vật lí trị liệu có nhiều ý
kiến “phi chính thống” và nổi tiếng chống đối các chương trình tiêm chủng
ngừa. Ông Mercola đã bị các cơ quan y tế Mĩ cảnh cáo vài lần về việc đưa tin
… sai lạc.
Các bài báo khoa học có chất lượng cao cũng thường xuất hiện trên các tập
san khoa học quốc tế có hệ thống bình duyệt nghiêm chính. Vì thế, một trong
những việc mà phóng viên cần làm là kiểm tra nguồn gốc của nghiên cứu, và
công trình đó được tập san khoa học nào công bố. Chẳng hạn như công trình
nghiên cứu về bưởi và ung thư được công bố trên tập san ung thư của Anh, một
tập san tương đối nhỏ và cũng không có ảnh hưởng lớn trong chuyên ngành.
Bài học 2: Phân biệt mô hình nghiên cứu và giá trị khoa học
Nghiên cứu y học được công bố trên các tập san y học thường rất đa dạng, và
xuất hiện với nhiều danh từ, thuật ngữ không mấy quen thuộc với giới phóng
viên. Một số nghiên cứu thường thấy là meta-analysis (phân tích tổng hợp),
randomized controlled clinical trial (nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu
nhiên), prospective (longitudinal) study (nghiên cứu xuôi thời gian),
cross-sectional study (nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm), và case-control
study (nghiên cứu bệnh chứng), basic research (nghiên cứu cơ bản). Giá trị
khoa học của các nghiên cứu này không tương đương nhau. Theo y học thực
chứng (evidence-based medicine), các nghiên cứu có giá trị khoa học từ thấp
nhất đến cao nhất như sau:
Ý kiến của các chuyên gia, dù là giáo sư hay chuyên gia đầu ngành,
được xem là có giá trị khoa học thấp nhất. Đây là những ý kiến cá nhân, và
vì cá nhân tính nên thường, không ít thì nhiều, mang tính chủ quan. Đó là
chưa kể một số giáo sư chỉ là những cái loa phát thanh cho các công ty dược,
hay lợi dụng tập san để quảng cáo cho công ty của chính họ, chứ mục đích
phục vụ khoa học chỉ là thứ yếu.
Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu được thực hiện trên chuột và
các động vật "cấp thấp" khác như thỏ, cừu, chó, v.v… Đây là những nghiên cứu
khởi đầu để thử nghiệm một giả thiết khoa học cụ thể nào đó. Bởi vì chỉ là
nghiên cứu sơ khởi và không tiến hành trên con người, cho nên đối với y học
thực chứng giá trị khoa học của các nghiên cứu này thuộc vào hạng thấp nhất,
chỉ hơn ý kiến cá nhân một bậc mà thôi.
Câu chuyện về nước tương và ung thư dấy lên vào tháng 4-5 năm 2007 dựa vào
những nghiên cứu như thế này. Nhưng tiếc thay, có lẽ vì phóng viên không
nhận thức được giá trị khoa học của những nghiên cứu như thế nên đã làm
hoang mang dư luận một thời gian.
Bằng chứng có giá trị cao hơn nghiên cứu cơ bản là các phân tích về các
trường hợp lâm sàng cá biệt. Trong nhiều tập san y học, giới nghiên cứu
thường báo cáo trường hợp bệnh nhân rất đặc biệt, rất hiếm, những trường hợp
bệnh khó chẩn đoán, hay những trường hợp bệnh lí chưa được mô tả trong sách
giáo khoa, những ca giải phẫu ngoạn mục, hay những tai biến y khoa hiếm,
v.v... Có khi bác sĩ thành công trong chẩn đoán và điều trị và những thành
công đó không thể xem là bằng chứng khoa học được, vì không có giá trị khái
quát hóa đến các bệnh nhân khác. Câu chuyện về 4 trẻ em bị chết sau khi tiêm
vắcxin trong năm qua gây ra nhiều phản ứng cảm tính trong cộng đồng, nhưng
không thể xem là một bằng chứng khoa học đáng tin cậy để chất vấn hiệu quả
thật của vắcxin.
Các nghiên cứu có giá trị khoa học “trung bình” là nghiên cứu bệnh chứng,
mà theo đó các nhà khoa học phải “đi ngược thời gian” để so sánh một yếu tố
nguy cơ giữa một nhóm mắc bệnh và một nhóm không mắc bệnh, và từ đó xem yếu
tố nguy cơ đó có mức độ ảnh hưởng đến bệnh như thế nào. Vì có so sánh, nên
mô hình nghiên cứu này được xem có giá trị khoa học trung bình. Đây là những
nghiên cứu rất tiêu biểu liên quan đến thực phẩm, và hay gây nên những dư
luận không tốt trong công chúng. Kết quả một nhiên cứu loại này, tuy rất có
ích, nhưng vẫn chưa thể làm cho chúng ta phải đặc biệt quan tâm.
Các nghiên cứu có giá trị khoa học trên trung bình là nghiên cứu tiêu biểu
tại một thời điểm (có khi gọi là “nghiên cứu cắt ngang”). Trong mô
hình nghiên cứu này, nhà nghiên cứu chọn một quần thể một cách ngẫu nhiên
trong cộng đồng, và tìm hiểu xem có bao nhiêu người mắc bệnh (như ung thư)
hay không mắc bệnh tại thời điểm đó, và so sánh một yếu tố nguy cơ (chẳng
hạn như ăn bưởi) giữa hai nhóm để đánh giá mối liên hệ giữa yếu tố nguy cơ
và bệnh. Nghiên cứu này vì được chọn ngẫu nhiên từ một quần thể nên có giá
trị khoa học trên trung bình.
Các nghiên cứu có giá trị cao hơn nghiên cứu cắt ngang là các nghiên cứu
xuôi thời gian. Khác với nghiên cứu cắt ngang chỉ ghi nhận sự kiện tại
một thời điểm, các nghiên cứu xuôi thời gian phải theo dõi đối tượng trong
một thời gian có thể là nhiều năm tháng.
Chẳng hạn như để đánh giá mối liên hệ giữa hút thuốc lá và ung thư phổi, nhà
nghiên cứu có thể chọn một quần thể, chia quần thể thành 2 nhóm (hút thuốc
lá và không hút thuốc lá), và theo dõi hai nhóm trong một thời gian để xem
có bao nhiêu người trong từng nhóm bị ung thư phổi. So sánh tỉ lệ phát sinh
bệnh giữa hai nhóm là một cách đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nguy cơ đến
bệnh.
Mô hình nghiên cứu mang tính tiêu chuẩn vàng (gold standard) trong y học
ngày này là các nghiên cứu can thiệp theo mô hình lâm sàng đối chứng
ngẫu nhiên. “Can thiệp” ở đây nên được hiểu là những thuật điều trị, kể
cả thuốc và phẫu thuật. Theo mô hình nghiên cứu này, để đánh giá một thuật
điều trị, nhà nghiên cứu chọn một nhóm đối tượng theo các tiêu chuẩn nghiêm
ngặt được định trước, sau đó ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm: nhóm được điều
trị và nhóm không được điều trị. Sau khi theo dõi hai nhóm trong một thời
gian, nhà nghiên cứu quan sát số người mắc bệnh (hay không mắc bệnh), và so
sánh tần số mắc bệnh giữa hai nhóm để đánh giá hiệu quả của thuật điều trị.
Kết quả từ các công trình nghiên cứu này được đánh giá là những bằng chứng
khoa học có giá trị cao nhất trong y học.
Thông thường với bất cứ một thuốc nào hay một thuật điều trị nào, một nghiên
cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đơn lẻ không thể nào giải quyết dứt khoát
vấn đề, mà thường cần phải có nhiều nghiên cứu độc lập nhau. Nhiều nghiên
cứu ở nhiều quần thể khác nhau, dù có cùng mục đích và tiến hành với một
phương pháp chuẩn, có thể cho ra nhiều kết quả khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Trước sự khác biệt về kết quả như thế, vấn đề đặt ra là làm sao
hệ thống hóa tất cả các kết quả nghiên cứu này để cho ra một “đáp số”, một
“phát quyết” sau cùng. Gần đây, có một nghiên cứu mới ra đời có tên là “phân
tích tổng hợp” (meta-analysis) là phân tích tất cả các kết quả nghiên cứu
trong quá khứ và đi đến một kết luận đáng tin cậy hơn. Trong y học thực
chứng, kết quả phân tích tổng hợp được đánh giá là có giá trị khoa học cao
nhất.
Bài học 3: Phân biệt tương quan và mối liên hệ nhân quả
Trong y khoa, người ta phân biệt hai thuật ngữ cause-effect relationship
(mối liên hệ nhân quả) và association (tương quan). Trong các mô hình nghiên
cứu vừa trình bày trên, chỉ có nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên là
có thể cho phép chúng ta phát biểu về nguyên nhân và hệ quả, còn các mô hình
nghiên cứu khác chỉ cho phép chúng ta phát biểu về mối tương quan.
Liên quan chỉ là một điều kiện cần nhưng chưa đủ để phát biểu một nguyên
nhân. Nếu giá xăng dầu tăng theo ngày tháng, và chúng ta càng ngày càng cao
tuổi, thì mối tương quan giữa giá xăng dầu và tuổi đời sẽ rất cao; nhưng
điều đó không có nghĩa là tuổi tác là nguyên nhân làm cho giá xăng dầu tăng!
Tương tự, có thể lấy một ví dụ dí dỏm hơn: nếu một chàng trai tặng người bạn
gái mình một đóa hoa hồng, và người bạn gái mỉm cười; chúng ta không thể
biết nàng mỉm cười vì đóa hoa hồng, hay vì cử chỉ lịch sự của chàng trai.
Nhưng trong thực tế, mối tương quan giữa hai yếu tố A và B rất dễ bị nhầm
lẫn là mối liên hệ nhân quả. Chẳng hạn như trong vụ bộc phát bệnh tiêu chảy
và bệnh tả vào tháng 10 vừa qua xảy ra một sự ngộ nhận đáng tiếc về nguyên
nhân và yếu tố nguy cơ. Một vài quan chức y tế cho rằng mắm tôm là nguyên
nhân, là nguồn gốc của sự bộc phát bệnh tả. Thật ra, đây là một sự nhầm lẫn
về khái niệm. Nguyên nhân (cause) là yếu tố sinh học trực tiếp gây bệnh, như
vi khuẩn V. cholerae gây bệnh tả, còn yếu tố nguy cơ (risk factors) là những
yếu tố -- qua các cơ chế gián tiếp hay trực tiếp -- làm tăng nguy cơ mắc
bệnh của một cá nhân. Chẳng hạn như nước bị ô nhiễm có thể là một yếu tố
nguy cơ của bệnh tả vì nước có thể hàm chứa vi khuẩn tả; nhưng nước không
phải là nguyên nhân gây bệnh tả bởi vì không phải ai uống nước ô nhiễm cũng
đều mắc bệnh, họ chỉ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người không uống nước ô
nhiễm.
Một trong những ngộ nhận về nguyên nhân và yếu tố nguy cơ là lí luận mà các
quan chức y tế từng phát biểu như “Theo Sở Y tế Hà Nội, có đến 90% số bệnh
nhân kể trên đã ăn các thực phẩm sống, chủ yếu là mắm tôm, mắm tép và đây
chính là nguồn truyền vi khuẩn gây bệnh”. Thật ra, đây là một loại … ngụy
biện khá phổ biến trong khoa học, mà người ta đã chỉ ra từ rất lâu.
Điều quan trọng cần phải phân biệt để hiểu hai phát biểu sau đây: (a) trong
số những người mắc bệnh tả, 90% từng ăn mắm tôm, và (b) trong số những người
ăn mắm tôm, 5% mắc bệnh tả. Câu thứ nhất đề cập đến hệ quả (bệnh tả) đã xảy
ra và truy tìm về quá khứ phơi nhiễm (ăn mắm tôm). Câu thứ hai nói đến sự
phơi nhiễm hôm nay để dự đoán về khả năng bệnh xảy ra trong tương lai. Hai
phát biểu bao hàm thời gian tính khác nhau: câu thứ nhất nói về quá khứ và
câu hai đề cập đến tương lai.
Bài học 4: Kết quả nghiên cứu khoa học mang tính tiến hoá chứ không
phải cách mạng
Khoa học ngày nay bao gồm những hoạt động đóng khuôn trong một mô thức
(paradigm), những hoạt động mang tính giải đáp các vấn đề nhỏ và cụ thể mà
cộng đồng khoa học đang tìm một giải đáp. Khoa học bình thường, do đó, có
tính tích lũy và tiến hóa, chứ không mang tính cách mạng. Các kết quả nghiên
cứu mới bổ sung cho những kết quả hiện hành, nhưng những kết quả này không
dẫn đến một cuộc cách mạng.
Trong quá trình cập nhật hóa kiến thức, chúng ta thấy những kết quả nghiên
cứu trái ngược nhau. Có một số nghiên cứu cho thấy cà phê hôm nay có lợi cho
sức khỏe, nhưng hôm sau lại có kết quả nghiên cứu cho thấy ngược lại! Những
kết quả nghiên cứu như thế phải đặt trong bối cảnh tiến hóa của khoa học
trong một mô thức, chứ không thể xem là một kết luận sau cùng, hay một sự
thật khoa học vĩnh viễn.
Do đó, giới phóng viên cần phải tìm hiểu các nhà khoa học khác để biết ý
kiến của nhà khoa học mà phóng viên trích dẫn có phản ảnh luồng tư tưởng
chính thống hiện hành liên quan đến vấn đề trong bản tin hay không; nếu
không phóng viên nên trình bày cho người đọc hay người nghe biết luồng tư
tưởng chính thống là gì.
Bài học 5: Kết quả nghiên cứu khoa học thường mong manh và bất định
Nghiên cứu khoa học thường bắt đầu với một giả thuyết, và sau khi thu thập
dữ liệu thì kết quả có thể nhất quán hay không nhất quán với giả thuyết đó.
Nhưng dữ liệu thường được thu thập từ một nhóm đối tượng trong một quần thể.
Nhóm đối tượng đó có thể không đại diện cho quần thể, và do đó kết quả rút
ra từ dữ liệu cũng có thể sai, dù giả thuyết đúng. Nhưng cũng có trường hợp
dữ liệu được thu thập theo đúng phương pháp, nhưng giả thuyết lại sai.
Nhìn khoa học dưới góc độ [đơn giản] như thế, chúng ta thấy các kết quả
nghiên cứu khoa học rất mong manh và nhiều bất định. Đúng hay sai, một giả
thuyết mới cũng giống như một cục nam châm, thu hút các khoa học gia khác
dấn thân vào lĩnh vực nghiên cứu. Cứ mỗi nhà khoa học với một giả thuyết
tưởng mới, thì có hàng trăm nhà khoa học khác muốn "chứng minh" giả thuyết
đó sai. Thỉnh thoảng, việc phản nghiệm cũng làm cho nhà khoa học trở nên nổi
tiếng. Dĩ nhiên, phản nghiệm là một phương cách tuyệt vời để xem xét tính
khả dĩ của một giả thuyết. Đối lập trong khoa học -- dù với động cơ nào --
là một bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển khoa học.
Nhưng tình trạng mong manh trong nghiên cứu khoa học không phải là một yếu
tố làm cho khoa học chậm tiến; ngược lại, đó là một ảnh hưởng “domino” đảo:
bằng chứng yếu, giả thuyết táo bạo có thể đan xén với nhau và gây ra ảnh
hưởng lớn. Những nghiên cứu về loét bao tử cũng nằm trong tình trạng này
trước khi khám phá ra nguyên nhân thực của nó (tức là nhiễm trùng). Những
hiểu biết về bệnh tim, ung thư da, loãng xương ngày nay cũng nằm trong tình
trạng này, chỉ chờ đến ngày có một khám phá thật sự.
Đã đăng trên TuanVietNam
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Văn Tuấn
|