Những bài
cùng tác giả
Tám
đặc điểm của văn hóa khoa học:
1- Thói quen đặt câu hỏi.
2- “Nói có sách, mách có chứng.”
3- Tôn trọng sự thật khách quan
4- Làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan.
5- Hệ thống hóa những gì mình biết, không giấu giếm.
6- Dân chủ.
7- Kế thừa.
8- Trách nhiệm xã hội.
Trong một lần nói chuyện về đề tài béo phì và sắc đẹp con người, người viết
bài này đề cập đến một nghiên cứu ở Anh mà trong đó các nhà khoa học đo
lường các chỉ số nhân trắc như chiều cao, vòng eo, vòng mông, cân nặng, và
sử dụng các thuật toán thống kê để phát triển một mô hình định lượng “đẹp”
dựa vào các đo lường trên. Đồng nghiệp và sinh viên trong cử tọa cười ồ lên
và tỏ ra ngạc nhiên về ý tưởng mà họ cho là rất lạ lùng đó. Có người còn nói
“Đúng là ở Tây phương người ta thừa tiền của để làm những nghiên cứu vớ
vẩn”! Thoạt đầu mới nghe qua thì quả là … vớ vẩn thật, nhưng suy nghĩ kĩ thì
công trình nghiên cứu có ứng dụng rất lớn trong y tế và thương mại. Cái mô
hình thống kê để tiên đoán cái đẹp đó không phải chỉ là phương tiện dành cho
các thanh niên để đi tìm người bạn đời, mà còn là một cơ sở khoa học để các
nhà sản xuất quần áo thời trang dựa vào đó mà phát triển những chuẩn mực
thích hợp cho từng độ tuổi và giới tính của một quần thể, và qua đó họ có
thể đánh giá được thị trường tiêu thụ ra sao.
Phản ứng của đồng nghiệp và sinh viên Việt Nam trước những nghiên cứu khoa
học lạ mà tôi vừa kể trên đây không phải là cá biệt, mà khá phổ biến. Trước
những kết quả nghiên cứu có vẻ khá hiển nhiên, chúng ta thường nói “Cái
đó không làm nghiên cứu cũng biết”. Thói quen suy nghĩ kiểu “không làm
nghiên cứu cũng biết” vô tình làm cho chúng ta thụ động, chỉ khoanh tay nhìn
thế giới, mà không chịu khó tìm tòi và đào sâu suy nghĩ. Thói quen này còn
là một hàng rào cản trở tiến bộ khoa học, bởi vì nói thư thế là mặc nhiên
công nhận một giả định rằng những gì mình biết là chân lí, không cần làm gì
thêm. Vả lại, vấn đề không phải đơn thuần là biết hay không biết, mà là định
lượng cái biết của mình bao nhiêu, biết như thế nào, biết từ đâu, v.v… Nói
tóm lại, phải có một văn hóa khoa học thì mới cảm nhận được những nghiên cứu
mà thoạt đầu tưởng như vớ vẩn và vô bổ ấy.
Vậy thì văn hóa khoa học là gì và có những đặc điểm gì?
Theo định nghĩa của giới xã hội học, văn hóa bao gồm những qui ước, giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy trong quá
trình tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên. Hoạt động khoa học
dựa vào một số qui trình, qui ước đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận và lấy
làm chuẩn, và do đó hoạt động khoa học tạo nên văn hóa khoa học. Chẳng hạn
như trong khi làm thí nghiệm, tất cả các dữ liệu liên quan đến phương pháp,
số liệu, hình ảnh, hay nói chung kết quả đều phải được ghi chép cẩn thận
trong nhật kí thí nghiệm, và nếu cần phải có một đồng môn kí vào nhật kí.
Tất cả các kết quả phải được trình bày trong các buổi họp hàng tuần trước
đồng nghiệp và được “soi mói” cẩn thận. Hay trong thực hành lâm sàng, bác sĩ
phải trình bày những ca bệnh mình phụ trách trong buổi họp giao ban, để các
đồng nghiệp khác bàn luận. Đó là một khía cạnh của văn hóa khoa học.
Theo tôi, tám đặc điểm của văn hóa khoa học là:
1- Thói quen đặt câu hỏi.
Đứng trước một sự kiện hay sự vật, người có văn hóa khoa học phải đặt câu
hỏi tại sao, đào sâu suy nghĩ, và từ đó phát hiện vấn đề. Một khi đã phát
hiện được vấn đề thì giải pháp để giải quyết cũng có thể theo sau. Chính vì
thế mà có người nói trong khoa học, biết được câu hỏi, biết được vấn đề cũng
có nghĩa là đã thành công 50% trong nghiên cứu.
Kĩ năng phát hiện vấn đề được hệ thống giáo dục phương Tây phát đặc biệt chú
trọng ngay từ bậc tiểu học. Ngay từ lúc mới vào học, học sinh các nước Tây
phương đã khuyến khích tự mình tìm hiểu thế giới chung quanh, đặt câu hỏi,
và tranh luận trước lớp học. Nhưng ở nước ta, phương pháp giáo dục phổ thông
đòi hỏi học sinh phải nhồi nhét một số kiến thức cơ bản, và giải quyết những
vấn đề theo một công thức đã định sẵn, nhưng không khuyết khích cách đặt vấn
đề, phát hiện vấn đề.
Một điểm đáng chú ý khác là giáo dục Việt Nam một cách vô hình đặt người học
sinh và sinh viên vào một vị trí học thuật khiêm tốn. Sự tôn ti trật tự
trong học thuật đó đòi hỏi người học sinh và sinh viên phải biết mình đang ở
vị trí không có quyền đặt vấn đề, không có quyền tranh luận. Hệ quả là chưa
lên tiếng thì đã bị phê bình ngay “con nít mới học vài ba chữ biết gì mà
nói”, hay “không biết thì dựa cột mà nghe”, hay thậm chí “hỗn với thầy cô”.
Thái độ trù dập như thế làm thui chột khả năng phát hiện vấn đề và làm suy
giảm sự tự tin của học sinh. Trưởng thành trong môi trường thứ bậc trong học
thuật như thế, không ngạc nhiên khi sinh viên của chúng ta ra ngoài du học
tuy rất khá trong việc trả bài, học trong khuôn khổ của sách giáo khoa,
nhưng khi học cao lên một bậc hay thoát ra ngoài sách vở thì họ rất lúng
túng trong nghiên cứu khoa học, vì họ không biết cách đặt vấn đề và cũng
thiếu tự tin để trình bày vấn đề.
2- “Nói có sách, mách có
chứng.”
Kiến thức mang tính kế thừa từ đời này sang đời khác. Thành ra, đối với
người có tinh thần khoa học nghiêm túc, phát biểu có cơ sở và tài liệu tham
khảo là điều đương nhiên. Mở bất cứ một sách giáo khoa hay thậm chí sách
tham luận nào ở các nước Tây phương, chúng ta đều thấy phần tài liệu tham
khảo dồi dào, ngay cả những thư từ trao đổi cá nhân cũng được trình bày cẩn
thận với sự cho phép của đương sự. Cách làm việc này còn là một cách kế thừa
di sản của người đi trước, và cũng là một cách ghi nhận công trạng của họ.
Nhưng rất tiếc là ở nước ta, văn hóa “nói có sách mách có chứng” này vẫn
chưa được chấp nhận rộng rãi. Có thể tìm thấy khá nhiều sách khoa học ở Việt
Nam không kèm theo một tài liệu tham khảo nào. Vì không có tài liệu tham
khảo, người đọc không biết tất cả những phát biểu trong sách là phát kiến
của tác giả, hay mượn của người khác mà không chịu ghi nhận. Nếu là phát
kiến của chính tác giả thì không có gì để nói, nhưng nếu lấy từ tài liệu của
người khác thì đó là một vi phạm đạo đức khoa học.
Phải nói thêm rằng “nói có sách, mách có chứng” có nghĩa là dựa vào tài liệu
tham khảo gốc mà người phát biểu phải có trong tay, tận mắt nhìn thấy, và
từng đọc qua. “Nói có sách, mách có chứng” không có nghĩa là trích dẫn nguồn
tài liệu hạng thứ, hay trích dẫn từ một nguồn nào đó mà người phát biểu chưa
từng đọc qua. Đây là một vấn đề trong khá nhiều bài báo nghiên cứu khoa học
ở nước ta, vì nhiều tác giả có xu hướng trích dẫn tài liệu theo những bài
báo khác, chứ không có tài liệu gốc, và hệ quả là nhiều phát biểu rất sai
lầm, một sai lầm mang tính truyền nhiễm.
3- Tôn trọng sự thật khách quan.
Làm khoa học là một hành trình đi tìm sự thật, khai hóa, truyền bá cái mà
chúng ta gọi là “văn minh”, và vì thế khoa học đặt sự thật trên hết và trước
hết, trước tất cả những định kiến cá nhân. Khoa học dựa vào những sự thật có
thể thấy, có thể nghe, có thể sờ được, chứ không dựa vào kinh nghiệm cá nhân
hay suy luận theo cảm tính. Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là
không chỉ sự thật, mà là sự thật có liên quan đến vấn đề đang được điều tra.
Những sự thật này phải được thu thập (i) có tổ chức, trực tiếp, và khách
quan; (ii) độc lập với lí thuyết; và (iii) một cách tin cậy để làm nền tảng
cho suy luận.
Một số sinh viên khi làm nghiên cứu chưa quán triệt văn hóa khoa học nên có
xu hướng sửa số liệu hay bỏ qua số liệu. Người viết bài này từng có một kinh
nghiệm thú vị: khi phân tích mối tương quan giữa lượng đường trong máu và độ
cholesterol trong máu, nhà nghiên cứu phát hiện một bệnh nhân với số liệu
“trệch hướng” với mô hình, và đơn phương quyết định bỏ số liệu của bệnh nhân
này để phân tích lại. Đây là một vi phạm nghiên trọng trong hoạt động khoa
học. Văn hóa khoa học không cho phép chúng ta làm như thế. Trong hoạt động
khoa học, tất cả những thất bại hay bất bình thường đều được khai thác, xem
xét kĩ lưỡng để học hỏi thêm. Có khi chính những dữ liệu bất thường này là
đòn bẫy để chúng ta phát hiện một cái mới thú vị khác. Thuốc viagra được
phát hiện một cách tình cờ vì phản ứng của thuốc không nằm trong “dự kiến”
của các nhà nghiên cứu. Nhiều khám phá khoa học bình thường đã được thực
hiện từ những dữ liệu bất bình thường như thế. Tôn trọng sự thật khách quan
để một cách nói rằng những giả thuyết sai lầm có thể cho ra những kết quả
đúng nhưng ngẫu nhiên; tuy nhiên, không một giả thuyết đúng nào có thể cho
ra những kết quả sai lầm.
4- Làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách
quan.
Trong khoa học, niềm tin và kinh nghiệm cá nhân không thể xem là khách
quan, và không thể làm nền tảng để hành động, nếu những kinh nghiệm đó chưa
qua thử nghiệm khách quan. Trong y khoa, học thuyết y học thực chứng
(evidence-based medicine) ra đời với phương châm thực hành lâm sàng phải dựa
vào bằng chứng đúc kết từ các nghiên cứu khoa học. Học thuyết này đã lan
rộng sang các ngành nghề khác như y tế công cộng, môi trường học, thậm chí
quản lí hành chính. Theo đó, chúng ta phải hành xử và phán xét dựa trên cơ
sở dữ kiện nghiên cứu, những dữ kiện được thu thập một cách khách quan, chứ
không dựa vào cảm tính hay theo phong trào hay áp lực.
Người Việt chúng ta còn quá quen với thói quen phát biểu theo kinh nghiệm cá
nhân, niềm tin, thậm chí theo cảm tính. Chẳng hạn như năm ngoái, khi bệnh xơ
hóa cơ delta bùng phát, một số chuyên gia phát biểu một cách khẳng định rằng
(“theo kinh nghiệm của tôi”) nguyên nhân bệnh là do tiêm chích thuốc nhiều
lần. Cần nói ngay rằng kinh nghiệm cá nhân dù rất quan trọng và có khi quí
báu, nhưng không thể thay thế cho các sự thật được đúc kết từ những nghiên
cứu khoa học khách quan.
Một kinh nghiệm trong y học trước đây cho thấy giải quyết vấn đề theo kinh
nghiệm và niềm tin cá nhân có thể gây ra nhiều tai họa nguy hiểm. Ở các nước
Tây phương khoảng 20 năm trước đây thay thế estrogen từng được xem là một
“thần dược” cho những phụ nữ sau mãn kinh, và các giáo sư y khoa tin vào
hiệu quả của thuốc này đến nỗi cảnh báo các sinh viên y khoa rằng nếu mai
đây khi hành nghề họ không sử dụng thuốc cho vài bệnh liên quan đến mãn kinh
là một cái tội! Cho đến khi khoảng cuối thập niên 1990s, nhiều nghiên cứu
khách quan cho thấy thay thế hormone có thể gây ra nhiều tác hại cho bệnh
nhân hơn là lợi ích.
Có lẽ thói quen thực hành dựa vào bằng chứng khách quan đã làm thiệt thòi y
học cổ truyền ở nước ta. Các thuật điều trị cổ truyền đã được thực hành qua
hàng nghìn năm, nhưng hiệu quả của chúng vẫn chưa được nghiên cứu một cách
có hệ thống. Chúng ta vẫn còn tin và hành xử theo tin đồn, theo truyền
thuyết, thậm chí theo những niềm tin dị đoan.
5- Hệ thống hóa những gì mình biết, không
giấu giếm.
Trong hoạt động khoa học, tất cả những giả thuyết, phương pháp nghiên
cứu, phương pháp phân tích, kết quả, và ý nghĩa của kết quả đều phải được hệ
thống hóa trong một báo cáo khoa học, và công bố cho toàn thế giới biết.
(Tất nhiên, đôi khi vì quyền lợi kinh tế và an ninh quốc gia, một số phương
pháp không được công bố). Đặc điểm “văn hóa mở” này rất quan trọng và có lẽ
là một yếu tố thúc đẩy phát triển khoa học ở các nước Tây phương. Đọc lại
những nghiên cứu khoa học đơn giản từ thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tôi không
khỏi thầm khen những ghi chép cẩn thận (có khi cẩn thận đến từng dấu chấm và
con số lẻ) của những nhà nghiên cứu thời đó, không có dấu diếm gì cả. Nhưng
ở nước ta, “văn hóa dấu nghề” hình như vẫn còn tồn tại trong không ít nhà
khoa học. Những câu chuyện về giáo sư cố tình không truyền hết kĩ năng cho
sinh viên và nghiên cứu sinh ở nước ta đôi khi nghe qua rất khôi hài, nhưng
rất tiếc là lại thực tế.
Trong hoạt động khoa học, báo cáo khoa học thường được gửi cho một tập san
chuyên ngành để đồng nghiệp có cơ hội thẩm định, và nếu không có vấn đề, sẽ
công bố để đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới biết được. Công bố báo cáo
khoa học trên các tập san chuyên môn còn là một hình thức “thử lửa” và bảo
đảm chất lượng của nghiên cứu. Trên bình diện quốc gia, công bố báo cáo khoa
học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự
hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước nhà. Ở phương Tây
người ta thường thống kê số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công
bố trên các tập chí chuyên ngành để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học
giữa các quốc gia.
Nhưng ở nước ta văn hóa công bố báo cáo khoa học trên trường quốc tế vẫn
chưa được hình thành rõ rệt. Phần lớn các công trình nghiên cứu tại nước ta
chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Thật vậy, phần lớn
các nghiên cứu khoa học ở nước ta chỉ được công bố trong các tập san nội địa
dưới hình thức bản tóm tắt hay không qua bình duyệt nghiêm chỉnh. Trong hoạt
động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án tiến
sĩ hay thạc sĩ , nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế
thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với
môi trường rộng lớn hơn.
Theo tác giả Phạm Duy Hiển (Tạp chí Tia Sáng số Tháng 6 năm 2005) trong năm
2003, các nhà khoa học Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tạp
chí hay tập san khoa học trong nước. Con số này rất ư là ấn tượng, song đó
chỉ là những bài báo “ta viết cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự
hiện diện của các nhà khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn. Vẫn theo tác giả
Phạm Duy Hiển, trong năm 2001 các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 354
bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, mà 71% con số này là do cộng tác
với các nhà khoa học ngoài Việt Nam. Trong ngành y khoa, trong suốt 40 năm
qua (tính từ 1965) các nhà khoa học tại Việt Nam chỉ có khoảng 300 bài báo
trên các tập san y sinh học quốc tế. Đó là những con số cực kì khiêm tốn,
nếu so sánh với Thái Lan (5000 bài) hay Singapore (20.000 bài).
6- Dân chủ.
Thật vậy, hoạt động khoa học là một môi trường dân chủ, hiểu theo nghĩa
tất cả các phát kiến của nhà khoa học đều được đồng nghiệp bình duyệt nghiêm
túc, và ngược lại, nhà khoa học cũng có cơ hội bình duyệt các nghiên cứu của
đồng nghiệp mình. Dân chủ trong khoa học còn có nghĩa một mô thức (paradigm)
nào đó được đa số cộng đồng khoa học chấp nhận, thì mô thức đó được xem là
chuẩn để thực hành. Nhưng đến khi mô thức đó được chứng minh không còn thích
hợp hay sai, thì vẫn theo tinh thần dân chủ, mô thức đó sẽ được thay đổi
bằng một mô thức mới.
Tinh thần dân chủ khoa học còn có nghĩa là các nhà khoa học lớn và có kinh
nghiệm phải lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học trẻ, chứ không có tình
trạng “cây đa cây đề” dùng uy tín cá nhân để lấn ép đồng nghiệp trẻ. Bất cứ
ai từng đi dự các hội nghị khoa học ở các nước Tây phương đều thấy những nhà
khoa học cao tuổi, những người mà chúng ta hay gọi là “cây đa cây đề” nghiêm
chỉnh lắng nghe đồng nghiệp trẻ trình bày, hay trả lời nghiêm chỉnh những
phê phán, phản biện từ đồng nghiệp trẻ đáng tuổi học trò hay con cháu mình.
Rất tiếc tinh thần dân chủ này chưa thể hiện rõ ở nước ta, vì vẫn còn khá
nhiều giáo sư lâu năm tự cho mình cái quyền lên lớp giới trẻ mà không chịu
lắng nghe hay đánh giá thấp ý kiến của giới trẻ. Có nhiều vị thậm chí không
chịu tiếp cận một cái nhìn mới về một vấn đề cũ, và hệ quả là các trao đổi
chỉ có một chiều, thiếu dân chủ, làm cho hoạt động khoa học mất hào hứng và
tất nhiên là thiếu dân chủ.
7- Kế thừa.
Điều đẹp nhất của văn hóa khoa học không chỉ là dân chủ mà còn mang tính
kế thừa, chuẩn bị cho một thế hệ tiếp nối. Không có kế thừa, khoa học sẽ là
đi vào bế tắc rất nhanh. Ở các nước phương Tây (như ở Úc nơi người viết bài
này đang làm việc), người ta có những kế hoạch cụ thể, kể lập ra những ngân
sách đặc biệt, để nuôi dưỡng thế hệ nghiên cứu khoa học trẻ, những người đã
có học vị tiến sĩ và đang làm nghiên cứu hậu tiến sĩ. Ngân sách này được
phân phối cho các trung tâm nghiên cứu có điều kiện và cơ sở vật chất để sử
dụng các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ và từng bước đào tạo họ thành những nhà
nghiên cứu độc lập, những con chim đầu đàn. Ngoài ra, trong các hội nghị
quốc gia, những “cây đa cây đề” thậm chí nhường những chức vụ và vai trò
quan trọng cho giới trẻ đảm trách để chuẩn bị họ cho một tương lai kế thừa
sự nghiệp của những người đang sắp về hưu.
Nhưng ở nước ta, việc chuẩn bị cho thế hệ kế tiếp vẫn còn là một … ý nguyện.
Nhiều nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản từ trong và ngoài nước vẫn chỉ
là những cái bóng bên cạnh các “cây đa cây đề”, chưa được giao những trọng
trách. Có người chờ đợi mòn mỏi, và không đủ kiên nhẫn (cũng không thể trách
họ) nên đành phải tìm cách ra nước ngoài và khả năng quay về nước thật thấp.
Hệ quả là ngày nay, chúng ta thường nghe đến tình trạng “lão hóa” trong đội
ngũ nghiên cứu khoa học nước nhà: trong khi những nhà khoa học lớn sắp về
hưu chúng ta vẫn chưa có một đội ngũ xứng đáng kế thừa. Theo thống kê năm
2000, chỉ có 15% thầy cô đại học có học vị tiến sĩ (một học vị cần thiết cho
nghiên cứu khoa học độc lập), và trong số mang hàm giáo sư, phần lớn ở độ
tuổi 60 – 65. Với một lực lượng yếu như thế, không ngạc nhiên chúng ta chưa
đủ khả năng để cạnh tranh trên trường quốc tế như là một tập thể. Sự hụt
hẫng này xảy ra vì văn hóa kế thừa trong khoa học ở nước ta chưa được hình
thành.
8- Trách nhiệm xã hội.
Bản chất của khoa học là nhân đạo, và vì thế hoạt động khoa học còn phải
có trách nhiệm với xã hội. Người làm khoa học, nói cho cùng, cũng là một
thành viên trong xã hội, chứ không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã
hội. Nhà khoa học phải thông qua các cơ chế dân chủ để truyền đạt tri thức,
để có tiếng nói; không thông qua các cơ chế này là biểu hiện của sự kiêu
ngạo. Trong thập niên 1960s, trước chiến dịch sử dụng chất độc da cam ở Việt
Nam, các nhà khoa học Mĩ cũng đã lên tiếng phản đối, và một số còn lên án
gay gắt hành động này và và yêu cầu Chính phủ Mĩ phải ngưng ngay việc dùng
hóa chất độc hại. Năm 1967, Hiệp hội vì Phát triển Khoa học Mĩ (American
Association for the Advancement of Science), với sự thúc đẩy của Giáo sư E.
W. Pfeiffer (Đại học Montana), khuyến cáo Bộ quốc phòng Mĩ về hậu quả lâu
dài cho người dân và môi sinh Việt Nam do chiến dịch phun hóa chất gây ra.
Mới đây, Việt Nam bàn thảo dự án xây một nhà máy điện hạt nhân, và các nhà
khoa học trong và ngoài nước cũng đã góp ý khá sôi nổi, và đó chính là một
cách thể hiện trách nhiệm xã hội của người làm khoa học. Trong thực tế,
không phải lúc nào các nhà khoa học cũng thành công trong việc thuyết phục
chính quyền, nhưng ai cũng nhất trí là nhà khoa học phải có trách nhiệm với
xã hội, và lên tiếng là một điều cần thiết.
***
Những đặc điểm mà tôi vừa nêu có lẽ chưa hoàn toán đầy đủ, nhưng thiết nghĩ
cũng nói lên được những khía cạnh cơ bản của văn hóa khoa học. Tất nhiên,
văn hóa khoa học có thể khác nhau giữa các quốc gia, nhưng các đặc điểm phổ
quát mà đại đa số những người làm khoa học chấp nhận. Nhìn qua những đặc
điểm trên, chúng ta thấy văn hóa khoa học thực chất là những mô thức, những
“mốt” mà con người và xã hội tiếp nhận khoa học và công nghệ.
Văn hóa khoa học có ảnh hưởng đến văn hóa và xã hội nói chung. Chẳng hạn như
trong y học có văn hóa y học, và một trong những đặc điểm của văn hóa đó là
thực hành lâm sàng theo bằng chứng nghiên cứu khoa học (tức là y học thực
chứng), nhưng văn hóa này còn ảnh hưởng đến các hoạt động khác ngoài y học,
kể cả hoạt động chính trị. Đó cũng là một đóng góp gián tiếp của văn hóa
khoa học cho văn hóa xã hội.
Trong thập niên vừa qua, văn hóa khoa học đã trở thành một “đề án” được thảo
luận rộng rãi ở các nước Tây phương. Phần lớn giới hoạch định chính sách
quốc gia xem văn hóa khoa học là một yếu tố trong phát triển kinh tế và phát
triển xã hội. Đối với giáo dục, văn hóa khoa học là một điều kiện cơ bản và
cần thiết mà người dân cần có để hiểu các vấn đề khoa học của xã hội hiện
đại, và từ đó mỗi công dân có thể đóng góp một vai trò tích cực cho tranh
luận xã hội. Dưới cái nhìn của các nhà xã hội học và sử gia Tây phương, văn
hóa khoa học là một điều kiện tất yếu cho phát triển kinh tế và sáng tạo.
Kinh nghiệm từ các nước Tây phương tiên tiến cho thấy khoa học và văn hóa
khoa học không chỉ sản sinh ra một số giá trị mới để hiểu thế giới chung
quanh, mà còn thay đổi mục tiêu của hoạt động kinh tế, và thay đổi xã hội
thành mội môi trường khoa học hiện đại, và qua đó thúc đẩy hoạt động khoa
học.
Nếu kinh nghiệm của các nước Tây phương là một bài học, sự phát triển khoa
học và kinh tế ở nước ta không chỉ phụ thuộc vào việc ta có ít hay nhiều
viện nghiên cứu hay nhiều tiền, mà chủ yếu phụ thuộc vào văn hóa khoa học.
Có thể nói từ xưa, nước ta không có một truyền thống khảo cứu khoa học. Lịch
sử Việt Nam cho thấy nước ta có nhiều anh hùng quân sự, nhà thơ, nhà sử học,
nhưng rất ít nhà khoa học, kĩ sư hay nhà kinh tế. Hệ thống giáo dục của nước
ta ngày xưa được mô phỏng theo hệ thống giáo dục của Trung Quốc. Hệ thống
này đòi hỏi người học sinh phải tuân theo sách vở một cách máy móc, và không
khuyến khích sự tự do tìm tòi, thử nghiệm. Nó ca ngợi sự học thuộc lòng
những điều chỉ dạy của Khổng Tử, và khinh bỉ những ai làm nghề tay chân (kĩ
sư, khoa học gia, công nhân, nông dân, v.v…) hay làm thương mại. Khi người
Pháp vào Việt Nam, hệ thống giáo dục Trung Quốc được thay thế bằng hệ thống
giáo dục Pháp, phải nói là có “tiến bộ” hơn, vì những tri thức khoa học và
kĩ thuật được đưa vào một cách có hệ thống hơn, nhưng cũng, một phần lớn,
chỉ để phục vụ cho thực dân. Với cả một hệ thống giáo dục, học sinh phải học
thuộc lòng sách giáo khoa nhằm cố thi đỗ trong các kỳ thi rất gắt gao. Cách
giáo dục "độc thoại" và "thụ động" này làm cho người học sinh nản lòng đi
tìm hiểu, chất vấn những sự việc, hiện tượng chung quanh xảy ra như thế nào
và tại sao. Hậu quả là nhiều thế hệ học sinh thụ động, kém tưởng tượng,
không phát triển được kĩ năng thực hành, sáng tạo và tính chủ động, tự lập;
không có cơ hội nghiên cứu khoa học. Do đó, phần lớn những kiến thức về Việt
Nam, dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa
học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam.
Xã hội Việt Nam về căn bản vẫn là một xã hội nông nghiệp, và chúng ta thường
quen với những ước lệ chung chung, tư duy trung bình, xu hướng ổn định
(không muốn tìm thêm vấn đề!), thiếu tiêu chuẩn cụ thể, vẫn dựa vào các giá
trị truyền thống chưa từng qua thử nghiệm khoa học, vẫn xem thường văn hóa
“cân đo đong đếm”, hay nói chung là vẫn chưa hình thành một văn hóa khoa
học. Nhưng có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng văn hóa Việt Nam đang chuyển
mình trước thời kì mới, và cũng như trong quá khứ cứ mỗi lần chuyển mình,
chúng ta tiếp thu một số đặc điểm văn hóa mới. Trong thời kì hội nhập quốc
tế như hiện nay, chúng ta rất cần phát triển một văn hóa khoa học như là một
bộ phận của văn hóa dân tộc.
Vì thế, để phát triển kinh tế xã hội, chúng ta rất cần hình thành văn hóa
khoa học. Ngày nay, chúng ta nói rất nhiều đến đổi mới tư duy kinh tế, nhưng
tôi thấy ít người nhắc đến văn hóa khoa học. Theo đó, phải dứt khoát đoạn
tuyệt với hình thức chủ nghĩa (như hám bằng cấp, học hành tài tử hiện đang
còn rất phổ biến trong người Việt). Thay vào đó là trang bị văn hóa tìm tòi
cho mỗi học sinh khi họ cắp sách đến trường, trang bị cho họ tư duy ham hiểu
biết, say mê sáng tạo, trọng phương pháp, sẵn sàng thích ứng với môi trường
mới, dân chủ, và có ý thức trách nhiệm với xã hội và đồng bào. Người có văn
hóa khoa học phải có can đảm tôn trọng sự thật khách quan, không câu nệ chủ
nghĩa giáo điều, hay thành kiến dân tộc; phải có tự tin và sáng tạo, không
máy móc đi theo đường mòn, không làm theo sách vở một cách máy móc; luôn
luôn tìm tòi học hỏi; biết áp dụng tinh thần khách quan và khoa học vào mọi
phương diện của đời sống cá nhân và xã hội, không phải chỉ trong phạm vi
chuyên môn; và phải biết hợp tác, và ở một số người, biết lãnh đạo theo
những nguyên tắc dân chủ văn minh.
Để đo lường trình độ văn hóa đó, chúng ta cần phát triển những tiêu chuẩn
khách quan để đánh giá trình độ văn hóa khoa học qua những chỉ tiêu đầu vào
(như số nhà khoa học, kĩ sư, chuyên gia; số trung tâm nghiên cứu khoa học
nghiêm chỉnh; đầu tư cho khoa học; v.v…), hoạt động (đào tạo, đề bạt, hiểu
biết về khoa học trong công chúng, báo chí khoa học, v.v…), và đầu ra (bằng
sáng chế, bài báo khoa học, thành tựu trong ứng dụng khoa học, thương mại
hóa, v.v…). Chỉ khi nào chúng ta hình thành được một văn hóa khoa học thì
mới có thể tạo ra một bước tiến mới cho khoa học Việt Nam.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Văn Tuấn
|