Mới
đây trên Tạp chí Hoạt động Khoa học, tác giả Phạm
Duy Hiển nêu vấn đề về sự có mặt rất khiêm tốn của
các nghiên cứu khoa học Việt Nam trên các tập san
khoa học quốc tế. Đây là một ưu tư rất chính đáng.
Trong ngành y sinh học, trong vòng 40 năm qua, số
lượng bài báo từ các nhà khoa học ở Việt Nam chỉ
trên dưới con số 300. Con số này cực kì khiêm tốn
nếu so với 5.000 từ Thái Lan hay trên 20.000 từ
Singapore. Trong thực tế, ở nước ta có nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị và hấp dẫn, nhưng ít khi
nào có mặt trên trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là
tại sao có tình trạng này, và làm sao chúng ta có
thể cải thiện tình thế.
Qua kinh nghiệm
cá nhân và tiếp xúc với đồng nghiệp trong nước,
người viết bài này tin rằng một phần của vấn đề là
các nhà khoa học nước ta thiếu kĩ năng phân tích dữ
kiện và thiếu kĩ năng thông tin (communication
skill). Về phân tích số liệu, tôi sẽ bàn trong một
dịp khác, ở đây tôi chỉ bàn đến vấn đề thông tin, mà
cụ thể là soạn một bài báo khoa học.
Đại đa số các tập
san khoa học quốc tế sử dụng tiếng Anh để truyền đạt
thông tin. Một phần không nhỏ các nhà khoa học nước
ta chưa quen với tiếng Anh, và đó là một trở ngại
lớn. Nhưng ngay cả trong số các nhà khoa học thạo
tiếng Anh, thì họ lại thiếu kĩ năng viết báo khoa
học. Bài viết này muốn góp một phần nhỏ trong nỗ
lực cải thiện tình thế đó, bằng cách chia sẻ một số
kinh nghiệm viết báo cáo khoa học với các đồng
nghiệp và bạn trẻ trong nước. Bài viết này chỉ là
một tóm lược của một tài liệu bằng tiếng Anh dài hơn
(khoảng 40 trang) mà người viết dùng để giảng dạy
cho các nghiên cứu sinh ở Mĩ và Úc. Bạn đọc muốn có
tài liệu đó xin liên lạc riêng với tác giả tại địa
chỉ t.nguyen@garvan.org.au.
***
Tại sao phải công bố
báo cáo khoa học?
Trong
hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài báo khoa học
đóng một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là
một bản báo cáo về một công trình nghiên cứu, mà còn
là một đóng góp cho kho tàng tri thức của thế giới.
Khoa học tiến bộ cũng nhờ một phần lớn vào thông tin
từ những bài báo khoa học, bởi vì qua chúng mà các
nhà khoa học có dịp trao đổi, chia sẻ và học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau.
Một công trình
nghiên cứu thường được tài trợ từ các cơ quan nhà
nước, và số tiền này là do dân chúng đóng góp. Khi
tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ
đến sự tham gia của tình nguyện viên hay của bệnh
nhân. Trong trường hợp đó, tình nguyện viên và bệnh
nhân phải bỏ thì giờ, tạm bỏ qua công ăn việc làm để
tự nguyện cung cấp thông tin và có khi hi sinh một
phần da máu cho nhà nghiên cứu. Nếu một công trình
nghiên cứu đã hoàn tất mà kết quả không được công
bố, thì công trình nghiên cứu đó có thể xem là có
vấn đề về y đức và đạo đức khoa học, và nhà nghiên
cứu có thể xem như chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình
với sự đóng góp của quần chúng. Do đó, báo cáo khoa
học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một
nghĩa vụ của nhà
nghiên cứu, là một cách gián tiếp cám ơn sự đóng góp
của bệnh nhân và giúp đỡ của dân chúng qua sự quản
lí của nhà nước.
Đối với cá nhân nhà
khoa học, báo cáo khoa học trên các tập san khoa học
quốc tế là một “currency” (đơn vị tiền tệ). Đó là
những viên gạch xây dựng sự nghiệp của giới khoa
bảng. Tại các đại học Tây phương, số lượng và chất
lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một trong
việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư. Vì
thế công bố báo cáo khoa học, đối với giới khoa bảng
Tây phương, là một việc làm ưu tiên hàng đầu của
họ. Chính vì thế mà các đại học Tây phương có cái
văn hóa gọi là “publish or perish” (xuất bản hay là
tiêu tan). Nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa
bảng không có một bài báo nào đăng trên các tập san
khoa học quốc tế, ban giám hiệu sẽ mời vị đó trả lời
câu hỏi “tại sao”. Nếu có lí do chính đáng thì còn
giữ chức vụ; nếu không có lí do chính đáng thì có
nguy cơ mất chức như bỡn.
Nói tóm lại,
báo cáo khoa học trên các diễn
đàn khoa học quốc tế (không chỉ ở trong nước)
là một việc làm chính yếu, một
nghĩa vụ, và một điều kiện để tồn tại của một nhà
khoa học. Nhưng từ lúc tiến hành nghiên cứu,
thu thập dữ kiện đến lúc có báo cáo là một quá trình
gian nan. Một công việc còn gian nan hơn nữa là làm
sao đảm bảo báo cáo được đăng trên một tập san khoa
học có uy tín trên thế giới. Vì thế, các nhà khoa
học cần phải đặc biết chú ý đến việc soạn thảo một
báo cáo khoa học sao cho đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Bài viết này mách bảo một cách thân mật những “mẹo”
và kĩ năng để đạt tiêu chuẩn đó.
Báo cáo khoa học:
khổ hạnh
Mỗi bài báo khoa học
là một công trình khổ hạnh. “Khổ hạnh” ở đây phải
được hiểu theo nghĩa vừa đau khổ, vừa hạnh phúc.
Đau khổ trong quá trình chuẩn bị và viết thành một
bài báo, và hạnh phúc khi nhìn thấy bài báo được
công bố trên một tập san có nhiều đồng nghiệp đọc và
chia sẻ. Để đạt kết quả sau cùng này, tác giả phải
phấn đấu làm sao để giữ sự cân bằng giữa tính trong
sáng và [nhưng] nội dung phải đầy đủ. Bài báo phải
làm sao hấp dẫn người đọc và để người đọc “nhập
cuộc”. Bài báo phải được viết bằng một văn phong
cực kì súc tích, nhưng phải đầy đủ. Đó là những yêu
cầu rất khó mà không phải tác giả nào cũng đạt được.
Nếu không tiếp cận
vấn đề một cách có việc hệ thống, tất cả những nỗ
lực cho một bài báo khoa học có thể trở nên vô dụng,
thậm chí đem lại ảnh hưởng xấu vì một công trình
nghiên cứu sẽ không có cơ hội xuất hiện trên các tập
san chuyên môn. Mặc dù
ở các nước
phương Tây, người ta đã có nhiều
bài viết
chỉ dẫn
– thậm chí cả sách dạy – cách viết một bài báo khoa
học, nhưng ở nước ta, hình như vẫn chưa có một tài
liệu chỉ dẫn như thế. Bài viết này, vì thế, được
soạn ra nhằm mục đích duy nhất là cung cấp cho bạn
đọc những chỉ dẫn đơn giản và thực tế để sao cho bạn
đọc có thể tự mình viết một bài báo khoa học đạt yêu
cầu của các tập san khoa học quốc tế.
Vạn sự khởi đầu
nan …
Viết một bài báo tốt
là một việc làm không đơn giản chút nào, nếu không
muốn nói là phức tạp. Nó đòi hỏi người viết phải
sáng tạo và suy tưởng … trong lặng lẽ. Con đường
dẫn đến một sản phẩm hoàn hảo không bao giờ là một
con đường thẳng, mà là một con đường với nhiều ngõ
ngách, nhiều đường cùng, và nhiều chông gai. Nói
một cách ngắn gọn, viết cần phải có thời gian.
Thành ra, cách tốt nhất là phải khởi công viết càng
sớm càng tốt, đừng bao giờ để cho đến giai đoạn cuối
của nghiên cứu mới viết.
Tác giả có thể viết
ngay những phần cần viết ra của bài báo trong khi
công trình nghiên cứu vẫn còn tiến hành. Phát họa
ra phần dẫn nhập (introduction) ngay từ khi
công trình nghiên cứu đang được thai nghén. Viết
phần phương pháp (methods) ngay trong khi
công trình nghiên cứu còn dở dang. Làm đến đâu,
viết ngay đến đó. Sau cùng là một phát họa những
biểu đồ, bản thống kê cần phải có trong bài báo.
Viết ra những ý
tưởng và phương pháp sớm giúp cho nhà nghiên cứu rất
nhiều trong những lần sửa chữa sau này. Chẳng hạn
như làm sáng tỏ động cơ và lí do nghiên cứu trong
phần dẫn nhập giúp cho nhà nghiên cứu nhận ra bối
cảnh mà công trình nghiên cứu có thể đóng vai trò.
Viết ra những phương pháp nghiên cứu giúp cho nhà
nghiên cứu khỏi phải tốn công xây dựng lại những
bước đi, những thủ tục mà công trình nghiên cứu đã
hoàn tất. Việc phát thảo ra những biểu đồ và bản số
liệu giúp cho nhà nghiên cứu tập trung vào nỗ lực
phân tích dữ kiện. Và quan trọng hơn hết, khi ngồi
xuống viết, tự việc làm đó, tạo cơ hội cho [hay nói
đúng hơn là bắt buộc] nhà nghiên cứu phải suy nghĩ
nghiêm túc về việc làm của mình.
Một điều quan trọng
khác là tác giả cần phải bỏ ra một thời gian tịnh
tâm suy nghĩ về cái thông điệp của công trình nghiên
cứu cho cộng đồng khoa học. Trong phần này, tác giả
nên chịu khó viết ra những điểm chính nhằm trả lời
những câu hỏi sau đây: tại
sao mình làm những gì mình đã làm; thực tế mình đã
làm gì; mình phát hiện điều gì mới lạ; và những điều
này có ý nghĩa gì?
Tập trung vào
những thông tin chính
Mặc dù thành phần
độc giả của các tập san khoa học có thể rất đa dạng,
một đặc tính mà giới chuyên môn đều có chung là: bận
rộn. Giới khoa học gia, bác sĩ, kĩ sư, nhà quản lí,
lãnh đạo … có lẽ chỉ nhìn qua bài báo khoa học một
cách nhanh chóng, chứ ít khi nào có thì giờ nghiền
ngẫm từng chi tiết trong bài báo. Tuy rằng phần lớn
tác giả nghiên cứu biết điều này, nhưng họ có thể
không nghĩ đến khi đặt bút xuống soạn bài báo khoa
học. Do đó, tác giả nên tự đặt mình vào vai trò của
người đọc và suy nghĩ như người đọc bằng cách chú ý
đến những gì mà người đọc muốn tìm hiểu:
tựa đề bài báo, bản tóm tắt
(abstract), những bản số liệu, và biểu đồ.
Tựa đề và tóm tắt
Tựa đề và bản tóm
tắt là hai phản chiếu đầu tiên đập vào mắt của người
đọc. Đây cũng là phần mà đại đa số người
đọc đọc trước khi quyết định có nên đọc tiếp hay
không. Tất nhiên, tựa đề và bản tóm tắt là hai phần
được đưa vào danh mục của thư viện điện tử. Do đó,
nhà nghiên cứu cần phải để tâm suy nghĩ cẩn thận khi
soạn hai phần này sao cho thu hút sự chú ý của người
đọc. Hai phần này cần phải được viết trước hết,
trước khi cả đặt bút viết các phần khác của bài báo.
Bảng số liệu và
biểu đồ
Yếu tố thị giác rất
quan trọng. Nếu người đọc quyết định đọc bài báo
(sau khi đã xem qua tựa đề và bản tóm tắt), họ sẽ
tiếp tục xem đến các bảng thống kê và biểu đồ. Các
bảng thống kê số liệu thường được dùng để trình bày
những số liệu mang tính trang trọng, tính chính xác
cao, tính chính thức. Các bảng thống kê có thể dùng
để tổng hợp và so sánh số liệu của các công trình
nghiên cứu trong quá khứ, để giải thích mối liên hệ
giữa các nhân tố trong công trình nghiên cứu, hay
trình bày những câu hỏi đã được sử dụng trong công
trình nghiên cứu.
Người Trung Hoa từng
nói “Một biểu đồ có giá trị bằng một vạn chữ viết.”
Mục đích của biểu đồ là cung cấp một ấn tượng về
phát hiện chính của công trình nghiên cứu. Biểu đồ
có khi được dùng làm tài liệu giảng dạy. Vì thế
biểu đồ là một phương tiện hữu hiệu nhất để nhấn
mạnh thông điệp của bài báo. Biểu đồ thường được sử
dụng để thể hiện xu hướng và kết quả cho từng nhóm,
nhưng cũng có thể dùng để trình bày dữ kiện một cách
gọn gàng. Các biểu đồ dễ hiểu, nội dung phong phú
là những phương tiện vô giá. Do đó, nhà nghiên cứu
cần phải suy nghĩ một cách sáng tạo cách thể hiện số
liệu quan trọng bằng biểu đồ.
Phát thảo một
cách làm có hệ thống
Tiếp cận và phác họa
cấu trúc của một bài báo trước khi đặt bút viết tạo
điều kiện dễ dàng cho tác giả sau này. Bước đầu
tiên đòi hỏi tác giả phải biết tập san mà mình muốn
gửi bài báo, bởi vì mỗi tập san có những yêu cầu
khác nhau về hình thức cũng như nội dung. Một khi
đã xác định được tập san đối tượng, tác giả cần phải
xem qua phong cách và hình thức bài báo mà tập san
đó qui định. Đặc biệt là phải xem qua các bài báo
đã được công bố trên tập san đó, như số lượng chữ là
bao nhiêu, biểu đồ phải trình bảy như thế nào, bảng
số liệu phải viết ra sao, trình bày phần tài liệu
tham khảo theo cách gì, v.v... Phần lớn các tập san
y khoa và sinh học đều tuân thủ theo các qui định
được công bố trong tài liệu Uniform Requirements
for Manuscripts Submitted to Biomedical Journals.
Có nhiều “chiến
lược” để thu hút người đọc theo dõi bài báo của
mình. Cách tốt nhất và hiệu quả nhất có lẽ là ngắn
gọn. Không nên nhầm lẫn giữa sự phức tạp với tính
tinh vi. Câu văn cần phải ngắn gọn, đơn giản, nhưng
chính xác và trực tiếp đi thẳng vào vấn đề. Cũng
cần phải nhận thức rằng có được một bài báo khúc
chiết như thế không phải là điều dễ dàng chút nào —
nó đòi hỏi nhiều thời gian và suy nghĩ.
Một bài báo khoa học
hay cũng cần phải được cấu trúc gọn gàng. Mỗi đoạn
văn cần phải có một mục đích hay phải nói lên được
một ý tưởng. Mỗi câu văn phải phục vụ cho mục đích
đó. Các đoạn văn phải liên kết với nhau thành một
chuỗi ý tưởng phản ánh lí luận cho một thông điệp
nào đó. Cách tổ chức hiển nhiên cho một bài báo
khoa học đạt là cấu trúc mà các tập san y khoa và
sinh học thường sử dụng: dẫn nhập, phương pháp, kết
quả, và thảo luận. Cấu trúc này còn được gọi bằng
tiếng Anh là IMRAD (Introduction Methods Results And
Discussion).
Dẫn nhập
“Nhiệm vụ” thiết yếu
nhất trong phần dẫn nhập là phải làm sao làm cho
người đọc tiếp nhận bài báo và quan tâm đến kết quả
của công trình nghiên cứu. Hơn nữa, phần dẫn nhập
còn giúp cho người bình duyệt bài báo hay tổng biên
tập tập san thẩm định tầm quan trọng của bài báo.
Trong phần dẫn nhập, tác giả phải nói rõ tại sao
công trình nghiên cứu ra đời và tại sao người đọc
phải quan tâm đến công trình đó. Sơ đồ 1 sau
đây phác họa cái khung cho phần dẫn nhập được viết
với 3 đoạn văn.
Đọan văn thứ nhất mô
tả một vấn đề chung hay yếu tố chung làm động cơ cho
công trình nghiên cứu. Đặc biệt là câu văn đầu tiên
phải “mạnh mẽ” và làm sao thu hút chú ý của người
đọc. Đoạn văn thứ hai tập trung vào vấn đề cụ thể
mà công trình nghiên cứu phải giải quyết. Trong
đoạn văn này, tác giả có thể nêu ra những vấn đề mà
người đọc có thể chưa từng biết qua. Đoạn văn thứ
hai cũng cần nêu lên cái khoảng trống tri thức mà
cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Đoạn văn thứ
ba mô tả các mục tiêu của công trình nghiên cứu.
Phần dẫn nhập phải được làm sao mà đọc đến đoạn thứ
ba, người đọc cảm thấy háo hức và thiết tha đọc các
phần kế tiếp của bài báo.
Sơ đồ 1.
Khung bài cho phần dẫn nhập (3 đoạn văn)
Đoạn văn |
Câu hỏi |
Ví dụ |
Ví dụ 1 |
Ví dụ 2 |
Ví dụ 3 |
1 |
Vấn đề chung
là gì, tình hình hiện nay ra sao?
|
Loãng xương
là một bệnh nghiêm trọng trong người có tuổi
vì nó là nguyên nhân dẫn đến gãy xương. |
Có nhiều
bằng chứng cho thấy carotid endarterectomy
có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim. |
Tiểu đường
thận (diabetic nephropathy) là nguyên nhân
số một của bệnh thận vào giai đoạn cuối. |
2 |
Vấn đề cụ
thể là gì, và trong kho tàng tri thức còn
khoảng trống nào? |
Mật độ xương
(BMD) là một yếu tố quan trọng trong việc
chẩn đoán loãng xương trong người Âu Mĩ.
Tuy nhiên trong người Việt sự chính xác của
BMD trong việc tiên đoán gãy xương vẫn chưa
được nghiên cứu. |
Thông tin về
carotid endarterectomy vẫn còn rất hạn chế.
Do đó, cho đến nay quyết định liên quan đến
phẫu thuật này vẫn còn chưa được rõ ràng. |
Mặc dù
microalbumin được đề nghị dùng để truy tìm
bệnh tiểu đường thận, nhưng phần lớn bác sĩ
vẫn không tuân theo qui định chung này.
|
3 |
Thế thì công
trình nghiên cứu này sẽ đóng góp gì ?
|
Nghiên cứu
khả năng ứng dụng BMD trong người Việt hay
một dân số khác sẽ giúp cho việc phát triển
một tiêu chuẩn chẩn đoán mới. |
Để giúp cho
bác sĩ thẩm định lợi ích của carotid
endarterectomy, chúng tôi tính toán số ca
phẫu thuật cần thiết để ngăn ngừa một ca
bệnh tim trong những điều kiện khác nhau. |
Nhằm mục
đích phát triển một phương pháp mới và đơn
giản hơn cho việc chẩn đoán tiểu đường thận,
chúng tôi ứng dụng một mô hình quyết định
(decision making model) và phân tích hệ quả
của thuật chữa trị ACE |
Phương pháp
Phần phương pháp
phải cung cấp một cách chi tiết những gì tác giả đã
làm và làm như thế nào trong công trình nghiên cứu.
Ở đây, tác giả phải cẩn thận quân bình giữa hai nhu
cầu: súc tích (vì không thể mô tả tất cả các kĩ
thuật với những chi tiết chi li) và đầy đủ (tác giả
phải trình bày đầy đủ thông tin sao cho người đọc
biết được những gì đã làm). Đạt được sự cân đối
giữa súc tích và đầy đủ là một thách thức của người
viết, và có thể của cả biên tập và nhà xuất bản.
Phần ph ương
pháp cần phải cho người
đọc những thông tin liên quan đến tính khái quát hóa
(chẳng hạn như
đối tượng
nghiên cứu
là ai, có tiêu chuẩn nào tuyển chọn đối tượng hay
không, hay cách thức chọn mẫu như thế nào …)
Có thể bài báo đề ra
một phương pháp mới, và trong trường hợp đó, tác giả
cần phải chú ý những tên gọi (và ý tưởng) xuất hiện
nhiều lần trong bài báo. Tác giả nên suy nghĩ kĩ về
những tên gọi này: phải dùng chữ ngắn gọn mà dễ
hiểu. Nên gọi phương pháp điều trị là gì? Phải sử
dụng từ gì để mô tả chỉ tiêu của nghiên cứu? Kinh
nghiệm người viết bài này cho thấy trước khi viết
cần phải liệt kê ra danh sách những từ hay sử dụng
trong bài báo. Không có gì lẫn lộn và khó chịu
người đọc hơn là dùng nhiều từ khác nhau để gọi một
hiện tượng!
Một cấu trúc cứng
nhắc sẽ làm cho phần phương pháp trở thành máy móc.
Nhưng đó lại là cấu trúc mà các tập san y khoa đòi
hỏi cho các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên
(randomized clinical trial). Trong cấu trúc này,
tác giả phải viết dưới các tiêu đề như khái quát,
nơi làm nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn đối tượng,
chỉ tiêu chính của nghiên cứu, chỉ tiêu phụ, cách đo
lường, phương pháp phân tích dữ kiện ...
Trong các nghiên cứu
khác, tác giả có thể tự mình sáng tạo ra những tiêu
đề thích hợp với công trình nghiên cứu. Ngay cả nếu
tác giả sau này phải xóa bỏ các tiêu đề này thì sự
bố cục của chúng giúp ích cho tác giả rất nhiều. Có
thể dùngmột biểu đồ nh ư
là một cách
mô tả qui trình nghiên cứu
(chẳng hạn như thiết kế, tuyển chọn bệnh nhân, và
phân tích dữ kiện). Nếu cần, tác giả có thể thêm
phần phụ lục để cung cấp chi tiết về phương pháp
phân tích, mã (codes) dùng trong máy tính, hay
phương pháp thu thập dữ kiện cùng phương pháp đo
lường (đây là những phương pháp có thể giúp cho
người duyệt bài hay người đọc có thể lặp lại thử
nghiệm).
Kết quả
Phần kết quả phải
được viết một cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề
nêu ra trong phần dẫn nhập. Tác giả phải trả lời
cho được câu hỏi “Đã phát hiện gì?” Cần phải phân
biệt rõ đâu là kết quả chính và đâu là kết quả phụ.
Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng số liệu, và
những dữ kiện này phải được diễn giải một cách ngắn
gọn trong văn bản. Những số liệu này phải trình bày
sao cho lần lượt trả lời các mục đích mà tác giả đã
nêu ra trong phần dẫn nhập.
Tất cả các bảng
thống kê, biểu đồ, và hình ảnh phải được chú thích
rõ ràng; tất cả những kí hiệu phải được đánh vần hay
chú giải một cách cụ thể để người đọc có thể hiểu
được ý nghĩa của những dữ kiện này. Trong phần kết
quả, tác giả chỉ trình bày sự thật và chỉ sự thật
(facts), kể cả những sự thật mà nhà nghiên cứu không
tiên đoán trước được hay những kết quả “tiêu cực”
(ngược lại với điều mình mong đợi). Trong phần kết
quả, tác giả không nên bình luận hay diễn dịch những
kết quả này cao hay thấp, xấu hay tốt, v.v.. vì
những nhận xét này sẽ được đề cập đến trong phần
thảo luận (Discussion).
Thảo luận
Đối với phần lớn nhà nghiên cứu, đây là phần khó
viết nhất vì nó không có một cấu trúc cố định nào
cả. Nói một cách ngắn gọn, trong phần này, tác giả
phải trả lời câu hỏi “Những phát hiện này có nghĩa
gì?”. Tuy không phải theo cấu trúc cố định nào, tác
giả có kinh nghiệm thường viết thảo luận theo một
cấu trúc như sau: (a) giải thích những dữ kiện trong
phần kết quả; (b) so sánh những kết quả này với các
nghiên cứu trước; (c) bàn về ý nghĩa của những kết
quả; (d) chỉ ra những ưu điểm và khuyết điểm của
cuộc nghiên cứu; (e) và sau cùng là một kết luận sao
cho người đọc có thể lĩnh hội được một cách dễ
dàng.
Trong phần thảo luận, tác giả phải giải thích, hay
đề nghị một mô hình giải thích, tại sao những dữ
kiện thu thập được có xu hướng đã quan sát trong
cuộc nghiên cứu. Nếu không giải thích được thì nhà
nghiên cứu phải thành thật nói y như thế: không
biết. Tác giả còn phải so sánh với kết quả của
những nghiên cứu trước và giải thích tại sao chúng
(những kết quả) khác nhau, hay tại sao chúng lại
giống nhau, và ý nghĩa của chúng là gì. Ngoài ra,
nhà nghiên cứu còn phải có trách nhiệm tự mình vạch
ra những thiếu sót, những trắc trở, khó khăn trong
cuộc nghiên cứu, cùng những ưu điểm của cuộc nghiên
cứu, cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục hay
những đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai.
Sơ đồ 2 sau đây có thể dùng để làm dàn bài để
viết phần thảo luận.
Sơ đồ 2.
Khung bài cho phần thảo luận
Câu hỏi
cần phải trả lời |
Nội dung |
Phát hiện
chính là gì? |
Phát biểu
những phát hiện chính; đặt những phát hiện
này vào bối cảnh của các nghiên cứu trước
đây. |
Phát hiện đó
có khả năng sai lầm không ? |
Xem xét
những yếu tố sau đây: thiếu khách quan trong
đo lường và thu thập số liệu? Số lượng đối
tượng ít? Cách chọn mẫu có vấn đề? Các yếu
tố khác chưa xem xét đến? Phân tích chưa đầy
đủ? Chưa điều chỉnh cho các yếu tố phụ?
V.v… |
Ý nghĩa của
phát hiện là gì? |
Đặt kết quả
của nghiên cứu vào bối cảnh lớn hơn, và so
sánh với các nghiên cứu trước đây. Suy luận
về cơ chế (nhưng không nên quá lời hay quá
xa xỉ trong khi suy luận, mà phải nằm trong
khuôn khổ của dữ kiện thật). |
Kết luận có
phù hợp với dữ kiện hay không? |
Kết luận
phải rõ ràng, nhưng không nên đi ra ngoài
khuôn khổ của dữ kiện. Chẳng hạn như nếu
kết quả cho thấy hút thuốc lá làm tăng ung
thư phổi, tác giả không nên kết luận rằng
ngưng hút thuốc lá sẽ giảm ung thư phổi. |
Hỗ trợ từ đồng
nghiệp
Những bài báo khoa
học có giá trị thường là những bài báo đã được xem
xét và duyệt đi duyệt lại nhiều lần, kể cả những lần
phản hồi (response) hay phản biện lại những phê bình
của những người bình duyệt. Điều này đòi hỏi bài
báo, trước khi gửi đi cho một tập san, phải được các
đồng nghiệp nội bộ đọc và phê bình. Tác giả không
nên ngần ngại tiếp nhận những phê bình gay gắt từ
đồng nghiệp. Để làm việc này, tác giả cần phải có
một danh sách những đồng nghiệp có thể duyệt bài.
Những đồng nghiệp này không hẳn phải là những tên
tuổi lớn như giáo sư, mà có thể là nghiên cứu sinh.
Thật ra, các giáo sư ít khi nào có thì giờ đọc kĩ;
chính các nghiên cứu sinh hay đồng nghiệp cấp thấp
thường là những người có khả năng và có thì giờ chăm
chú, có động cơ để cho ý kiến một cách nghiêm chỉnh.
Có hai nhóm đồng nghiệp có thể làm người duyệt bài
nội bộ:
* Những người
bình duyệt chung, nhiệm vụ chính của họ là xem
xét cách viết của tác giả có dễ hiểu hay không. Bất
cứ ai, kể cả những người không cùng chuyên môn, cũng
có thể là người duyệt bài trong nhóm này, nhưng
người duyệt bài lí tưởng nhất là người có nỗ lực suy
nghĩ cẩn thận.
* Những người
bình duyệt có cùng chuyên môn, nhiệm vụ của họ
là giúp tác giả chuẩn bị để đối phó với những người
bình duyệt của tập san và ban biên tập. Trong nhóm
này, tác giả cần một hay hai thành viên trong cùng
chuyên môn và có khả năng “soi mói” chi tiết hay nêu
ra những sai sót của bài báo hay công trình nghiên
cứu (chẳng hạn như nghiên cứu có đúng phương pháp
không, diễn dịch có logic không, kết luận có đi ra
ngoài dữ kiện không …). Trong nhóm này, người duyệt
lí tưởng là một người "khó tính " sẵn sàng nói thẳng
với tác giả những gì họ nghĩ, thậm chí không mấy có
cảm tình với ý tưởng của tác giả.
Cải tiến
Muốn trở thành một
tác giả khoa học tốt cần phải có thời gian. Một bài
báo khoa học thường nhắm vào một vấn đề hẹp. Nhưng
tác giả phải có một cái nhìn rộng và lớn hơn khi đọc
bài báo của mình. Cần phải đặt bài báo và kết quả
nghiên cứu vào một bối cảnh lớn hơn để thấy thành
quả ra sao hay những gì cần phải làm tiếp trong
tương lai.
Sơ đồ 3
sau đây phác thảo vài cách tiếp cận để tác giả có
thể tự mình cải tiến. Nhiều tác giả thiếu kiên nhẫn
vì họ chỉ muốn gửi bài báo đi càng sớm càng tốt,
nhưng đó không phải là một hành động có hiệu quả
cao. Do đó, điều thứ nhất là không nên hấp tấp
trong khi viết. Sau khi viết xong bản thảo, có thể
để đó vài ngày hay vài tuần. Sau đó, đọc lại và xem
xét những chi tiết nào cần thêm hay cần bỏ đi. Đọc
đi đọc lại với một cái nhìn mới để xem có gì cần
phải phân tích thêm hay không, hay cách diễn dịch số
liệu có hợp lí hay không. Kiểm tra lại cách viết và
các đoạn văn có ăn khớp với nhau hay không, ý tưởng
có trôi chảy hay không ...
Sau đó là xem xét
đến những chi tiết. Hai điểm quan trọng cần phải để
ý
ở đây. Thứ nhất,
kiểm tra tính nhất quán: cả số liệu hay dữ kiện và
các chú thích phải nhất quán với văn bản, bảng thống
kê, và biểu đồ. Thứ hai là loại bỏ những “nhiễu” —
tức là những điểm lặp đi lặp lại hay những điểm làm
cho người đọc sao lãng cái thông điệp chính trong
bài báo. Có khi cần phải kiểm tra từng chữ một xem
nó có thích hợp
với mục đích của bài báo hay không. Tránh dùng những
từ ngữ tối nghĩa, những biệt ngữ khó hiểu, hay những
viết tắt mà người ngoài chuyên môn chưa quen biết.
Một bài báo thường
phải qua bình duyệt từ ban biên tập của tập san.
Nếu tập san cho tác giả cơ hội trả lời những phê
bình này, đó là một bước tiến tích cực. Tuy nhiên,
việc trả lời những phê bình của ban biên tập không
phải lúc nào cũng là việc làm thoải mái, dù sau khi
phản biện thì bài báo sẽ tốt hơn. Trong khi trả lời
phê bình, điều tối quan trọng là không nên có thái
độ quá chống chế, hay quá công kích người phê bình.
Tác giả có nhiệm vụ phải trả lời từng câu hỏi một,
từng điểm phê bình một, và trả lời một cách lịch
sự. Nếu tác giả không đồng ý với người bình duyệt,
tác giả có quyền nói thẳng. Thông thường, sau khi
trả lời bình duyệt, bài báo phải có sửa đổi, và tác
giả phải thông báo cho ban biên tập biết những chỗ
nào đã thay đổi và tại sao thay đổi.
Khoa học là một
trường hoạt động khá bình đẳng. Công trình của tác
giả có người khác bình duyệt, và tác giả cũng có cơ
hội bình duyệt công trình của người khác. Thành ra,
để giúp đỡ đồng nghiệp và để tự mình cải tiến, tác
giả nên nhận lời bình duyệt công trình nghiên cứu
của các đồng nghiệp. Nếu tác giả cảm thấy học hỏi
được một vài điều từ việc trả lời phê bình của người
khác, tác giả cũng có thể học hỏi nhiều điều từ việc
đọc và phê bình công trình của đồng nghiệp. Qua đọc
và xem xét cẩn thận, tác giả sẽ cảm thấy mình trưởng
thành và thoải mái với các nguyên lí và sự sắp xếp
của các lí giải trong một bài báo khoa học. Làm
người bình duyệt là một hình thức tự mình trao dồi
kĩ năng nghiên cứu: nhận dạng nhầm lẫn của người
khác cũng có nghĩa là nâng cao kĩ năng nhận dạng
nhầm lẫn của chính mình.
Ai trong chúng ta cũng muốn là tác giả của những bài
báo khoa học tốt, những bài báo mà chúng ta có thể
tự hào, và hi vọng sẽ được lưu truyền rất lâu trong
tương lai. Tuy nhiên, dù chúng ta có cẩn thận cách
mấy, và bất kể bao nhiêu lần chúng ta đọc đi đọc
lại, rà soát, xác suất bài báo có ít nhất là một sai
lầm hay lỗi nhỏ đều rất cao. Một cá nhân rất khó mà
phát hiện tất cả các lỗi lầm của chính mình. Điều
đó có nghĩa là tác giả cần đồng nghiệp, những người
đọc và phê bình một cách nghiêm túc và thành thật.
Tác giả cần phải bỏ tính tự ái, và không nên sợ hãi
trước những phê phán. Theo kinh nghiệm của người
viết bài này, những phê phán của đồng nghiệp, dù lớn
hay nhỏ, dù gay gắt hay thân thiện, lúc nào cũng
giúp cho bài báo trở nên hoàn hảo hơn.
Ở phần
đầu tôi đã nêu ra vài lí do tại sao cần phải công bố
báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế,
ở đây tôi muốn nói thêm một lí do quan trọng hơn
nữa.
Đối với quốc gia,
công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học
quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện,
mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước ta. Ở
phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa
học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí
khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học
giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực
nào, phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa
của nước ta chưa cao. Phần lớn các công trình
nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những
buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa
học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa
vào luận án, nếu chưa được công bố trên các diễn đàn
khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn
tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường
rộng lớn hơn.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn
một câu nói của một người thông thái, Khổng
Tử: “Nếu dùng ngôn ngữ không đúng, thì những gì
được phát biểu sẽ bị hiểu sai; nếu những gì phát
biểu bị hiểu sai, thì những gì cần phải làm sẽ không
thực hiện được; và những gì không thực hiện được,
đạo đức và nghệ thuật sẽ trở nên tồi tệ hơn.”
Và tôi cũng có thể thêm rằng, nước nhà sẽ thiệt thòi
hơn.
Sơ đồ 3. Cải
tiến
Cách tiếp
cận căn bản |
Chú thích |
Cải tiến bài
báo: Không hấp tấp; đọc và sửa lại liên tục.
|
·
Cần phải để dành thời gian, suy nghĩ
lại, lĩnh hội vấn đề, đọc lại một lần nữa
với một cách nhìn hoàn toàn mới
·
Xem xét lại cấu trúc bài báo; xem có
phần nào thiếu nhất quán hay không; có mâu
thuẫn trong lí giải hay không; xóa bỏ những
phần lặp đi lặp lại. |
Trả lời
những phê bình của người duyệt bài |
·
Trả lời từng điểm một, tuyệt đối
không chối bỏ bất cứ điểm nào;
·
Phải lịch sự trong khi trả lời, không
dùng những từ mang tính thách thức và tấn
công cá nhân; nếu cần bất đồng ý kiến với
người duyệt bài, cứ nói thẳng như thế;
·
Thông báo cho biên tạp biết những gì
đã thay đổi trong bài báo và giải thích tại
sao phải thay đổi.
|
Cải tiến kĩ
năng phê bình công trình của người khác |
·
Sẵn sàng phục vụ làm người bình duyệt
bài cho các tập san khoa học;
·
Công bằng và vô tư trong việc phê
bình;
·
Không duyệt bài nếu cảm thấy mình có
mâu thuẫn quyền lợi cá nhân.
|
Những điểm chính
- Nên bắt đầu viết
sớm trước khi hoàn tất công trình nghiên
cứu.
- Tập trung vào
những gì mà người đọc cần đọc: tựa đề,
tóm tắt, biểu đồ, bảng số liệu.
- Phát thảo một cách
tiếp cận có hệ thống: dẫn nhập, phương
pháp, kết quả, và thảo luận.
- Cải tiến bài báo
bằng cách yêu cầu giúp đỡ từ đồng
nghiệp.
|
Địa chỉ liên lạc:
Nguyễn Văn Tuấn
Viện nghiên cứu y
khoa Garvan
Đại học New South
Wales
Sydney, Australia
Email:
t.nguyen@garvan.org.au
|