Trường hợp 1. “Tôi tên là
Stephen Brown, nghiên cứu sinh tiến sĩ sinh hóa tại
Đại học Yale. Khoảng một năm tháng trước đây, tôi
được kéo sang một phòng thí nghiệm khác để giúp đỡ
phát triển một phương pháp phân tích sinh hóa cho
giáo sư Smith. Sau hơn 6 tháng làm việc, tôi đã
thành công với phương pháp, và công trình nghiên cứu
của giáo sư Smith tiến triển tốt đẹp. Mới đây tôi
thấy một bản thảo của công trình nghiên cứu đã được
soạn ra, nhưng trong số tên tác giả không có tên
tôi. Giáo sư Smith chỉ đề tên tôi trong phần cảm tạ
với lời cám ơn là tôi đã cung cấp những “chỉ dẫn quí
báu”. Tôi nghĩ đây là một sự cướp công, vì tôi xứng
đáng đứng tên tác giả, bởi vì không có tôi thì làm
sao công trình nghiên cứu có thể hoàn tất được. Vậy
tôi phải làm sao bây giờ ?”
Trường hợp 2.
Laura (không phải tên thật) là một nghiên cứu sinh,
và đề tài nghiên cứu là ảnh hưởng của gen trong
loãng xương. Laura làm việc dưới sự hướng dẫn của
người viết bài này. Theo qui định của trường, ngoài
tôi ra, Laura còn có một giám thị phụ
(co-supervisor), phòng khi tôi đi xa Laura có thể
tham vấn vị giám thị phụ này. Nhưng trong suốt thời
gian nghiên cứu tôi chưa bao giờ vắng trường quá 2
tuần, cho nên tất cả nghiên cứu của Laura đều do tôi
điều hành. Sau gần một năm làm việc cật lực Laura
có kết quả và viết một bài báo khoa học do tôi trực
tiếp hướng dẫn. Bài báo có 3 tác giả: Laura đứng
đầu trong danh sách tác giả; một tác giả thứ 2 có
đóng góp về phân tích dữ kiện và diễn giải kết quả;
và tác giả chót là tôi. Vị giám thị phụ khi xem
thấy bản thảo không có tên mình, bèn làm áp lực cho
Laura phải để tên của cô vào danh sách tác giả. Cô
giám thị phụ này lí giải rằng vì đóng vai trò
“co-supervisor” nên phải có tên trong bài báo!
Laura rất lo lắng trước sức ép vì sợ sẽ bị phê vào
hồ sơ không tốt, và hỏi tôi phải quyết định ra sao?
Trên đây chỉ là hai
trường hợp là khá tiêu biểu cho những tranh chấp
chung quanh vấn đề đứng tên tác giả một bài báo khoa
học. Có thể nói hầu như ở bất cứ trung tâm nghiên
cứu nào, bất cứ trường đại học nào trên thế giới đều
có vấn đề này: ai là người xứng đáng được đứng tên
tác giả trong một bài báo khoa học. Cái trớ trêu
trong hoạt động khoa học là khoa học giải quyết được
rất nhiều vấn đề của nhân loại, nhưng đứng trước vấn
đề tác giả thì khoa học có vẻ trở nên bất lực! Đối
với người ngoài khoa học, người ta tưởng khoa học là
một trường dân chủ và khách quan, nhưng trong thực
tế thì có khi rất phản dân chủ và hoàn toàn chủ
quan, nhất là trong vấn đề tác giả bài báo.
Nhà khoa học xây dựng uy danh
của mình trên trường hoạt động khoa học quốc tế cũng
giống như một công ti xây dựng thương hiệu trong
trường thương mại. Trách nhiệm và uy tín là hai
khía cạnh quan trọng số 1 trong việc xây dựng uy
danh trong hoạt động khoa học. Đứng tên tác giả của
một bài báo khoa học là một hình thức hiển nhiên
nhất trong việc tạo uy tín và chịu trách nhiệm khoa
học. Nhưng trong thực tế, ai có quyền hay xứng đáng
đứng tên tác giả của một bài báo khoa học là một vấn
đề tế nhị, thường gây ra tranh cãi, bất hòa trong
đồng nghiệp, thậm chí dẫn đến kiện cáo. Ở nước ta,
vấn đề này có vẻ trầm trọng hơn, nhưng ít khi nào
được bàn đến. Rất nhiều nghiên cứu sinh phàn nàn
rằng trong khi họ phải cật lực làm nghiên cứu, các
thầy cô lại dành quyền đứng tên tác giả bài báo khoa
học!
Thế thì một câu hỏi then chốt
đặt ra: Ai là người xứng đáng đứng tên tác giả trong
một bài báo khoa học? Trả lời câu hỏi này không đơn
giản chút nào, bởi vì câu trả lời còn tùy thuộc vào
“văn hóa” làm việc của từng trung tâm nghiên cứu hay
trường đại học, tùy thuộc vào cảm nhận cá nhân (và
chủ quan) của các thành viên trong công trình nghiên
cứu. Một công trình nghiên cứu thực nghiệm từ khi
phát sinh ý tưởng cho đến khi hoàn tất là cả một dây
chuyền liên tục, với sự đóng góp của nhiều thành
viên với nhiều chuyên môn khác nhau. Vì thế, có thể
nói bất cứ thành viên nào cũng cảm thấy đóng góp của
mình là quan trọng (với suy nghĩ kiểu “không có tôi
thì công trình nghiên cứu sẽ không thành công”),
nhưng mức độ đóng góp phải khác nhau. Do đó, việc
xác định ai có tư cách đứng tên tác giả đòi hỏi
những tiêu chuẩn khách quan.
Tiêu chuẩn
Năm 1985, Ủy ban tổng biên tập
các tập san y học (International Committee of
Medical Journal Editors – ICMJE, còn gọi là
Vancouver Group) đề ra 3 tiêu chuẩn cho một tác giả
bài báo khoa học. Năm 2000, 3 tiêu chuẩn này được
hiệu đính lại, và được giới khoa học quốc tế công
nhận là những tiêu chuẩn vàng để qui quyền tác giả.
Theo định nghĩa của ICMJE [4], một thành viên nghiên
cứu có tư cách đứng tên tác giả phải hội đủ tất
cả 3 tiêu chuẩn sau đây:
·
Một là đã có đóng
góp quan trọng trong việc hình thành ý tưởng và
phương pháp nghiên cứu, hay thu thập dữ kiện, hay
phân tích và diễn dịch dữ kiện;
·
Hai là đã soạn
thảo bài báo hay kiểm tra nội dung tri thức của bài
báo một cách nghiêm túc;
·
Và ba là phê
chuẩn bản thảo sau cùng để gửi cho tập san.
Định nghĩa của ICMJE nói cụ thể
là những người chỉ có công tìm tài trợ, chỉ có công
thu thập dữ kiện, hay chỉ có công lãnh đạo một nhóm
nghiên cứu không có quyền đứng tên tác giả nếu như
không hội đủ ba tiêu chuẩn trên đây [4].
Thật ra, những tiêu
chuẩn trên đây cũng vẫn còn khá chung chung, và có
thể được diễn dịch khác nhau tùy theo quan điểm của
tác giả. Do đó, Tập san Lancet triển khai 3
tiêu chuẩn trên thành 10 đóng góp cụ thể như sau:
-
Soạn thảo bài báo:
đây là những người viết bản thảo đầu tiên của bài
báo, và những người tham gia kiểm tra, biên tập,
và viết bản thảo cuối cùng;
-
Thiết kế nghiên cứu:
là những người đã từng tham gia vào việc thảo luận
phương cách tiến hành nghiên cứu ngay từ lúc công
trình nghiên cứu mới bắt đầu. Có khi một công
trình nghiên cứu có nhiều chủ đề khác nhau cần
giải quyết, và mỗi bài báo tập trung vào một vấn
đề cá biệt. Trong trường hợp này, người “thiết kế
nghiên cứu” có thể kể cả những người đã có công
thảo luận về cách chọn dữ kiện, hay chọn đối tượng
trong công trình nghiên cứu cho vấn đề cần giải
quyết.
-
Phân tích hay diễn giải dữ
kiện:
là những
người tham gia vào việc phân tích dữ kiện, và diễn
giải những kết quả phân tích. Hai chữ “phân tích”
ở đây phải được hiểu rộng hơn, bao gồm các đóng
góp chung về những chỉ tiêu lâm sàng để nghiên cứu
và chiến lược phân tích, chứ không theo nghĩa hẹp
là phân tích số liệu.
-
Thu thập dữ kiện:
là những người đã tham gia vào việc thiết kế các
phương tiện và trực tiếp thu thập dữ kiện, như bác
sĩ phỏng vấn bệnh nhân, đo lường áp suất máu, v.v…
-
Điều hợp công trình nghiên
cứu: là những
người trực tiếp quản lí công trình nghiên cứu.
-
Phân tích lâm sàng:
là những người trực tiếp tham gia vào việc chẩn
đoán bệnh tật, hay diễn giải các các chỉ tiêu lâm
sàng trong công trình nghiên cứu.
-
Phân tích cơ bản:
là những người trực tiếp tham gia vào việc đo
lường các chỉ tiêu lâm sàng trong phòng thí
nghiệm, như phân tích cholesterol, ước tính CD4,
mật độ chất khoáng trong xương, v.v…
-
Phân tích thống kê:
là những người trực tiếp tham gia vào việc phân
tích các số liệu bằng các phương pháp thống kê.
Thường thường đây là những nhà thống kê học.
-
Cố vấn về thiết kế nghiên
cứu: là những
người đã từng cố vấn trong việc tiến hành nghiên
cứu ngay từ lúc công trình nghiên cứu mới bắt
đầu. Thường thường đây là những chuyên gia về
thống kê học.
-
Quản lí dữ kiện:
trong các công trình nghiên cứu lớn, số lượng dữ
kiện thu thập rất đồ sộ, và nhu cầu cho việc quản
lí dữ kiện cũng rất lớn. Do đó, những người có
công quản lí database cũng được ghi nhận. Thông
thường đây là những chuyên gia vi tính.
Vì thế, một số tập san y học
(như Lancet, JAMA, New England Journal of
Medicine, British Medical Journal …) ngày nay
yêu cầu tác giả phải tự khai báo cụ thể là họ đã
đóng vai trò gì trong bài báo hay trong công trình
nghiên cứu, dựa vào 10 đóng góp trên đây.
Trên nguyên tắc là như thế,
nhưng còn trong thực tế thì sao? Trong thực tế, có
người chỉ có một đóng góp trong 10 tiêu chuẩn trên
cũng đứng tên tác giả bài báo! Và thực tế này làm
cho nhiều người quan tâm. Thật vậy, vấn đề tác giả
bài báo khoa học đã và đang (và có thể sẽ) là một
vấn đề được nhiều người trong giới khoa học, kể cả
biên tập của các tập san khoa học, quan tâm. Theo
một phân tích công bố trên tập san JAMA vào năm
1998, các nhà nghiên cứu điểm qua tất cả các bài báo
trên 6 tập san y học lớn nhất và phát hiện một số sự
thật không mấy tích cực: 19% các bài báo có những
“tác giả danh dự” (honorary authors, tức là các tác
giả có tên trong bài báo mà không đáp ứng các tiêu
chuẩn để đứng tên tác giả); 11% có hiện tượng “tác
giả ma” (ghost authors, tức là những người có cống
hiến quan trọng đáng lẽ xứng đáng đứng tên tác giả,
nhưng lại không có tên trong danh sách tác giả)
[1].
Trong một phân tích công phu
1068 bài báo công bố trên tập san Radiology
từ năm 1998 đến 2000, các nhà nghiên cứu Hàn Quốc
cho thấy gần 1 phần 3 các tác giả có tên trong các
bài báo này không đủ tiêu chuẩn để đứng tên tác giả
[2].
Trong một phân tích khác, tác
giả tập trung vào các bài báo trên tập san quang
tuyến học Roentgenology, và muốn biết có bao
nhiêu tác giả có tên trong các bài báo khoa học
nhưng không xứng đáng [2]. Tác giả phát hiện trong
những bài báo có 3 tác giả, có khoảng 9% tác giả
không xứng đáng có tên; và trong những bài báo có 6
tác giả trở lên, có khoảng 30% tác giả không xứng
đáng có tên trong bài báo! Ai là những tác giả
không xứng đáng này? Theo nhà nghiên cứu, họ là
những bác sĩ cung cấp bệnh nhân cho nghiên cứu
(29%), những người có quyền thế có thể gây khó khăn
cho các tác giả khác (40%). Ngoài ra, chỉ có 80%
bài báo mà bản thảo được tất cả các tác giả đọc; nói
cách khác, có đến 20% bài báo mà có khi tác giả có
tên nhưng chẳng bao giờ đọc qua [3].
Vị trí của tác giả
Như nói trên,
nghiên cứu khoa học ngày nay là một công trình của
một tập thể. Do đó, không ai ngạc nhiên khi thấy
khoảng 50% các bài báo khoa học trên các tập san y
học có 5 tác giả trở lên. Vấn đề đặt ra là cách sắp
xếp thứ tự trong danh sách tác giả của bài báo phải
như thế nào để phản ánh công trạng của thành viên
tham gia trong công trình nghiên cứu. Trên nguyên
tắc, thứ tự tác giả phải dựa vào mức độ đóng góp của
tác giả. Người có đóng góp nhiều nhất hay quan
trọng nhất phải là tác giả số 1; người có công quan
trọng kế tiếp phải là tác giả số 2, vân vân.
Thế nhưng trong thực tế thì sự
việc không xảy ra như trên lí thuyết. Cái khó khăn
chính là không có cách nào để đo lường đóng góp của
tác giả một cách đáng tin cậy và khách quan. Chẳng
hạn như rất khó mà phân biệt một “đóng góp quan
trọng” (major contribution) và “đóng góp một phần”
(partial contribution). Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp cụ thể, việc phân biệt cũng không mấy khó
khăn. Ví dụ như đề xuất mô hình và tiến hành phân
tích dữ kiện và diễn giải kết quả phân tích là một
“đóng góp lớn” (bởi vì điều này đòi hỏi một khả năng
chuyên môn cao), nhưng phân loại nguyên nhân tử vong
thì đó là một đóng góp nhỏ (vì nó tương đương với
một việc làm hành chính) dù rất tốn thì giờ.
Theo kinh nghiệm của người viết
bài này, trong lĩnh vực nghiên cứu y học, các tác
giả đầu (số 1) thường là những nghiên cứu sinh hay
những người có đóng góp nhiều nhất cho bài báo và
công trình nghiên cứu, và trong trường hợp tác giả
số 1 là nghiên cứu sinh, tác giả số 2 thường là thầy
cô hay người hướng dẫn của nghiên cứu sinh, và tác
giả sau cùng có thể là người đứng đầu của nhóm
nghiên cứu hay người có đóng góp ít nhất. Còn những
người còn lại thì có thể là những người có ít nhiều
đóng góp trong 10 tiêu chuẩn trên. Nhưng như đề cập
trên, trong thực tế cũng có nhiều tác giả có tên
trong danh sách chỉ là tác giả danh dự, chứ chẳng có
đóng góp gì vào công trình nghiên cứu, hay có đóng
góp nhưng mức độ công trạng không xứng đáng là một
tác giả.
Trong một nghiên
cứu công bố trên Tập san Annals of Internal Medicine
[5], V. Yank và D. Rennie thẩm định 115 bài báo công
bố trên Tập san Lancet từ tháng 7/1997 đến
12/1997, với 785 tác giả (tính trung bình khoảng 7
tác giả trên một bài báo). Trong số 115 bài báo
này, khi đối chiếu lại với 3 tiêu chuẩn “vàng” của
ICMJE, chỉ có 56% các tác giả hội đủ 3 tiêu chuẩn mà
thôi! Nói cách khác, có đến 44% các tác giả có tên
trong bài báo nhưng không hội đủ 3 tiêu chuẩn của
ICMJE. Khi phân tích theo thứ tự tác giả, số lượng
tác giả hội đủ cả 3 tiêu chuẩn như sau: tác giả số 1
(71%), tác giả 2 (60%), tác giả 3 (47%), tác giả
chót (69%). Như vậy có khoảng 40% đến 53% các tác
giả thứ 2 và thứ 3 không hội đủ3 tiêu chuẩn để đứng
tên tác giả. Ngay cả trong cách tác giả số 1, có
đến gần 30% không hội đủ 3 tiêu chuẩn để đứng tên
tác giả!
Như đã trình bày
trên, bản chỉ dẫn của ICMJE đặc biệt nhấn mạnh rằng
những người có công trong việc thu thập dữ kiện,
giám thị hay người hướng dẫn, và tìm nguồn tài trợ
cho công trình nghiên cứu không đủ điều kiện để đứng
tên tác giả nếu không hội đủ 3 điều kiện chính. Thế
nhưng trong thực tế, rất ít ai tuân thủ theo chỉ dẫn
này! Phân tích của V. Yank và D. Rennie cho biết có
đến35% tác giả là những người tham gia thu thập dữ
kiện nhưng không hội đủ cả 3 điều kiện; 36% tác giả
là những người giám thị nhưng không hội đủ cả 3 điều
kiện; và 8% tác giả là những người có công tìm nguồn
tài trợ nhưng không hội đủ cả 3 điều kiện.
Khi phân tích theo 10 tiêu
chuẩn phụ, V. Yank và D. Rennie cho thấy tác giả số
1 và tác giả chót thường là những người trực tiếp
tham gia vào việc soạn thảo bài báo; ngược lại, tác
giả số 2 và số 3 thường là những người đã làm công
tác phân tích thống kê và quản lí số liệu (xem bảng
thống kê số 1). Các phân tích này cho thấy dù một
bài báo có nhiều tác giả, nhưng trong thực tế chỉ có
3 hay bốn tác giả (số 1, 2, 3 và tác giả chót) là có
đóng góp đáng kể mà thôi, phần còn lại có thể nói
chỉ là những “tác giả danh dự” hay tác giả không hội
đủ điều kiện để đứng tên tác giả.
Vài nhận xét
Cụm từ “tác giả” là
dịch từ chữ “Author” trong tiếng Anh, và từ Author
có nguồn gốc Latin là “Auctor” có nghĩa nguyên thủy
là người có uy tín hay người có thẩm quyền. Đứng
tên tác giả một bài báo khoa học, hiểu theo nghĩa
này, cũng có đồng nghĩa với tạo cho mình một uy tín
và thẩm quyền, và quan trọng hơn hết là phải chịu
trách nhiệm trước công chúng về các phát biểu trong
bài báo. Về mặt cá nhân nhà nghiên cứu, đứng tên
tác giả trong bài báo khoa học không chỉ là một phần
thưởng, mà còn là viên gạch quí báu để xây dựng sự
nghiệp. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy nhiều
người tranh đua nhau, thậm chí gây hấn nhau, để đứng
tên tác giả một bài báo.
Như vừa trình bày,
trong thực tế, có rất nhiều tác giả không xứng đáng
và không hội đủ điều kiện để đứng tên tác giả nhưng
lại có tên trong bài báo. Ngược lại, cũng có nhiều
người mà mức độ cống hiến đáng lẽ hội đủ điều kiện
để đứng tên tác giả, nhưng lại không có tên trong
bài báo và trở thành những “tác giả ma” – ghost
authors! Điều này dẫn đến một hệ quả là có nhiều
tác giả có tên trong bài báo mà không hề biết gì về
nội dung của bài báo! Tôi từng xem lí lịch khoa học
của một số nhà khoa học “lớn” với 500 đến 700 bài
báo khoa học, nhưng khi tôi hỏi một vài bài một cách
ngẫu nhiên, tác giả chỉ cười cho biết đó là công
trình hợp tác với người khác, không nhớ thậm chí
không biết viết gì trong đó! Nói cách khác, họ có
tên trong bài báo nhưng chẳng quan tâm đến nội dung
bài báo, và tỏ ra vô trách nhiệm trước công chúng.
Rất tiếc, đây là một tình trạng rất phổ biến ngày
nay.
Ngay cả vị trí của
tác giả trong bài báo cũng không phản ánh chính xác
mức độ cống hiến của tác giả. Nhưng nói chung, chỉ
có tác giả số 1, 2, 3 và tác giả chót là những người
thực sự có đóng góp quan trọng cho bài báo. Một
trong những nguyên nhân cho tình trạng này là vì các
trung tâm nghiên cứu và đại học không có một chính
sách cụ thể để các nhà nghiên cứu dựa vào đó mà phân
nhiệm. Trong vài trường hợp, nếu có chính sách, thì
các nhà nghiên cứu lại không đồng ý về việc thi
hành. Có người cho rằng các bác sĩ thu thập dữ kiện
hay các “sếp” của nhóm nghiên cứu nhất định phải có
tên trong bài báo dù họ chẳng biết bài báo nói về
vấn đề gì! Họ lí giải rằng nếu không có họ thì công
trình nghiên cứu sẽ không bao giờ thành công được.
Thế nhưng cách biện minh này nhầm lẫn giữa tri thức
khoa học và công tác hành chính. Một bài báo khoa
học chỉ quan tâm đến khoa học, chứ không phải hành
chính. Theo qui định hiện hành, họ phải được ghi
nhận trong phần cảm tạ của bài báo, chứ không thể là
tác giả được. Thế nhưng nếu tác giả đứng bài báo
đầu là một nghiên cứu sinh thì tác giả chắc chắn sẽ
không dám cãi lại “lệnh” của sếp và việc sếp cho tên
trong bài báo trở thành một thông lệ, một thông lệ
mà ai cũng biết là thối nát.
Năm 1943, Albert
Schatz là một nghiên cứu sinh trẻ tuổi với một sứ
mệnh tìm cho được thuốc để điều trị bệnh lao. Sau
vài năm làm việc cật lực,
Schatz khám phá
thuốc kháng sinh streptomycin và là tác giả của một
bài báo khoa học về khám phá này. Sếp và cũng là
người hướng dẫn luận án của Schatz là Selman
Waksman, bắt đầu dành công trạng về phía mình, bằng
cách làm một cuộc vận động trong giới khoa học rằng
ông là người khám phá ra streptomycin và không đề
cập gì đến người nghiên cứu sinh của mình! Trong
khi Waksman ngấm ngầm dành công trạng, cậu học trò
Schatz hoàn toàn không hay biết gì cả, vì trong thực
tế, cả Schatz và Waksman cùng kí tên trong bằng sáng
chế (patent) streptomycin. Nhưng sau vài năm,
Schatz mới biết được rằng Waksman đã bí mật kí một
hợp đồng và bán bản quyền sáng chế (với một số tiền
lớn) cho một công ti dược lớn, và trong hợp đồng này
không có tên của Schatz! Schatz kiện Waksman ra
tòa, và phán quyết công ti dược phải trả tiền sáng
chế cho Schatz. Tuy nhiên, với vị thế của mình, vận
động của Waksman đã thành công mĩ mãn: ông ta được
trao giải thưởng Nobel vào năm 1952 vì “có công khám
phá streptomycin.” Ủy ban Nobel chẳng biết đến
Schatz bao giờ và do đó công trạng của anh ta không
hề được ghi nhận. Công trạng của Schatz chỉ mới
được tái phát hiện khi giới sử học xem lại quá trình
khám phá thuốc kháng sinh quan trọng này [6].
Trong nhiều trung
tâm nghiên cứu, thông thường các vị giám thị hay sếp
trung tâm tự nhiên ghi tên mình trong các bài báo
khoa học do nghiên cứu sinh và nhà nghiên cứu dưới
quyền trực tiếp làm. Nếu các vị này thực sự có cống
hiến quan trọng về ý tưởng, thu thập dữ kiện, phân
tích, diễn giải và soạn thảo bài báo, thì cũng không
có gì sai trong “thông lệ” này. Nhưng có nhiều
trường hợp, các sếp chẳng có cống hiến gì đáng kể
cho công trình nghiên cứu, ngoài việc thảo luận đôi
ba lần về nghiên cứu và đọc qua bản thảo bài báo,
lại có tên trong bài báo, và đó mới là vấn đề cần
quan tâm. Có một số trường hợp tệ hại hơn nữa là
nghiên cứu sinh chỉ đứng tên trong phần “Cảm tạ”!
Mặc dù “tập quán”
các sếp đứng tên tác giả trong bài báo của các nhà
nghiên cứu dưới quyền rất phổ biến, rất nhiều nạn
nhân (phần lớn là nghiên cứu sinh) không dám thốt
lời phàn nàn, mà chỉ than thở với các nạn nhân khác,
vì sợ bị trả thù và trù dập. Một số thì giữ “thái
độ Hàn Tín”, “nín thở qua sông”, chờ lấy cho được
học vị tiến sĩ rồi kiếm chỗ khác làm việc. Khi phàn
nàn trên các phương tiện truyền thông công cộng, các
nạn nhân cũng không dám kí tên thật. Chẳng hạn như
một lá thư từ một nghiên cứu sinh trên tờ nhật báo
The Australian viết: "Nhiều nhà khoa học cấp
cao hoặc ăn cắp ý tưởng của nghiên cứu sinh, hoặc
không cho phép nghiên cứu có tên trong các bài báo
quan trọng. Tôi cảm thấy đây là một hình thức đạo
văn một cách xảo quyệt, nhưng tiếc thay hình thức
này không phải là mới. Đề bạt trong nghiên cứu dựa
vào công trạng trong nghiên cứu, tức là bài báo khoa
học đã công bố; tuy nhiên nếu có một nhà nghiên cứu
trẻ nào đó dám lên tiếng về tình trạng này, thì
tương lai của nhà nghiên cứu đó sẽ là một ngõ cụt."
[7].
Cái lực đằng sau của hiện tượng
“cướp công” trên là tình trạng bất bình đẳng trong
quyền lực khoa học. Những câu chuyện về bóc lột tri
thức phát sinh ở bất cứ nơi nào mà các sếp và giáo
sư giữ một vai trò mang tính quyết định tương lai
của nghiên cứu sinh hay nhà khoa học dưới cấp.
Trong cơ cấu bất bình đẳng như thế, vấn đề tác giả
và tác quyền là một đề tài cấm kị.
Phải làm gì để
tránh tình trạng nhập nhằng trong vấn đề quyết định
ai là tác giả và vị trí của tác giả trong bài báo ?
Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi nghĩ có thể làm vài
việc căn bản sau đây:
-
Trường đại học và trung tâm
nghiên cứu cần phải phát triển một chính sách cụ
thể về đóng góp trong nghiên cứu, và chỉ rõ các
điều kiện cần thiết để các nhà nghiên cứu có thể
xác định vị trí của tác giả trong bài báo;
-
Nên hoạch định tác giả và vị
trí tác giả trước khi tiến hành nghiên cứu, nhất
là trong giai đoạn thảo luận và thiết kế nghiên
cứu;
-
Việc hoạch định này phải dựa
theo các tiêu chuẩn của ICMJE đề ra, và tất cả các
tác giả phải nhất trí trước khi tiến hành nghiên
cứu.
Quay trở lại hai trường hợp mà
tôi nêu lên trong phần đầu của bài viết, nếu dựa
theo các tiêu chuẩn của ICMJE thì có lẽ Stephen
Brown hội đủ điều kiện để đứng tên tác giả nếu anh
ta tham gia vào việc phân tích và diễn giải kết quả
bài báo. Nhưng trong trường hợp 2, vị giám thị phụ
không thể là một tác giả được vì Laura chưa bao giờ
được cô ta hướng dẫn điều gì, và cô ta không hề dính
dáng vào công trình nghiên cứu. Tiêu chuẩn ICMJE
nói rất rõ là giám thị vẫn thể đứng tên tác giả
trong một bài báo của nghiên cứu sinh mình hướng dẫn
nếu không hội đủ 3 điều kiện chính là ý tưởng, thiết
kế và phân tích; soạn thảo bài báo; và phê chuẩn bài
báo.
Tài liệu tham khảo:
[1] Flanagin A, et al.
Prevalence of articles with honorary authors and
ghost authors in peer-reviewed medical journals.
JAMA 1998; 280:222-224.
[2] Hwang SS, et al.
Researcher contributions and fulfillment of ICMJE
authorship criteria. Radiology 2003; 226:16-23.
[3] Stone RM. American
Journal of Roentgenology 1996; 167:571-9. Hơn phân
nửa các bài báo khoa học công bố trên tập san
American Journal of Roentgenology có hơn 5 tác giả.
[4] International Committee of
Medical Journal Editors. Uniform requirements for
manuscripts submitted to biomedical journals. JAMA
1997; 3/4277:927-34.
http://www.icmje.org.
[5] Yank V, Rennie D.
Disclosure of researcher contributions: a study of
original research articles in the Lancet.
Ann Int Med 1999; 130:661-70.
[6] Frank Ryan,
Tuberculosis: The Greatest Story Never Told
(Worcestershire: Swift, 1992); Albert Schatz, "The
true story of the discovery of streptomycin,"
Actinomycetes, Vol. 4, Part 2, 1993, pp. 27-39.
[7] Kerryn Robinson, "Few
rewards for science graduates" (letter),
Australian, 21 January 1997, p. 12.
Bảng 1. Đóng góp trong một
các báo khoa học trên tập san Lancet: phần
trăm đóng góp
Đóng góp |
Tác giả số 1 |
Tác giả số 2 |
Tác giả số 3 |
Tác giả chót |
1. Soạn thảo bài báo |
83.5 |
67.3 |
54.3 |
80.0 |
2. Thiết kế nghiên cứu |
58.3 |
44.5 |
38.1 |
52.2 |
3. Phân tích hay diễn giải
dữ kiện |
51.3 |
38.2 |
25.7 |
32.2 |
4. Thu thập dữ kiện |
27.0 |
27.3 |
25.7 |
13.9 |
5. Điều hợp công trình
nghiên cứu |
42.6 |
14.5 |
15.2 |
17.4 |
6. Phân tích lâm sàng |
11.3 |
14.5 |
19.0 |
11.3 |
7. Phân tích cơ bản |
7.0 |
12.7 |
12.4 |
9.6 |
8. Phân tích thống kê |
8.7 |
11.8 |
12.4 |
7.0 |
9. Cố vấn về thiết kế
nghiên cứu |
7.0 |
10.9 |
8.6 |
15.7 |
10. Quản lí dữ kiện |
5.2 |
10.9 |
11.4 |
1.7 |
Nguồn:
Yank and Rennie, Annals of Internal Medicine
1999; 130:661-70. Chẳng hạn như con số 83.5% trong
cột “Tác giả 1” có nghĩa là 83.5% bài báo là do tác
giả 1 soạn thảo.
Trích từ trang
http://nguyenvantuan.chuyenluan.net |