(Nguyễn Đức Hiệp
chuyển ngữ từ bài đăng trên tạp chí Nature
11/9/2008)
Những bài cùng tác giả
Lời người dịch: Tạp chí Nature trong tháng 9 và
10/2008 đã đăng 6 bài liên tiếp về 6 hội nghị thay
đổi thế giới (Meetings that Changed the World) do
chính những người chủ chốt trong hội nghị viết: Hội
nghị Paris thành lập CERN, hội nghị Asilomar lập
chuẩn an toàn sinh học trong thay đổi DNA , hội nghị
Bellagio 1969 thành lập Viện nghiên cứu quốc tế lúa
khởi đầu Cách mạng Xanh, hội nghị Beijing 1987 do
Viện Hàn Lâm khoa học thế giới thứ ba (Third World
Academy of Sciences, TWAS) tổ chức đánh dấu việc
Trung Quốc mở cửa gia nhập cộng đồng khoa học thế
giới, hội nghị Madrid 1995 đi đến Nghị định thư
Kyoto về thay đổi khí hậu, và hội nghị Santa Fe 1986
thành lập chương trình giải mã Hệ Di truyền con
người (Human Genome Project). Bài này do François de
Rose, nhà ngoại giao Pháp, viết về Hội nghị Paris
thành lập CERN.
François de Rose chủ toạ cuộc họp nhằm thiết lập một
cơ sở tốt nhất ở châu Âu cho các nghiên cứu thí
nghiệm nguyên tử và hạt. Trong bài này ông kể lại
năm ngày đầy diễn biến đã thay đổi thế giới vật lý
học.
Là nhà ngoại giao trẻ Pháp mới bước vào lãnh vực
ngoại giao, tôi đã hân hạnh đại diện cho nước tôi ở
một ủy ban Liên Hiệp Quốc trong những năm cuối thập
niên 1940. Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của nhà tài
chánh và cố vấn của tổng thống Bernard Baruch và nhà
vật lý
J. Robert Oppenheimer , muốn Liên Hiệp Quốc được
giao cho vai trò giám sát tất cả võ khí nguyên tử và
năng lượng nguyên tử hiện có trên thế giới - gọi là
kế hoạch Baruch. Kế hoạch thất bại, nhưng vì Pháp là
một nước rất nhiệt tình ủng hộ, kế hoạch đã cho tôi
cơ hội làm việc chung với Oppenheimer. Chúng tôi gặp
nhau thường xuyên để bàn luận về phương thức và
chiến lược bảo vệ kế hoạch và chẳng bao lâu chúng
tôi đã trở thành bạn
Một hôm, Oppenheimer nói với tôi về một vấn đề khiến
ông rất bận tâm. Ông nói đa số những nhà vật lý giỏi
nhất của Mỹ, như ông, đã được huấn luyện và làm việc
ở châu Âu trong những phòng thí nghiệm thời kỳ trước
chiến tranh. Ông tin rằng các quốc gia châu Âu đã bị
thiệt hại không còn nhiều tài nguyên để xây dựng lại
hạ tầng cơ sở cho ngành vật lý cơ bản. Ông cảm nghĩ
là các nước châu Âu sẽ không thể giữ được vị trí dẫn
đầu khoa học tiên tiến nếu họ không gộp chung tài
chánh và tài năng để hợp tác và xây dựng lại.
Oppenheimer cũng tin rằng việc những nhà vật lý châu
Âu phải qua Mỹ hay Liên Xô để làm nghiên cứu là “về
cơ bản không lành mạnh”.
Giải pháp, theo Oppenheimer, là tìm cách để các nhà
vật lý châu Âu hợp tác với nhau. Khi ủy ban Liên
Hiệp Quốc chấm dứt, tôi trở về Pháp, và mang ý tưởng
này nói lại với ngoại trưởng của chúng tôi là Robert
Schuman, một trong những người sáng lập ra Cộng đồng
châu Âu (European Community). Schuman thích ý này và
cho phép tôi, cùng với Francis Perrin, lúc đó là
người đứng đầu Ủy ban Năng lượng nguyên tử của Pháp,
tìm sự ủng hộ từ các đồng nghiệp ở các thủ đô châu
Âu khác. Dần dần cái ý tưởng sau này sẽ phát triển
thành CERN (Conseil Européen pour la Recherche
Nucléaire) bắt đầu thành hình.
Chúng tôi đã gặp những đón nhận nhiều vẻ. Có khá
nhiều ủng hộ, nhưng một số chính phủ và nhà khoa học
cho là chương trình quá tốn kém ở thời điểm mà các
công dân châu Âu đang bị đòi hỏi phải thắt lưng buộc
bụng. Một số khác sợ rằng chương trình sẽ lấy bớt
ngân quỹ của các phòng thí nghiệm riêng từng quốc
gia – mà các phòng thí nghiệm này lại có thể ảnh
hưởng đến chính chương trình, bởi vì sự thành công
của hợp tác quốc tế cần các phòng thí nghiệm quốc
gia được tài trợ tốt.
Tuy vậy, đến năm 1950 chương trình đã đạt tính năng
động khá lớn, và nhà vật lý Mỹ Isidor Rabi đã trình
bày ý tưởng này đến các nước hội viên của Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc
(UNESCO) ở một buổi họp ban đầu tại Firenze
(Florence), Ý. Sau đó, một cuộc họp tiếp theo tại
tổng hành dinh UNESCO ở Paris được dự định ngày 17
tháng Chạp 1951, hôm đó sẽ tranh luận trên ý tưởng
về chương trình và thảo luận chi tiết thêm.
Quan điểm từ chủ tịch chương trình
Tôi đã được đề nghị làm chủ tịch cho buổi họp có lẽ
quan trọng nhất trong lịch sử của CERN. Các nhà vật
lý nổi tiếng của thế kỷ 20 đều tham dự. G. P.
Thomson đại diện cho Vương quốc Anh, Francis Perrin
đại diện Pháp, Werner Heisenberg đại diện Đức và
Jacob Bielsen và Niels Bohr đại diện Đan Mạch. Tổng
cộng có 21 nước gởi các đại biểu, cũng như bốn tổ
chức quốc tế, kể cả Hội đồng châu Âu (Council of
Europe) và Hội đồng Quốc tế các Liên hiệp Khoa học,
International Council of Scientific Unions (mà ngày
nay gọi là Hội đồng Khoa học quốc tế, International
Council for Science). UNESCO do nhà vật lý Pierre
Auger đại diện.
Các đại biểu đã đặt nhiều câu hỏi: Có thật sự là
châu Âu cần một trung tâm mới và thường trực cho
nghiên cứu thực nghiệm, hay tốt hơn là các nhà khoa
học nên hợp tác tại những phòng thí nghiệm đã có ở
châu Âu? Một trung tâm nghiên cứu như thế sẽ cần bao
nhiêu ngân quỹ để hoạt động?. Chính phủ nào sẽ sẵn
sàng đóng góp chi phí, và hứa hẹn đóng góp bao
nhiêu? Những bất đồng ban đầu chẳng bao lâu sau
thành công khai, vì Đức và Vương quốc Anh, hai nước
rất hệ trọng mà chương trình cần sự ủng hộ, biểu lộ
rõ sự hoài nghi.
Auger mở đầu bằng lời cám ơn Hoa kỳ đã đề nghị ý
tưởng chương trình đến UNESCO. Thomson tiếp đó đứng
lên nói, và theo biên bản tường trình chính thức của
buổi họp, ông đã đi thẳng vào vấn đề: “Nước Anh, từ
lúc chiến tranh, đã đầu tư một số tiền rất lớn trong
vật lý nguyên tử và nhất là cho các máy móc lớn.
Trong tình trạng tài chánh eo hẹp hiện nay, những
chi phí lớn của Anh thêm vào cho vật lý nguyên tử sẽ
không được ủng hộ. Phải nhớ rằng còn có những ngành
khoa học khác đắt tiền cũng đang đòi hỏi tài chánh
của chúng tôi.”
Thomson, thay vào đó, ủng hộ ý kiến cho là các nhà
vật lý châu Âu nên hợp tác dùng các phương tiện hiện
có. Điều này có lợi điểm là các nhà vật lý có thể
bắt đầu làm việc ngay lập tức và không phải đợi
nhiều năm cho đến khi một trung tâm mới được xây
xong. Để chứng tỏ mình đề nghị nghiêm chỉnh, Thomson
mời gọi sử dụng máy cyclotron 400MeV ở Đại học
Liverpool, sắp hoàn tất.
“Sự vĩ đại của một cơ chế không thể được đo chỉ
bằng, hay ngay cả phần lớn bằng, độ cao của ngân
sách,” ông kết luận. “Con người quan trọng hơn máy
móc.” Sau đó, Steva Dedijer, đại biểu từ Nam Tư,
phản biện: “châu Âu biết đào tạo con người một cách
tuyệt vời. Nhưng con người không thể làm việc nếu
không có máy móc. Và họ sẽ đi đến nơi nào có máy
móc.”
Về phần Pháp, Perrin nói rằng sự thiếu thốn máy mạnh
hơn trong lãnh vực vật lý hạt cơ bản sẽ có ảnh hưởng
“thiệt hại cho các nước châu Âu và những khía cạnh
văn minh mà họ đại diện”. Ông nhắc nhở hội nghị là
các nhà khoa học gia châu Âu sẽ sang Mỹ nếu họ không
tìm được những phương tiện tốt ở châu Âu; và ông nói
việc xây dựng một máy tương tự các máy đang được xây
ở Mỹ sẽ “đi quá khả năng của bất cứ một nước nào ở
châu Âu”. Perrin cho ý kiến là ngay cả nếu ý kiến về
sự xử dụng phương tiện ở Vương quốc Anh được chấp
thuận, cũng không nên đình trệ công trình xây dựng
phòng thí nghiệm mới.
Hồ sơ của buổi họp cho thấy sự ủng hộ có thế lực cho
quan điểm của Thomson là từ Heisenberg. “Nước chúng
tôi đang trong tình trạng kinh tế rất là khó khăn và
ở thời điểm này tôi không có quyền nhân danh chính
phủ chúng tôi cam kết bất kỳ chi tiêu nào vào sự
liên kết này”, ông nói. Ông cũng nhấn mạnh điểm quan
trọng là bất kỳ kế hoạch nào cũng nên cho ra kết quả
nhanh chóng và tốn ít nhất. “Chúng ta không nên chỉ
cố gắng bắt chước một trong những máy lớn của Mỹ.”.
Nielsen, đại diện cho Đan Mạch, đồng ý là những nhà
nghiên cứu trẻ từ các nước kém phát triển khoa học ở
châu Âu rất mong bắt đầu làm việc ngay trên bất cứ
phương tiện thí nghiệm sẵn có nào.
Tuy vậy khi hội thảo tiến triển, lần lần hiện rõ là
có nhiều đại biểu ủng hộ khuynh hướng xây máy mới
hơn là chống lại, và các đóng góp ủng hộ cụ thể bắt
đầu đến. Sau cùng Pháp, Thụy Sĩ, Ý, Bỉ và Nam Tư đã
đồng ý đóng góp chung $151000 cho một nghiên cứu khả
thi và Đan Mạch cũng nói là rất chắc sẽ tham dự. Đan
Mạch cũng đề nghị thủ đô Copenhagen là một địa điểm
có thể cho phòng thí nghiệm mới, trong khi Bỉ và Ý
đề nghị thành phố Genève.
CERN thành hình
Hai tháng sau, 11 chính phủ châu Âu đồng ý thiết lập
một hội đồng quản trị lâm thời và tên gọi CERN ra
đời (viết tắt của Conseil Européen pour la Recherche
Nucléaire). Nhờ sự hảo tâm và tầm nhìn xa của Thụy
Sĩ, tháng 10.1952 Genève đã được chọn làm địa điểm
cho cơ sở phòng thí nghiệm, và vào tháng 7.1953 Hiệp
ước CERN được phê chuẩn bởi 12 nước thành viên sáng
lập: Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Hy
Lạp, Ý, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương
quốc Anh và Nam Tư.
Máy cyclotron đầu tiên – năng lượng 600 MeV – đi vào
hoạt động năm 1957. Hai năm sau, thêm máy proton
synchrotron 28 GeV gia nhập, và trong một giai đoạn
ngắn đó là máy gia tốc hạt có năng lượng cao nhất
thế giới.
Ngày nay, lúc CERN bước vào một giai đoạn mới đầy
phấn khởi, thật đáng hồi tưởng lại nhiều nghịch lý
trong giai đoạn thành lập tổ chức nổi tiếng này. Thí
dụ như, tại hội nghị 1951, bất thường trong thời
điểm đó là Vương quốc Anh ở một vị trí đối lập với
những ý nguyện của Mỹ. Và cũng bất thường là sự kiện
Hoa Kỳ ý thức mạnh hơn hẳn Anh về nhu cầu tăng cường
nền khoa học châu Âu, một thành phần trọng yếu của
nền văn hóa châu Âu.
Mặc dầu trong những người sớm có ý kiến thành lập
CERN bao gồm cả nhà vật lý tên tuổi người Pháp Louis
de Broglie, đối với những người ủng hộ thành lập
CERN thì nhấn mạnh đến đâu cũng không quá tầm quan
trọng của sự kiện Hoa Kỳ đã đi đầu đề nghị ý này đến
UNESCO - điều này làm khó khăn hơn nhiều cho những
ai khác ở châu Âu muốn chống lại. Nhưng sự ủng hộ
của Mỹ cho sự ra đời của CERN có lẽ đã làm cho chính
những nhà vật lý Mỹ phải trả giá. Những năm sau này,
những nhà làm chính sách ở Mỹ đã dùng sự hiện hữu
của CERN như là lý do để từ chối các đòi hỏi từ cộng
đồng khoa học Mỹ để xây dựng những máy năng lượng
cao đắt tiền ở chính nước của họ.
Rất ít người trong nhóm chúng tôi có mặt trong hội
nghị tháng 12 năm 1951 ấy nghĩ rằng khi hội nghị kết
thúc lại có đông như thế những người biểu quyết chấp
nhận mang ý tưởng CERN tiếp tục tiến tới. Chúng tôi
bắt đầu buổi họp bằng nhiều phát biểu các ý kiến
khác nhau, nhưng luôn giữ một tầm nhìn xa thống nhất
về sự hợp tác rộng lớn hơn trong khoa học và cho một
nền hòa bình bền vững trên lục địa của chúng tôi.
Tầm nhìn xa ấy là điều cuối cùng đã ngự trị vững
vàng. Nếu lúc ấy hội nghị thất bại, nếu lúc ấy các
nhà khoa học và chính phủ không thể đi đến đồng ý về
một chương trình hành động chung, thì sự thất bại sẽ
còn được cảm nhận rộng hơn nhiều bên ngoài thế giới
vật lý nguyên tử.
Hội nghị đã thành công, và điều này cho phép tôi
chấm dứt bài nói chuyện của chúng ta với nhận xét
là: “nếu trong các nhà ngoại giao ít có nhà khoa
học, thì rõ ràng trong các nhà khoa học có nhiều nhà
ngoại giao.”
François de Rose
François de Rose chủ toạ hội nghị do UNESCO tổ chức
tại Paris từ 17 đến 21 tháng mười hai 1951. Ông là
chủ tịch hội đồng CERN từ năm 1959 đến 1962 và là
đại sứ Pháp trong khối NATO từ năm 1970 đến 1975.
Ông là tác giả sách ‘La France et la defense de l’
Europe’ (Seuil, 1976), bản dịch Anh ngữ là ‘European
security and France’ (MacMillan, 1984).
|