Theo dòng thời gian
Cụm từ "khoa học kỹ thuật" được
dịch trực tiếp từ tiếng Anh "science and
technology" và dùng rộng rãi
vài thập niên trước nhưng ngày nay được thay thế bởi
cụm từ "khoa học công nghệ". Hai khái niệm "khoa
học" và "công nghệ" lúc nào cũng được đặt cạnh nhau
cho thấy sự gần gũi bất khả phân giữa hai lĩnh vực
mặc dù trên thực tế giữa "khoa học" và "công nghệ"
là khoảng cách dài và cũng có thể là một hố sâu thăm
thẳm hay thậm chí một thung lũng chết. Khoa học xoay
quanh việc tìm giải đáp cho câu hỏi "tại sao"(why)
trong khi công nghệ nhắm vào việc tìm kiếm con
đường, phương pháp nhằm giải quyết câu hỏi "làm sao"
(how). Chúng khác nhau từ điểm xuất phát, nên lôi
kéo hai khái niệm này để chúng "đồng sàng" khăng
khít với nhau, như sẽ đề cập ở phần sau, là một việc
không dễ, đòi hỏi chính sách khôn khéo và quản lý
hiệu quả. Nhưng có một điều chắn chắn là "khoa
học không có công nghệ chỉ là khoa học tháp ngà, và
công nghệ không có khoa học chỉ là công nghệ hạ
tầng".
Khoa học xuất phát từ nhu cầu
hiểu biết và sự hiếu kỳ của con người đối với môi
trường xung quanh. Nền khoa học hiện đại bắt đầu khi
400 năm trước Galilei lần đầu tiên xoay kính thiên
văn tự chế của mình quan sát và tìm hiểu quy luật
vận chuyển của những vì sao trong vũ trụ mông lung.
Khoa học từ đó được xem là một quá trình trong đó
nhà khoa học giải thích dữ liệu thu thập từ quan sát
hay thực nghiệm và thống nhất chúng theo một mô hình
hay lý thuyết trong một lôgic chặt chẽ hay theo một
quy trình ngược lại là dùng toán học để lập ra một
giả thiết rồi thực chứng nó bằng thực nghiệm. Thực
nghiệm và quan sát chỉ có giá trị khi được lặp lại
nhiều lần và cho cùng một kết quả. Giả thiết chỉ
thành định luật khi được kiểm chứng bởi thực nghiệm.
Định luật càng giá trị khi nó càng phổ quát. Công
thức E = mc2 của Albert
Einstein là một định luật vĩ đại vì nó bao trùm cả
vũ trụ. Tương tự, phương trình sóng điện từ của
James Maxwell với bốn công thức đơn giản đã cho thấy
sự kết hợp hai thực thể khác nhau là điện trường và
từ trường tạo ra một thực thể thứ ba là sóng điện từ
có bước sóng cực nhỏ từ tia gamma ở picomét (10-12
m) đến sóng radio dài hàng chục km.
Những tích lũy và phát triển của
khoa học đã nâng cao tính lôgic trong suy luận và sự
hiểu biết của loài người đối với thiên nhiên và lợi
dụng quy luật thiên nhiên phục vụ cho sinh hoạt của
mình. Tính chặt chẽ lôgic của khoa học đã và tiếp
tục tạo ra một lớp người mới với tư duy mới có niềm
tin và đam mê mãnh liệt nhưng không mù quáng giáo
điều, nhạy bén với thiên nhiên nhưng thận trọng
trong phân tích, miệt mài trong công việc nhưng khó
tính với cái hiện có, một cung cách tận tụy lúc thì
ráo riết lúc thì trầm tĩnh, lúc thì lãng mạn lúc thì
nghiêm túc, tỉ mỉ với chi tiết nhưng rộng mở và sẵn
sàng điều chỉnh suy luận vốn có của mình. Tóm lại,
đó là những đặc tính trân quý nhưng không giống ai,
nên thỉnh thoảng bị người đời hiểu lầm là kẻ lý sự
thích tìm hiểu những điều mông lung…
Những người lý sự, quyết tâm,
lãng mạn, cá tính, hơi gàn dở lại thường là chủng tử
cách mạng. Từ chiếc viễn vọng kính của Galilei, định
luật thiên văn Kepler và đến các định luật Newton
của thế kỷ 17, xã hội loài người đương thời vẫn chưa
cảm nhận ngay những thay đổi lớn từ các thành quả
nghiên cứu của khoa học. Nhưng, chỉ trong vòng 100
năm tư duy khoa học nẩy mầm tạo ra hàng hàng lớp lớp
các nhà khoa học và kỹ sư sẵn sàng làm bùng nổ một
quả bom cách mạng. Cuộc Cánh mạng Công nghiệp nhen
nhúm từ hậu bán thế kỷ 18 kéo dài đến đầu thế kỷ 19
với kỹ thuật luyện kim, tơ sợi, hoá chất và chiếc
máy hơi nước của James Watt (1775) không những đưa
nước Anh lên hàng cường quốc của thời đại nơi "mặt
trời không bao giờ lặn", mà còn làm chấn động thế
giới thay đổi bộ mặt của toàn thể xã hội loài người.
Tinh thần Nhật Bản
Những chiếc thương thuyền chạy
bằng hơi nước và những chiến hạm trang bị súng thần
công mang Cách mạng Công nghiệp đi nửa vòng thế giới
thổi một luồng gió lốc vào phương Đông còn chìm đắm
trong giấc ngủ triền miên trên chiếc gối "tứ thư ngũ
kinh". Đứng trước sức mạnh cơ khí của phương Tây,
người Nhật Bản và người Trung Hoa có phản ứng hoàn
toàn khác nhau. Tiếng nã pháo từ những chiến hạm Tây
Dương làm người Nhật thức tỉnh nhưng người Trung Hoa
vẫn u mê giấc điệp. Chiến tranh Nha phiến vào thế kỷ
thứ 19 bắt đầu một thời kỳ đưa dân tộc Trung Hoa vào
một "thế kỷ ô nhục". Nhưng vua quan nhà Thanh vẫn
chưa thức tỉnh do quyền lợi của những nhóm nịnh thần
quan tham, kẻ không tham ô thì lại bảo thủ mang tư
tưởng bài ngoại và tinh thần hủ nho thâm căn cố đế,
tự cao tự đại xem mọi kỹ thuật như một phường xảo
thuật (kỳ kỹ dâm xảo).
Quả thật, tư duy có ảnh hưởng đến
sự sống còn của một quốc gia. Ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa rất sâu sắc trong văn hóa người Nhật Bản
nhưng họ du nhập có chọn lọc không giáo điều, không
từ chương sáo ngữ. Sĩ phu Nhật Bản (samurai) một mặt
học tập, làu thông Luận Ngữ, Kinh Thi, một mặt thách
thức giáo điều Khổng Mạnh; họ bài bác Tống Nho nhưng
nhiệt tình đón nhận Nho học thực tiễn của Vương
Dương Minh với tư tưởng chủ đạo là "tri hành hợp
nhất" [1]. Họ sáng lập ra trường phái "Dương Minh
học", phát huy tư tưởng của họ Vương và sau này ăn
sâu vào tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật. Khi
người phương Tây xuất hiện, giai cấp võ sĩ nhận ra
ngay ra nguy cơ tụt hậu của mình và đã từng nói với
nhau "mười thanh kiếm bushido (võ sĩ đạo) không
bằng một khẩu súng ngắn phương Tây". Cũng vào
thế kỷ 19 khi những chiếc tàu đen (black ship) của
phương Tây bắt đầu quấy rối quần đảo Okinawa và thấp
thoáng ngoài khơi Kagoshima cực nam nước Nhật, phiên
chủ đương thời là Shimazu Nariakira [2] nhận thấy
sức mạnh của khoa học kỹ thuật phương Tây nên gấp
rút canh tân. Ông mở một công xưởng để luyện thép
chế tạo súng ống, súng thần công (Hình 1). Ông bắt
chước phương Tây huy động việc chế tạo tàu chạy bằng
hơi nước, gắn súng thần công biến thành chiến hạm
giao tranh với người Anh. Ông còn mời các nhà Lan
Học (ran-gaku, tiền thân các nhà khoa học
Nhật Bản) [3] chuyên về cơ khí, vật lý, hóa học,
sáng chế các dụng cụ truyền thông như điện thoại,
điện báo, chế tạo thủy tinh, nghệ thuật ấn loát, các
loại tơ sợi may mặc và thuốc súng. Có lẽ đây là lần
đầu tiên sự tương quan giữa khoa học hiện đại và
công nghệ được phát huy triệt để ở phiên trấn xa xôi
của một nước phương Đông. Sau này, con ông mua nhiều
tàu hơi nước của Anh và Mỹ và áp dụng "công nghệ
ngược" (reverse engineering) [4] làm tàu có công lực
tương đương với tàu thủy phương Tây.

Súng thần công do
Shimazu Nariakira đúc chế đã được dùng bắn
chìm chiến hạm Anh vào đầu thế kỷ thứ 19.
Dài 5 m, nặng 5 tấn có thể bắn viên đạn nặng
30 kg đi xa 3 km (ảnh của tác giả chụp tại
Kagoshima).
Tầm nhìn thực dụng của cha con Shimazu Nariakira đã mở
ra một thời đại khoa học công nghệ và truyền thống
này kéo dài đến hôm nay cho ra những sản phẩm mang
thương hiệu đầy uy tín "made in Japan". Song
song với việc mô phỏng công nghệ các dụng cụ phương
Tây là một phong trào khai sáng dịch thuật vĩ đại
dùng Hán tự để dịch các thuật ngữ của mọi thư tịch
phương Tây từ văn học nghệ thuật đến khoa học kỹ
thuật bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 18 và tiếp tục đến
ngày nay. Cách sử dụng nhuần nhuyễn và thông hiểu
thấu đáo Hán tự của người Nhật đã giúp họ sáng tạo
hàng vạn từ mới và giải phóng những quốc gia nằm
trong trong không gian văn hóa chữ vuông kể cả Việt
Nam thoát ra một thời đại u tối, bước sang trang
tiếp cận trực tiếp đến nền văn minh xán lạn cơ khí
phương Tây. Trung Quốc phải du nhập những từ dịch
Hán tự của Nhật và rầm rộ cho người sang Nhật du học
để bắt kịp trào lưu thế giới. Nhà triết học Hegel đã
từng băn khoăn trở ngại của Hán tự trong việc phát
triển khoa học thì phong trào dịch thuật của người
Nhật Bản đã nhẹ nhàng hóa giải niềm âu lo của ông
[5].
Một trăm năm sau, khoa học và
công nghệ Nhật Bản vẫn song hành và bổ túc cho nhau.
Một mặt, Yukawa Hideki người Nhật đầu tiên đoạt giải
Nobel Vật Lý (1949). Mặt khác, những nhà công nghệ
lỗi lạc như Honda Soichiro (nhà sáng lập hãng xe
Honda) và Matsushita Konosuke (nhà sáng lập hãng
điện tử Panasonic) xuất thân bần hàn và trình độ học
vấn ở cấp tiểu học đã làm kinh ngạc thế giới khi cho
ra đời những sản phẩm chất lượng. Những nhân vật
kiệt xuất này và nhiều người khác đã mang những tia
sáng bình minh đến cho nhân dân Nhật xua đuổi đêm
dài u tối, cơ cực triền miên và dư âm chiến tranh,
giúp Nhật Bản trỗi dậy từ đống tro tàn chiến bại. Họ
nhanh chóng thay đổi khẩu hiệu "phú quốc cường
binh" của Minh Trị Duy Tân đưa đến chủ nghĩa
quân phiệt bằng khẩu hiệu "kỹ thuật lập quốc"
ở thập niên 60 của thế kỷ trước, ngẩng đầu bước tới
tiếp tục cuộc hành trình dựng nước bằng khoa học kỹ
thuật.
Tự do trong nghiên cứu khoa học?
Ngày nay, động lực thúc đẩy con
người làm nghiên cứu khoa học vẫn không thay đổi.
Lòng hiếu kỳ đối với thiên nhiên và sự đam mê khoa
học vẫn bất biến. Vốn tri thức của con người gia
tăng theo thời gian nhưng tạo hóa vẫn còn nhiều bí
ẩn. Truy tìm thiên nhiên, lý giải thiên nhiên, thiết
lập định luật rồi áp dụng nó là một hành trình tất
nhiên trong nghiên cứu khoa học. Lịch sử khoa học đã
cho thấy một số thành quả của nghiên cứu khoa học
không sớm thì muộn sẽ có một tác động cụ thể vào
sinh hoạt con người. Thuyết lượng tử là một thí dụ.
Là một lý thuyết thành hình và phát triển ở đầu thế
kỷ 20, một sân chơi của các nhà toán học và vật lý
lý thuyết, diễn tả những đặc tính thế giới vi mô cuả
vật chất cực nhỏ như nguyên tử, phân tử, cơ học
lượng tử cơ hồ như không dính líu vào cuộc sống đời
thường. Nhưng bây giờ nó đã trở thành một cột trụ
trong việc phát triển những linh kiện, dụng cụ và hệ
thống điện tử, quang điện tử, thậm chí trong một
tương lai rất gần, vi tính lượng tử, không thể thiếu
trong cuộc sống của một xã hội văn minh. Phương
trình sóng điện từ Maxwell là căn bản của ngành viễn
thông, chi phối sự vận hành của những đài ăngten cao
ngất ngưởng đến chiếc điện thoại cầm tay nhỏ bé. Hóa
học là một thí dụ khác. Các sản phẩm từ dầu hỏa,
plastic/polymer, sơn, dược liệu, tơ sợi, phân bón,
thuốc sát trùng và nhiều sản phẩm hóa học khác có
doanh thu vài ngàn tỷ đô la mỗi năm trên thị trường
thế giới.
Việc công nghiệp hóa các công
trình nghiên cứu thuần lý hay cơ bản thường theo
bước đưa đẩy tùy hứng của nhu cầu xã hội loài người
đã chiếm một thời gian dài trong lịch sử khoa học.
Nhu cầu xã hội hôm nay càng lúc càng phức tạp khiến
cho sự tương tác giữa khoa học và công nghệ càng đa
dạng và trong cơn lốc của nhiều khám phá khoa học vĩ
đại, con người không thể chờ đợi vài trăm năm hay
chục năm dựa vào sự đưa đẩy ngẫu nhiên mà cần có một
cơ chế quản lý năng động sao cho trong một thời gian
ngắn những khám phá có thể biến thành ứng dụng thực
tiễn.
Nghiên cứu và ứng dụng khoa học
cũng phải tuân theo quy luật kinh tế. Nghiên cứu là
quá trình biến tiền thành tri thức, và ứng dụng là
quá trình biến tri thức thành tiền. Trong ý nghĩa
này nghiên cứu khoa học không phải là một dạng của
chủ nghĩa tự do tuyệt đối. Kết quả của một công
trình khoa học phải thỏa mãn những lời giao ước
trong hợp đồng hay những thành quả cụ thể đã được đề
nghị trong một công trình nghiên cứu với "ông chủ"
cung cấp kinh phí hay lương bổng. Einstein cũng ao
ước có được sự tự do tuyệt đối trong nghiên cứu nên
có lần hóm hỉnh phê bình, "Khoa học sẽ là một thứ
tuyệt vời, nếu người ta không phải nhờ vào nó để mưu
sinh".
Khoảng không gian tự do đó thật
sự đã tồn tại trong quá khứ. Tại Mỹ, sau Thế chiến
thứ hai theo đà phục hồi của nền kinh tế hậu chiến
các công ty lớn như AT&T Bell Labs, Du Pont, Xerox,
Lockheed Martin, Eastman Kodak, IBM, Texas
Instruments v.v... đã tạo ra những thiên đàng nghiên
cứu cơ bản. Ban quản lý cho phép các nhà khoa học
R&D làm nghiên cứu tự do với dòng kinh phí hầu như
bất tận từ lợi nhuận dồi dào của công ty. Đây là
thời kỳ vàng son của các nhà khoa học làm việc cho
các công ty tư nhân với sự tự do tuyệt đối trong
nghiên cứu và đồng lương hậu hỹ.
Như một khoa học gia từng làm
việc tại Bell Labs trong thập niên 70 của thế kỷ
trước hồi tưởng, "Bell Labs là một nơi tuyệt vời.
Công ty chọn những người ưu tú vào làm việc rồi vui
vẻ bảo: này nhé, các cậu muốn làm gì thì làm, chúng
tôi không can dự" [6]. Nghe như nằm trong
mơ. Hệ quả là AT&T Bell Labs lừng danh thế giới, bao
nhiêu nhân tài thế giới tập trung về đây như một
vùng đất hứa. Các nhà nghiên cứu Bell Labs không
ngừng khám phá và những thành quả được đăng trên các
tạp chí khoa học quyền uy, thậm chí có đến 13 người
đoạt giải Nobel. Hiện tượng "Bell Labs" chưa từng
thấy trong lịch sử khoa học. Chưa có một viện R&D tư
nhân nào trên thế giới đưa ra một thành tích nghiên
cứu khoa học cơ bản vô cùng xuất sắc như Bell Labs.
Nhưng có một hệ quả khác, đáng quan tâm hơn, là rất
ít những thành quả khoa học tạo ra ảnh hưởng lớn đến
việc làm ăn trong ngành viễn thông của hãng mẹ AT&T.
Khi sự cạnh tranh trên thương trường trở nên quyết
liệt với áp lực đến từ bên trong cũng như ngoài nước
Mỹ, những chuyện thế tục liên quan đến "cơm áo gạo
tiền" và sự sống còn của công ty trở nên vấn đề cấp
bách. Các tập đoàn doanh nghiệp Mỹ phải tái cấu trúc
để cân bằng việc sản xuất và nghiên cứu.
Cuộc vui nào cũng có hồi kết
cuộc. Vài phân bộ sản xuất của Eastman Kodak giờ đây
đi đến bờ phá sản. Sau những năm dài ngất nguởng
trong nghiên cứu cơ bản, thời đại vàng son của chủ
nghĩa tự do và tùy hứng trong nghiên cứu khoa học
chấm dứt. Nhưng người ta sẽ nhắc đến nó như một câu
chuyện cổ tích lãng mạn khoa học trong nỗi bàng
hoàng thêm một thoáng bùi ngùi của Lưu Nguyễn lạc
thiên thai…
Khoa học và thực dụng
Dù không còn sự hào phóng của các
công ty Mỹ trong vài thập niên trước, hiện nay ở một
chừng mực nào đó chính phủ tại một số quốc gia cũng
dành một khoản lớn kinh phí cho các đề tài nghiên
cứu cơ bản để nâng cao trình độ khoa học. Các nhà
nghiên cứu và giáo sư đại học có nhiều tự do trong
nghiên cứu cơ bản như giải một định đề toán học,
tiên đoán sự hiện hữu của một vi hạt, khám phá ra
một thiên hà mới, bản chất của lỗ đen vũ trụ, tổng
hợp một hợp chất hóa học có cấu trúc tuyệt đẹp
v.v..., với một cứu cánh là phổ biến những khám phá
của mình trên các tạp chí chuyên ngành mang tăm
tiếng đến cho bản thân mình và cho nơi làm việc. Nếu
may mắn có một ứng dụng ngẫu nhiên nào đó thì cũng
như ổ bánh vốn thơm ngon lại được trang trí thêm một
lớp kem béo ngọt! Nhưng Einstein đã từng nói, "Sự
quan tâm về con người và số phận của con người lúc
nào cũng phải là một mục tiêu trong tất cả mọi nỗ
lực của khoa học kỹ thuật. Đừng bao giờ quên rằng
yếu tố này nằm đâu đó giữa những biểu đồ và công
thức của bạn". Mọi
nghiên cứu không chỉ dừng ở điểm thỏa mãn sự hiếu kỳ
hàn lâm. Nhà khoa học cũng không thể đứng ngoài vòng
xã hội, chỉ biết hãnh diện với số bài báo cáo khoa
học của mình. Tri thức khoa học chỉ thực sự có giá
trị nhân sinh và xã hội khi được tận dụng để tạo ra
vật chất, sản phẩm, đóng góp vào việc kiến thiết hạ
tầng cơ sở, nâng cao mức sống người dân, nền kinh tế
quốc dân và an ninh quốc phòng. Khoa học công nghệ
là nguồn vốn tinh thần và vật chất của một dân tộc,
là chìa khóa của sự hùng mạnh và tương lai xán lạn
của một quốc gia. Có thể nói là không có sự phát
triển kinh tế nếu không có tri thức khoa học. Đồng
thời, tri thức khoa học chỉ có giá trị kinh tế khi
được phổ biến rộng rãi và tận dụng đúng cách. Nhưng
nhà khoa học chỉ có thể tự giải phóng ra khỏi tháp
ngà nghiên cứu khi nào có một môi trường nghiên cứu
thuận lợi cho sự sáng tạo, phổ biến và thực dụng hóa
tri thức. Và đây là trách nhiệm của một chính phủ.
Giáo Dục - Khoa Học - Công Nghệ
là ba cột trụ cho sự phồn thịnh của một nước. Ba cột
trụ này liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục sẽ
cung cấp nhân tài cho khoa học và công nghệ, khoa
học là nền tảng cho tri thức và công nghệ, và công
nghệ là phương tiện làm cho dân giàu nước mạnh.
Trong ba thập niên qua những quốc gia tiên tiến hay
đang lên đã không ngừng cải cách và tạo ra những
liên thông giữa ba cột trụ này. Sự giao lưu giữa đại
học và doanh nghiệp hay các cơ quan nghiên cứu quốc
gia (tập trung vào quốc phòng, công nghiệp, nông
nghiệp, sinh y học) trở nên một tiền đề cho nền kinh
tế phồn vinh và quốc phòng hùng mạnh. Những công
viên công nghiệp (industrial parks) không ngừng mọc
lên để đưa các thành quả nghiên cứu hàn lâm đi một
bước xa hơn tạo ra vật chất, dụng cụ cho sự tiện ích
đời thường. Sự thành bại của các ứng dụng đưa đến
sản phẩm tùy thuộc vào sự am tường, bén nhạy, cập
nhật và biết chọn lọc của các nghiên cứu viên đối
với kho tàng các thành tựu của nghiên cứu cơ bản. Mô
hình hợp tác giữa Đại học Stanford và Thung lũng
Silicon trong việc chế tạo những loại mạch tích hợp
đã đóng góp rất lớn trong cuộc cách mạng tin học và
điện tử là một thí dụ [7]. Qua sự hợp tác, đại học
là nơi phần lớn các nghiên cứu cơ bản được thực hiện
sẽ có một hướng đi thực tiễn. Đồng thời, cơ quan
nghiên cứu chính phủ và doanh nghiệp sẽ là nơi tiếp
tục phát huy thành quả hàn lâm của đại học biến
thành sản phẩm công nghệ, tránh được trường hợp
những thành quả này rơi vào thung lũng chết.
Từ Đông sang Tây, công nghệ ngày
nay là yếu tố nổi bật cho sự sống còn của một quốc
gia. Sự cạnh tranh trên thương trường càng lúc càng
trở nên khốc liệt. Đối với doanh nghiệp, việc xuất
bản một báo cáo công trình trên tạp chí khoa học là
việc đáng khích lệ nhưng không phải là điều ban quản
lý đặt ưu tiên hàng đầu. Đó là việc của giới hàn
lâm. Điều họ quan tâm là tìm hiểu thị trường, áp
dụng khoa học vào việc gia tăng chất lượng sản phẩm,
triển khai sản phẩm và giảm giá thành sản xuất.
Doanh nghiệp phải được sự ủng hộ của chủ cổ đông
trên sàn chứng khoán và lòng yêu mến của giới tiêu
thụ trên thương trường. Tương tự, các cơ quan nghiên
cứu khoa học quốc gia phải tạo thành quả cụ thể được
nhà nước giao phó và xứng đáng với tiền thuế của
nhân dân. Doanh nghiệp phải chọn lựa tiềm năng ứng
dụng của một phát minh và cân bằng sự đầu tư tốn kém
của các đề án nghiên cứu. Nhà nước phải nhạy cảm với
xu thế của thời đại và nhu cầu đất nước đề ra chính
sách định hướng thích hợp cho các đề án nghiên cứu
hay tài trợ R&D cho doanh nghiệp.
Phác thảo một đạo luật, thực thi
một chính sách, đưa ra một chiến lược để triển khai
sản phẩm là những sự kiện nhiều phức tạp so với việc
thực hiện thí nghiệm trong phòng nghiên cứu hay xuất
bản một bài báo cáo. Vì vậy, khi phê bình thành quả
giáo dục, khoa học và công nghệ của một nước mà chỉ
theo thói quen hàn lâm liệt kê số bài báo cáo hàng
năm đăng trên tạp chí chuyên ngành, đánh giá tạp chí
nổi tiếng hay tầm thường bằng những chỉ số phức tạp,
thì e rằng khập khiễng, chưa toàn diện. Mặc dù đây
cũng là số liệu cần thiết, nhưng để có cái nhìn tổng
thể chúng ta nên đề cập đến sự quản lý tri thức,
việc đầu tư của chính phủ vào giáo dục, khoa học
công nghệ, chính sách phát triển lâu dài của nhà
nước, sự liên thông giữa doanh nghiệp và đại học,
giá trị gia tăng (value added) và doanh thu của sản
phẩm công nghệ như là thành quả của công trình khoa
học.
Đông, Tây và Ta
Từ Minh Trị Duy Tân đến ngày nay
lịch sử Nhật Bản đã trải qua nhiều bước thăng trầm
nhưng đất nước Phù Tang vẫn là một quốc gia tiên
tiến về khoa học công nghệ. Mang một truyền thống
hiếu học Khổng Mạnh cộng với lòng quyết tâm của
chính phủ qua nhiều đời tổng thống, Hàn Quốc học tập
mô hình Nhật Bản và sự phát triển của các nước
phương Tây đã đưa trình độ khoa học công nghệ của
mình vào những nước hàng đầu thế giới. Thức tỉnh sau
bài học của "trăm năm ô nhục" và ba thập niên bị phí
phạm cho đấu tranh giai cấp, Trung Quốc đang nỗ lực
tập trung cho việc đầu tư liên tục vào khoa học công
nghệ với những khoản tiền khổng lồ và kế hoạch phát
triển lâu dài [8-9]. Cách Sài Gòn 1 giờ 45 phút bay
là quốc đảo Singapore, chính phủ nước này thực hiện
chính sách thu hút nhân tài toàn cầu với những đãi
ngộ hậu hỹ, thiết lập những trung tâm nghiên cứu
khoa học và R&D đẳng cấp thế giới nhằm phát triển
nền kinh tế dựa trên khoa học và tri thức và rắp tâm
biến quốc đảo thành giao điểm Đông Tây của khoa học
công nghệ thế giới [10]. Giờ đây, người ta nói đến
Singapore với sự tôn trọng và kính phục.
Thế giới đang đi rất nhanh trong
việc kết hợp khoa học và công nghệ. Người ta tiên
đoán trọng tâm của nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ đang di chuyển về phương Đông. Trong bối
cảnh suy sụp kinh tế phương Tây mà một trong những
hệ quả nghiêm trọng là việc cắt giảm kinh phí trong
giáo dục, khoa học công nghệ, sự tiên đoán này càng
chính xác hơn bao giờ hết và đang lừng lững trở
thành hiện thực. Đây là điều mà ba thập niên trước
người ta chỉ dám đóng khung nó trong phạm vi suy
nghĩ đầy phóng túng của những người thích hoang
tưởng. Trong xu thế mãnh liệt thổi về Đông, liệu
Việt Nam sẽ hòa nhập theo luồng gió bay lên hay bị
cơn lốc đẩy ra ngoài như một nước nhược tiểu ngoại
vi? Những nhà lãnh đạo kính mến chắc hẳn có tầm nhìn
cho tiền đồ của nền giáo dục, khoa học và công nghệ
đất nước, vì "Ở nơi không có tầm nhìn, con người
sẽ diệt vong"[11].
Trương Văn Tân
Mùa xuân tỉnh lẻ,
Innovation Campus.
Tháng 10, 2011.
Tài liệu tham khảo và ghi chú
-
Vương Dương Minh (Wang
Yangming, 1472–1529) là một triết gia lỗi lạc
thuộc trường phái Tân Nho học đời Minh.
-
"Phiên" tương đương với một
tỉnh. "Phiên chủ" là chủ một phiên có nghĩa gần
như lãnh chúa. Phiên chủ có quân đội riêng nhưng
phục tùng chính quyền trung ương. Shimazu
Nariakira (1809-1858) là phiên chủ của phiên
Satsuma (tỉnh Kagoshima ngày nay). Kagoshima nằm
ở vùng cực nam đảo Kyushu. Đảo Kyushu nằm phía
nam nước Nhật.
-
Lan Học (ran-gaku) là
cái học của Hà Lan. Phong trào này kéo dài từ
cuối thế kỷ thứ 18 đến đầu thế kỷ thứ 19. Thời
kỳ này là thời kỳ "tỏa quốc" (shakoku) hay là
"bế môn tỏa cảng" tại Nhật, duy nhất chỉ có
người Hà Lan mới được phép đến Nagasaki (một
tỉnh phía Bắc đảo Kyushu) buôn bán. Các sĩ phu
Nhật cùng nhau kéo về Nagasaki để tìm người Hà
Lan học hỏi những môn khoa học hiện đại bao gồm
y học, vật lý, hóa học, thực vật học v.v...
-
Reverse engineering: tạm dịch
là "cộng nghệ ngược", là một phương pháp mô
phỏng một hiện vật bằng cách phân rã những bộ
phận của hiện vật "nguyên mẫu" rồi chế tạo từng
bộ phận và lắp ráp lại thành một hiện vật "mô
phỏng". Trung Quốc hiện nay áp dụng phương pháp
này để chế tạo đầu máy xe lửa cao tốc, máy bay
dân dụng, quân sự và máy móc các loại.
-
G. W. F. Hegel, "Các bài
giảng về Triết lý của Lịch sử", nxb
Suhrkamp, Frankfurt 1970 (Nguyễn Xuân Xanh trích
dịch).
-
R. J. Anderson and O. R.
Butler, "Industrial R&D in transition"
Physics Today (July 2009) pp 36.
-
Gehard Casper, "Advantage
of the research-intensive university", 1998
(bản dịch Trương Văn Tân & Nguyễn Xuân Xanh,
Diễn văn “Ưu điểm của Đại học nghiên cứu tập
trung. Đại học thế kỷ 21”, Kỷ Yếu Đại Học
Humboldt 200 năm, nxb Tri Thức, Hà Nội 2011,
trang 739-753).
-
"Science and Technology in
China: A roadmap to 2050” (Yongxiang Lu
Eds.), Springer, Heidelberg 2009.
-
News Feature: China,
Nature 454 (24 July 2008) pp 282.
-
M. Banks, "Singapore seeks
a fusion of talent", Physics World
(September 2010),pp 12.
-
"Where there is no vision,
the people perish", Proverbs 29:18.
Đã đăng ở
Diễn Đàn |