A- Lịch sử
ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3
-Nguồn gốc
-Lịch sử
B-
Những vị nữ nguyên thủ quốc gia
C- Những người nữ được giải Nobel
D- Bên lề
-
Mọi phụ nữ đã
thực sự được giải phóng chưa? (ném đá,
đa thê)
-
Những bạo
hành trong gia đinh
-
Afghanistan - vùng đất của những người
phụ nữ bị bạo hành
(đọc báo)
E- Bấm vào để xem video:
-
nghệ thuật "Women
in art" của Philip Scott Johnson
-
Nghe hát:
Bread and
Roses
A- Lịch sử ngày Quốc tế Phụ
nữ 8/3
Trong một thế kỷ qua, người phụ nữ đã giành
được sự
bình đẳng
trước
pháp
luật
trong
hầu hết các nước trên thế giới.
Tuy thế,
hiện
nay
phụ nữ vẫn
còn tiếp tục tranh đấu
ở nhiều
nơi.
Ngày
Quốc tế Phụ nữ, được Liên Hiệp Quốc chính
thức hóa
vào
ngày 8 tháng 3 năm 1977. Ngày này cho chúng
ta nhớ lại những
thành quả
đó và cũng để ta suy nghĩ về hoàn cảnh của
người
phụ nữ
trên
toàn
thế giới .
1-
Nguồn gốc
Ngày Phụ Nữ Quốc tế cũng như những ngày lễ
tượng trưng khác, không phải có một nguồn
gốc hay một sự việc duy nhất, mà là thành
quả của biết bao là đấu tranh và cũng là
cuộc hành trình lặng lẽ của hàng triệu phụ
nữ trên thế giới.
Thời cổ Hy Lạp,
Lysistrata
bắt đầu cho cuộc tranh đấu chống lại nam
giới để chấm dứt chiến tranh.
Lịch
sử của ngày Quốc Tế Phụ nữ bắt đầu từ năm
1857 đến 1911.
Ngày 8 tháng 3 năm 1857
các công nhân ngành dệt chống lại những
điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của
họ tại New York: 12 giờ làm việc một ngày.
Hai năm sau, cũng trong tháng Ba, các nữ
công nhân Mỹ trong hãng dệt
thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên để
được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
tại Lawrence, Hoa kỳ.
Năm mươi năm sau, ngày
8
tháng 3 năm 1908, 15.000 phụ nữ diễu hành
trên các đường phố New York để đòi
được giảm giờ làm việc, lương cao hơn và hủy
bỏ việc bắt
trẻ con
làm việc. Khẩu hiệu của họ
"Bread and Roses". Bánh mì tượng trưng cho
bảo đảm kinh tế gia đình, Hoa hồng tượng
trưng cho đời sống tốt đẹp hơn.
Sau đó, đảng Xã hội Mỹ tuyên
bố ngày Quốc tế phụ nữ ngày
28 tháng 02 năm
1909
Phụ nữ cử hành lễ này vào
ngày chúa nhật cuối của tháng 2 cho tới năm
1913
Trong
buổi họp mặt Quốc tế,
kỳ
thứ II các Phụ nữ đảng xã hội,
8 tháng 3 năm 1910 ,100
đại
biểu phụ nữ thuộc
17 nước đòi quyền bầu cử
cho phụ nữ.
Chủ tịch là
Clara Zetkin,
người Đức, đã đề nghị thành lập một ngày
quốc tế phụ nữ để nhớ ơn những người
đàn bà đã
đầu tranh trên toàn thế giới. Do đó, buổi
họp đã chọn ngày
19
tháng 3 năm 1911 để làm
ngày phụ nữ quốc tế.
Ngày này
đã được hơn một triệu người tham gia trong
các nước Áo, Ðan mạch, Ðức và Thụy sĩ.
Không đầy một tuần sau, ngày
25 tháng 3
năm 1911,
145 nữ công nhân, phần lớn là di dân Ái nhĩ
lan và Do thái của hãng
Triangle Shirtwaist
Company tại New
York
đã
chết trong một vụ cháy trong xưởng dệt.
Họ không có ngõ thoát ra ngoài được: cửa
xưởng
đã được
khóa chặt
để công nhân không được ra ngoài trước khi
hết
giờ làm việc
(Ðiều
này đã thúc đẩy việc sửa đổi luật lệ lao
động).
80.000 người diễu hành trong các đường phố
đễ đưa đám tang lớn của 145 nạn nhân chết
cháy

Một năm sau,
1912, 14.000 công nhân hãng dệt đình
công và la lớn
"Better to starve fighting than starve
working"
(Chết đói vì chiến đấu hơn chết
đói vì làm việc).
Nữ công nhân nghỉ việc 3 tháng.
Sự can đảm của họ đã làm
James Oppenheim
cảm hứng bài thơ Bread and
Roses, bài này thường đi hát trong ngày Quốc
tế Phụ nữ.

Nghe
hát:
Bread and
Roses
As we
go marching marching in the beauty of the
day
A million darkened kitchens, a thousand mill
lots gray
Are touched with all the radiance that a
sudden sun discloses
For the people hear us singing: bread &
roses, bread & roses!
As we
go marching, marching, we battle too for men
For they are women's children & we mother
them again
(For men can ne'er be free til our slavery's
at an end)
Our lives shall not be sweated from birth
until life closes
Hearts starve as well as bodies, give us
bread but give us roses>
As we
go marching, marching, unnumbered women dead
Go crying thru our singing their ancient
call for bread
Small art & love & beauty their drudging
spirits knew
Yes it is bread we fight for, but we fight
for roses too
As we
go marching, marching, we bring the greater
days
The rising of the women means the rising of
the race
No more the drudge & idler, ten that toil
where one reposes
But a sharing of life's glories - bread &
roses, bread & roses!
Năm
1912, nhà thơ Mỹ James Oppenheim
(1882 - 1932)
viết bài thơ Bread and Roses sau lần diễu
hành của 14.000 người đình công tại Lawrence,
Massachusetts.
2-
Lịch sử
8 tháng 3 năm 1914
Phụ nữ Đức đòi quyền bầu cử nhưng đến ngày
12 tháng 10 năm 1918 mới được chấp thuận.
Ngày 23 tháng 2 năm 1917
theo
lịch Nga, nhằm ngày 8 tháng 3
dương lịch
các nữ công nhân Nga đã ra
đường biểu
tình
đình công, đòi bánh mì và đòi
trả
chồng
con
họ trờ về từ chiến trận.
Cuộc đình
công này đã khiến Sa hoàng Nicolas đệ nhị
phải thoái vị và góp phần rất lớn vào
cuộc Cách mạng
tháng 10 ở
Nga.
21 tháng 4 năm 1944
Quốc hội Pháp
chấp
nhận quyền bầu cử cho phụ nữ Pháp. Phụ nữ
Pháp đã đi bầu hội đồng thành phố lần
đầu tiên vào
ngày 20 tháng Tư năm 1945. Trong lúc đó
đàn
ông Pháp đã
được
đi
bầu từ năm 1848 tức là từ một thế kỷ
trước
8 tháng 3 năm 1948, tại nước Pháp, 100.000 phụ
nữ đã tổ chức một cuộc diễn hành tại Paris,
từ Place
de
la République đến tượng Jeanne d’Arc
Từ năm 1950 tại Việt Nam, vào ngày mùng 6
tháng hai âm lịch mỗi năm đều có tổ chức
ngày lễ Hai Bà Trưng ở Sài gòn, và sau đó đã
dùng ngày lễ này làm ngày Phụ nữ. Mỗi năm
dều chọn một nữ sinh trường Trưng Vương và
một nữ sinh trường Gia Long đóng vai Hai Bà
Trưng ngồi trên bành voi trong dịp cử hành
lễ.
1971,
Thụy Sĩ chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ.
8 tháng 3 1975, Liên
Hiệp quốc bắt đầu chú ý và
tổ chức
ngày Quốc tế Phụ nữ
Năm 1977,
nghĩa là hai năm sau ngày Quốc tế Phụ nữ,
Liên Hiệp Quốc
quyết định mời các nước dành một ngày để nói
lên quyền lợi của người phụ nữ và hòa bình
thế giới.
Ngày 8 tháng 3 trở thành ngày lễ chung cho
nhiều quốc gia.
Brot und Rosen
Wenn wir zusammen gehen,
geht mit uns ein schöner Tag,
durch all die dunklen Küchen und wo grau ein
Werkshof lag,
beginnt plötzlich die Sonne uns're arme Welt
zu kosen,
und jeder hört uns singen: Brot und Rosen.
Brot und Rosen! ...
Wenn wir zusammen gehen, kommt mit uns ein
bess'rer Tag.
Die Frauen, die sich wehren, wehren aller
Menschen Plag.
Zu Ende sei: daß kleine Leute schuften für
die Großen.
Her mit dem ganzen Leben: Brot und Rosen!
Brot und Rosen!
Du Pain et des Roses
Pendant que nous marchons par cette
splendide journée
Un million de cuisines sombres et d'usines
sont arrêtées
Toutes touchées par l'éblouissement d'un
soleil soudain
Au son de nos voix qui scandent «Des roses
et du pain!»
Pendant cette marche, nous luttons aussi
pour les hommes
Aussi enfants des épouses et mères que pour
eux nous sommes
Nous ne travaillerons pas éternellement à la
sueur de nos fronts
Le cœur a faim lui aussi : du pain, mais
aussi des roses nous voulons
b
B-
Những vị nữ nguyên thủ quốc gia
Gần ngày Quốc tế phụ
nữ, sau khi nghiên cứu trong số 42 quốc gia
người ta thấy, tỷ lệ phần trăm trung bình
của phụ nữ bộ trưởng là 28,6%, trong khi đó
tại quốc hội chỉ chiếm 21,7%
Chỉ ba nước thành viên đã đạt tới mức tối
thiểu được đề nghị vào quốc hội là: Thụy
Điển (46%), Phần Lan (41,5%) và Hà Lan
(41,3%).
Tại Pháp nam giới chiếm 81,5%, nữ giới bị
dưới mức trung bình so với châu Âu.
Phần Lan (60%) và Tây Ban Nha (52,9%) là hai
nước duy nhất mà nữ giới giữ chức vụ bộ
trưởng nhiều hơn nam giới.
Châu Âu có hai phụ nữ đứng đầu nhà nước, là
Finland và Ireland,
và hai phụ nữ đứng đầu chính quyền ở Đức và
Ukraina.
Trong số 635 thành viên của nghị viện Hội
đồng Châu Âu chỉ có 29,3% phụ nữ được bổ
nhiệm hoặc được bầu vào quốc hội.
Vị nữ nguyên thủ quốc gia
đầu tiên của thế giới: :
Suhbaataryn Yanjmaa,
nước
Mongolia , năm 1953

Victoria |
Anh quốc,
Irlande, Ấn độ |
Nữ hoàng |
Victoria,
nữ hoàng
các nước :Anh quốc và Irlande (1837-1901), Ấn độ (1876-1901) |
Wilhelmine, Juliana,
Beatrix |
Hòa Lan |
Nữ hoàng |
3 đời nữ hoàng:
Wilhelmine trị vì từ 23/11/1890 - 4/9/1948.
Truyền ngôi cho
con gái duy nhất
Juliana
(6/9/1948-30/4/1980). Juliana truyền ngôi cho con gái đầu Beatrix
(trong 4 người con gái) 30/4/1980 cho đến nay |
Elizabeth II |
Anh quốc,
Canada, Úc, New Zealand, Jamaica,
Barbados, Bahamas, Grenada, Papua New
Guinea, Quần đảo Solomon, của Tuvalu, Saint
Lucia, Saint Vincent &
Grenadines, Antigua &
Barbuda, Belize và Saint Kitts
& Nevis |
Nữ hoàng |
2/6/1953 cho đến nay |
Suhbaataryn Yanjmaa |
Mongolia |
Tổng thống |
23/9/1953-7/7/1954 |
Marguerite II |
Danemark |
Nữ hoàng |
14/1/1972 cho đến nay |
Isabel Peron |
Argentina |
Tổng thống |
1974-1976 |
Vigdís Finnbogadóttír |
Iceland
|
Tổng thống |
1980-96 |
Agatha Barbara |
Malta
|
Tổng thống |
1982-1987 |
Corazon Aquino |
Philippines |
Tổng thống |
1986-92 |
Sirimavo Bandaranaike |
Sri Lanka |
Thủ tướng |
1960-1965, 1970-1977, 1994-2000.
|
Indira Gandhi
|
Ấn độ |
Thủ tướng |
1966-77, 1980-1984. |
Golda Meir |
Israel |
Thủ tướng |
1969-1974 |
Elisabeth Domitien |
Cộng hòa Trung Phi |
Thủ tướng |
1975-1976 |
Margaret Thatcher |
Anh quốc |
Thủ tướng |
1979-1990 |
Maria da Lourdes Pintasilgo |
Portugal |
Thủ tướng |
1979-1980 |
Lidia Gueiler Tejada |
Bolivia |
Thủ tướng |
1979-1980 |
Dame Eugenia Charles |
Dominica |
Thủ tướng |
1980-1995 |
Gro Harlem Brundtland |
Norway |
Thủ tướng |
1981, 1986-1989, 1990-1996 |
Milka Planinc |
Yugoslavia |
Thủ tướng liên bang |
1982-1986 |
Maria Liberia-Peters |
Netherlands Antilles |
Thủ tướng |
1984-1986, 1988-1993 |
Benazir Bhutto |
Pakistan |
Thủ tướng |
1988-1990, 1993-1996 |
Kazimiera Danuta Prunskiena |
Lithuania |
Thủ tướng |
1990-91 |
Violeta Barrios de Chamorro |
Nicaragua |
Thủ tướng |
1990-1996 |
Mary Robinson |
Ireland |
Tổng thống |
1990-1997 |
Ertha Pascal-Trouillot |
Haïti |
Tổng thống lâm thời |
từ 3/1990-2/1991 |
Sabine Bergmann-Pohl |
Cộng hòa dân chủ Đức |
Tổng thống |
1990 |
Aung San Suu Kyi |
Myanmar (Burma) |
Thủ tướng |
Đảng của
bà thắng 80% trong lần tuyển cử tự do 1990
nhưng quân đội từ chối kết quả. Bà được giải
Nobel Hòa bình năm 1991 |
Khaleda Zia |
Bangladesh |
Thủ tướng |
1991-1996 |
Edith Cresson |
Pháp |
Thủ tướng |
1991-1992 |
Hanna Suchocka |
Poland |
Thủ tướng |
1992-1993 |
Kim Campbell |
Canada |
Thủ tướng |
25/6 đến 4/11 năm 1993 |
Sylvie Kinigi |
Burundi |
Thủ tướng |
1993-1994 |
Agathe Uwilingiyimana |
Rwanda |
Thủ tướng |
1993-1994 |
Susanne Camelia-Romer |
Netherlands Antilles |
Thủ tướng |
1993, 1998- |
Tansu Çiller |
Turkey |
Thủ tướng |
1993-1995 |
Reneta Indzhova |
Bulgaria |
Thủ tướng lâm thời |
1994-1995 |
Claudette Werleigh |
Haiti |
Thủ tướng |
1995-1996 |
Sheikh Hasina Wajed |
Bangladesh |
Thủ tướng |
1996-2001 và nhiệm kỳ tiếp 1996-6/1/2009 |
Chandrika Bandaranaike
Kumaratunge |
Sri Lanka |
Tổng thống |
Thủ tướng1994, Tổng thống,
2/11/1994-19/11/2005 |
Mary McAleese |
Ireland
|
Tổng thống |
1997-tái đắc cử
1/10/2004-2011 |
Janet Jagan |
Guyana |
Tổng thống |
Thủ tướng, 1997, Tổng thống,
1997-1999 |
Pamela Gordon |
Bermuda |
Thủ tướng |
1997-1998 |
Jenny Shipley |
New Zealand |
Thủ tướng |
1997-1999 |
Jennifer Smith |
Bermuda |
Thủ tướng |
1998-2003 |
Nyam-Osoriyn Tuyaa |
Mongolia |
quyền Thủ tướng |
tháng 71999 |
Helen Clark |
New Zealand |
Thủ tướng |
5/12/1999-19/11/2008 |
Rosalia Arteaga |
Ecuador |
Tổng thống |
phó tổng thống và tổng thống
1997-1999 |
Ruth Dreifuss |
Thụy sĩ |
Tổng thống |
1999-2000 |
Helen Clark |
New Zealand |
Thủ tướng |
5/12/1999-19/11/2008 |
Mireya Elisa Moscoso de
Arias |
Panama |
Tổng thống |
1/9/1999-30/8/2004 |
Vaira Vike-Freiberga |
Latvia |
Tổng thống |
1999-tái đắc cử 2003-2007 |
Tarja Kaarina Halonen |
Finland
|
Tổng thống |
2000-tái đắc cử 2006 |
Gloria Arroyo |
Phi Luật Tân |
Tổng thống |
1/2001-tái
đắc cử 2004 |
Michaëlle Jean |
Canada |
Toàn quyền |
27/9/2005 |
Luisa Diogo |
Mozambique |
Thủ tướng |
4/2/2004 |
Angela Merkel |
Đức |
Tổng thống |
22/11/2005 |
Portia Simpson-Miller |
Jamaïque |
Thủ tướng |
30/3/2006 - 11/9
2007 |
Ellen Johnson Sirleaf |
Liberia |
Tổng thống |
23/11/2005 |
Michelle Bachelet |
Chili |
Tổng thống |
15/01/2006 |
Pratibha Patil |
Ấn độ |
Tổng thống |
tổng thống nữ đầu tiên, đắc cử ngày 21/07/2007 |
Cristina Kirchner |
Argentina |
Tổng thống |
tổng thống phu nhân từ 25/5/2003-10/10/2007.
Đắc cử
tổng thống ngày 28/10/2007 |
Ioulia Timochenko |
Ukraine |
Thủ tướng |
từ tháng 1 đến tháng 9 2005, và được
tái nhiệm từ 18/12/2008 |
Zinaida Greceanii |
Moldavie |
Thủ tướng |
từ 31/3/2008 |
Rosa Zafferani
|
San Marin |
Tổng thống |
từ 1/4/2008 đến 1/10/2008
. Bà cũng đã giữ chức vụ này từ tháng 4 đến tháng 10 năm
1999 |
Những nước
theo chế độ quân chủ:
Arabie Saoudite, Australie,
Belgique, Bhoutan, Cambodge,
Canada, Danemark,
Émirats Arabes Unis, Espagne,
Jamaïque, Japon, Jordanie,
Koweït, Lesotho,
Luxembourg, Malaisie, Maroc,
Népal, Norvège,
Nouvelle-Zélande, Oman,
Papouasie-Nouvelle-G, Pays-Bas,
Qatar, Royaume-Uni,
Suède, Swaziland,
Thaïlande.
C-
Những vị nữ được giải Nobel
Giải Nobel Vật lý:
1903 : Marie Curie e
1963 : Maria Goeppert-Mayer
Giải
Nobel
Hóa học:
1911 : Marie Curie
1935 : Irène Joliot-Curie
1964 : Dorothy Crowfoot Hodgkin
Giải
Nobel
Y học
1947 : Gerty Theresa Cori
1977 : Rosalyn Yalow
1983 : Barbara McClintock
1986 : Rita Levi-Montalcini
1988 : Gertrude Elion
1995 : Christiane Nüsslein-Volhard
2004 : Linda B. Buck
Giải
Nobel
Văn chương
1909 : Selma Lagerlöf
1926 : Grazia Deledda
1928 : Sigrid Undset
1938 : Pearl Buck
1945 : Gabriela Mistral
1966 : Nelly Sachs
1991 : Nadine Gordimer
1993 : Toni Morrison
1996 : Wislawa Szymborska
2004 : Elfriede Jelinek
2007 : Doris Lessing
Giải Hòa bình
1905 : Bertha von Suttner
1931 : Jane Addams
1946 : Emily Greene Balch
1976 : Betty Williams
1976 : Mairead Corrigan
1979 : Mère Térésa
1982 : Alva Myrdal
1991 : Aung San Suu Kyi
1992 : Rigoberta Menchú
1997 : Jody Williams
2003 : Chirine Ebadi
2004 : Wangari Maathai
B- Bên lề
1-
Mọi phụ nữ đã thực sự được giải phóng chưa?
a- Niger,
xử tử ném đá đến chết
Thế nhưng trong lúc trên thế giới
có nhiều người đàn bà la khoa học gia, phi
hành gia, chính trị gia, đại thương
gia tầm cỡ quốc tế thì vẫn còn nhiều nước chậm tiến mà
người đàn bà bị đối xử như một món
hàng, như một nô lệ. Năm
1999
luật hồi
giáo
charia
được áp
dụng tại
các
bang
miền nam
Niger.
12 trong
số
36 bang ở Niger
áp dụng
luật
charia. Theo luật này,
người
phụ nữ
nào
ngoại
tình hay
không
chồng mà
có con
đều bị
ném đá
cho đến
chết.
Đối với
đạo luật
charia thì sanh con
ngoại hôn có tội nặng như tội giết người, phải
bị án tử hình. Hai người đàn bà
đầu tiên
bị kết án là
Safiya Husseini
và
Lamina Lawal.
Cả hai
đều được
quốc tế
can
thiệp
mạnh mẽ.
Safiya Husseini
được nghị viện nước Bỉ xin
tòa án
ân xá
nhân ngày quốc tế phụ nữ
8/3/2002 còn
Amina
Laval
được những hiệp hội quốc tế bảo vệ quyền
lợi phụ nữ thu thập hàng triệu chữ ký
để xin ân xá cho chị.
Những vụ án thường kéo dài gây căng
thẳng cho mọi người, nhất là những
bị cáo đang ở trong tình
trạng lo lắng
không biết mình còn sống bao nhiêu lâu
nữa để nuôi con còn non nớt-
kết quả của tình yêu hoặc bị đàn ông phá
hoại. Đem lại sự sống cho một người để rồi
chính mình bị giết! Trong
khi toà án xử giết đàn bà thì họ lại bảo vệ
đàn ông một cái công khai và vô lý. Những
người đàn ông này, dù sống chung rõ
ràng với "bị can" hàng năm trời, vẫn
chối một cách dễ dàng trong lúc chỉ cần thử
ADN bằng PCR là biết rõ ngay. Nếu
không nhờ sự can thiệp rầm rộ của quốc tế
xin ân xá thì đã có biết bao nhiêu người mẹ
phải chết trong đau đớn để lại con dại mồ
côi.
Kỳ thi hoa hậu thế giới năm
2001 diễn ra tại Niger có 9
nước phản đối bằng cách tẩy chay cuộc thi,
đó là Bỉ, Costa Rica, Đan Mạch, Kenya,
Nam Phi, Panama, Pháp,
Tây Ban Nha
và Thuỵ Sĩ. Hoa hậu
thế giới năm đó là Agbani Darego,
người Niger.
Nhờ sự can thiệp quốc tế mà
từ năm 2001 tới nay chưa có người nào bị tử
hình ném đá. Thường thì tới tòa phúc thẩm là
họ được tha bổng.
 |
 |
Safiya Husseini |
Lamina Lawal |

Hajara Ibrahim, 18 tuổi, có mang 7 tháng
Trong khi tòa án islam xử
đàn bà tàn tệ như vậy, thì đàn ông được
quyền lấy nhiều vợ!
b- Chế độ
đa thê
Hiện nay vẫn còn nhiều nước cho phép đàn
ông đa thê như
- - Afghanistan
- - Algérie
- - Bahreïn
- - Bangladesh
- - Bénin
- - Birmanie
- - Burkina Faso
- - Cameroun
- - Cộng hòa Trung Phi
- - Comores
- - Congo
|
- - Djibouti
- - Égypte
- - Gabo
- - Gambie
- - Inde
- - Indonésie
- - Irak
- - Iran
- - Jordanie
- - Koweït
- - Liban
- - Liberia
|
- - Libye
- - Malaisie
- - Mali
- - Maroc
- - Mauritanie
- - Niger
- - Nigeria
- - Oman
- - Ouganda
- - Pakistan
- - Qatar
|
-
- - Sénégal
- - Sierra Leone
- - Somalie
- - Soudan
- - Syrie
- - Tanzanie
- - Tchad
- - Togo
- - Yémen
- - Zaïre
- - Zambie
|
- Ngay cả trên nước Pháp, cũng
có từ 10 000 đến 20 000 gia đình đa hôn
từ nước ngoài tới cư trú.
Bangladesh
Phụ nữ ở Bangladesh ngoài
việc sống nghèo khổ, còn bị cha hay chồng đối
xử tàn bạo. Acid ở đó rất rẻ, trở thành khí
giới tuyệt đối của đàn ông khi họ muồn trừng
phạt con gái của họ hay vợ họ về việc từ
chối hôn nhân hay những sự cãi vả thường
ngày. Phần đông những người bị tạt acid chết
vì những vết bỏng acid ăn sâu trên cơ thể gây đau đớn vô
cùng. Những người chỉ bị tạt acid nơi
mặt sẽ bị biến dạng và mù mắt.
Albanie
Tại Albanie
phụ nữ là nạn nhân thường ngày của những sự
hung bạo. Từ sự bất bình đẳng với nam giới
trong sự giáo dục, việc làm, lương
bổng đưa đến việc buôn bán phụ nữ. Họ là
những miếng mồi ngon và dễ kiếm
của truyền thống và tham nhũng. Truyền
thống là vì đàn bà là sở vật hữu của
đàn ông, đàn ông có quyền giết chết họ mà
không bị tội (Kanun) . Tham nhũng là
vì chính quyền muốn làm giàu trên thân xác
những người đàn bà albanie khốn khổ.
2- Những bạo
hành trong gia đình
Pháp
Ngay cả trên nước văn
minh như Pháp, những bạo hành trong gia đình
vẫn xảy ra thường xuyên vìcó rất nhiều di
dân từ Á Rập và Phi Châu tới định cư.
Vào những năm
2000, nhiều cuộc điều tra quốc gia để làm
bảng thống kê, nhưng kết quả của các cuộc
điều tra chỉ là phần nổi lên của tảng băng.
Tại Pháp, theo thống
kê năm 2006 của bộ nội vụ
1 người đàn bà trên
10 là nạn nhân của bạo hành trong gia đình
Trung
bình cứ 3 ngày là một phụ nữ chết vì bị
chồng đánh
Cứ
14 ngày là có một người đàn ông chết vì vợ
phản kháng bằng khí giới
41% vụ giết người
liên quan đến sự li dị
23% tác giả giết
người tự tử sau khi hành động
10% số con cái là
nạn nhân đồng thời của những vụ giết cha
hoặc mẹ chúng
Năm 2004 phí tổn của
những bạo hành giữa vợ chồng lên tới 1 tỉ
euro
http://www.femmes-egalite.gouv.fr
Người ta phỏng đoán có
trên 1,5 triệu đàn bà là nạn nhân của sự bạo
hành giữa vợ chồng.
Năm 2004 có 162 phụ nữ là
nạn nhân của những vụ giết người hay bị
thương tích cho đến chết.
Theo Liên Hiệp Quốc:
Đức:
Một phần ba số phụ nữ bị
chồng đánh ít nhất 1 lần trong đời
40 - 80% phụ nữ alban bị
chồng đánh
Pologne
theo điều tra năm
1997, có 9% phụ nữ bị chồng đánh thường
xuyên
Kết quả những sự bạo hành:
1/3 trẻ con sau này trở thành tàn ác.
3-
Afghanistan - vùng đất của những
người phụ nữ bị bạo hành
Nguồn: tintuconline.com.vn

Đàn bà Afghan xếp hàng
chờ mua thực phẩm dưới chế độ Taliban
Gần bốn năm sau khi chế độ Taliban bị lật
đổ tại Afghanistan, những người phụ nữ ở
Afghanistan vẫn phải chịu đựng cảnh đối xử
bất công: bị cưỡng hiếp, sát hại và ép gả.
Nguyên nhân chính là sự cuồng tín và sức ép
tôn giáo vẫn còn rất nặng nề tại vùng đất
Trung Á này.
Trong lịch sử hiện đại, hiếm có nơi nào được
ví như vùng đất của những người phụ nữ bị
đàn áp hơn Afghanistan dưới thời Taliban. Và
cũng không có nơi nào sự ngược đãi lại thô
bạo như ở Kandahar, quê hương của tâm lý quá
khích, cuồng tín Hồi giáo.
5 năm kể từ sau khi chế độ Taliban bị lật
đổ, báo cáo của Uỷ ban Nhân quyền độc lập
Afghanistan vẫn cho thấy sự tiếp diễn của
những hành động đối xử bất công - cưỡng
hiếp, sát hại, ép gả và kết cục là những vụ
tự tử.
Có tới 230 trường hợp tự sát. Hơn 38% số phụ
nữ được hỏi đều cho biết họ bị ép phải lấy
người mà họ không muốn và có tới 50% cho
rằng họ không hạnh phúc với hôn nhân vì tình
trạng bạo hành trong gia đình. Con số này
còn cao hơn ở Kandahar và khu vực miền nam
Afghanistan. Dường tất cả những kết quả đạt
được cho tới nay trong cuộc đấu tranh vì sự
bình đẳng đang đứng trước nguy cơ bị đe doạ.
Năm ngoái, khi tổng số cử tri đăng ký đi bỏ
phiếu trên cả nước đạt 42% thì tại Kandahar,
con số này chưa đạt tới 20%. Tại những vùng
nông thôn của tỉnh này, tình hình còn tệ hại
hơn. Người Hồi giáo phân phát các bưu thiếp
trong đó có hình phụ nữ bị đánh đập cùng
những bàn tay bị chặt rời của kẻ trộm và bức
tượng Phật bị phá huỷ tại Barniyan.
Giờ đây, trên các đường phố tại thành phố
lớn thứ hai của Afghanistan, người ta vẫn
không thể nào tìm ra một phụ nữ không mặc áo
choàng trùm kín mặt - biểu tượng của sự
thống trị về giới dưới chính quyền Taliban.
Chế độ Taliban đang hồi sinh tiếp đốt trường
học và chặt đầu giáo viên vì dám dạy chữ cho
các nữ sinh. Những vị quan toà lâu nay ngập
chìm trong hàng thập kỷ của đạo luật Sharia
cứng nhắc liên tục tống giam phụ nữ vào tù
vì không tuân theo sự lựa chọn của người cha
về hôn nhân, hay vì họ từ bỏ những người
chồng thô bạo. Ngay như các nạn nhân bị
cưỡng hiếp cuối cùng cũng bị kết tội ngoại
tình.
Hôm mùng 8/3 vừa qua, để chào mừng ngày Phụ
nữ Quốc tế, Tổng thống Hamid Karzai đã ra
lệnh thả những nữ tù nhân bị giam ngắn hạn
nhằm sửa chữa sự bất công này.
Khi phụ nữ không cam chịu cuộc đời tù túng
Song bất chấp những sự bất công đang đè nén
họ, phụ nữ tại Kandahar vẫn chống chọi lại.
Nữ sinh vẫn tới lớp học khi nào các em có
thể, phụ nữ lao động vẫn tới xưởng làm sau
lưng người đàn ông trong gia đình. Càng
ngày, phụ nữ càng vận dụng chính hệ thống
luật pháp từng được sử dụng để trừng phạt họ
trước đây làm công cụ đòi hỏi quyền lợi.
Họ đã nhận được sự khích lệ của Malalai
Kakar, nữ sĩ quan cảnh sát cao cấp nhất tại
Kandahar, người đang chỉ huy một đội gồm 10
nữ sĩ quan cảnh sát đặc trách các vấn đề phụ
nữ. Chỉ huy Kakar chính là người lãnh đạo
các cuộc tấn công nhằm giải phóng những
người vợ, con gái bị gia đình giam cầm và
văn phòng của cô trở thành nơi trú ẩn cho
nhiều phụ nữ bị ngược đãi, đe doạ.
 |
Một buổi gặp mặt mừng
ngày 8/3 của phụ nữ
Afghanistan. |
"Tôi bị buộc tội thô bạo với những người
chồng đánh đập vợ, và tôi thừa nhận điều này
có xảy ra vài lần. Tôi đã rất phẫn nộ. Nhưng
điều chúng tôi đang cố gắng làm là áp dụng
luật pháp một cách đúng đắn để bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ".
Hàng sáng, Kakar nấu bữa sáng cho chồng và 6
con nhỏ trước khi đi làm. Cô từng là sĩ quan
cảnh sát trong các chính phủ cánh tả của
Afghanistan trước khi Taliban lên cầm quyền.
Cũng như nhiều phụ nữ khác, cô bị trói buộc
vào gia đình theo đạo luật Hồi giáo. Nhưng
cô đã trốn sang Pakistan sau khi biết mình
đang bị truy đuổi.
"Tôi từng phải mang khăn choàng trùm kín mặt
cho tới 8 tháng trước. Tôi quyết định phải
dứt khoát. Và tôi đã dùng các phương tiện
thông tin đại chúng để nói cho phụ nữ đất
nước này biết về quyền lợi của họ. Tôi nghĩ
các đồng nghiệp nam của tôi rất tò mò khi
thấy hình dạng của tôi. Tôi phải tuyên bố
rằng tôi không hề khác biệt so với họ".
Một cô gái 18 tuổi đã tìm đến viện nhờ sự
giúp đỡ của Rosina. Cha cô đã bán gả cô cho
một người đàn ông 50 tuổi và cô bỏ nhà khi
ông ta đánh đập cô vì không chịu làm lễ
cưới.
"Tôi sẽ không bao giờ trở lại để kết hôn với
người đàn ông đó, không bao giờ", Rosina
nói. "Cha và anh trai tôi đã dùng gậy đánh
đập tôi thậm tệ khi tôi từ chối. Họ có thể
tống tôi vào tù nhưng tôi cũng sẽ không cưới
ông ta".
Cảnh sát sẽ cố gắng thương lượng với gia
đình Rosina. Hiện tại không có các trung tâm
trú ẩn dành cho phụ nữ và Rosina rất có thể
sẽ phải cầu xin lòng thương hại của một vị
quan toà đầy ác ý nào đó.
Để thay đổi, phụ nữ cần tham gia chính
trường
Một trường hợp khác là Trung uý Jamilla
Mujahid Barzai, 35 tuổi. Cô cũng từ bỏ ngành
cảnh sát khi Taliban lên cầm quyền. Nhưng
sau đó, cô bị thuyết phục quay trở lại nghề
sau khi người ta bắt giữ và đánh đập anh
trai cô. Cô bỏ nghề sau khi chứng kiến cuộc
hành hình một phụ nữ tại sân vận động Kabul.
Vụ hành quyết này đã được ghi hình và phát
trên toàn thế giới, để chứng minh sự tàn ác
của chế độ Taliban.
"Tôi biết người tù này, tên cô ta là
Zarmina. Cô ấy bị toà kết án sát hại chồng.
Tôi sẽ không bao giờ quên cách cô ấy bị
giết. Họ bắt cô ta quỳ gối trên sân vận
động, ngay trước mặt tất cả mọi người. Sau
đó, một người đàn ông đeo kính đen xuất hiện
và bắn vào đầu cô ấy", Barzai kể lại.
 |
Nữ sinh Afghanistan
trong trang phục truyền
thống mừng ngày 8/3. |
"Zamina đã sinh đôi trong tù, hai đứa con 6
tháng tuổi. Anh trai của người chồng đã đem
hai đứa bé đi. Tôi không thể làm gì. Thế là
tôi rời khỏi ngành cảnh sát. Tôi biết đã có
nhiều sai phạm xảy ra, nhưng không ai có thể
tin chuyện diễn ra đêm đó. Tôi nghĩ phụ nữ
nên tham gia vào đời sống chính trị để ngăn
chặn những việc tương tự tái diễn".
Hai trong số những người cô của Asma Kakar
vừa thực hiện điều ấy. Họ đã được bầu vào
hội đồng lập pháp tỉnh và quốc gia. Cô sinh
viên 17 tuổi này muốn trở thành bác sĩ, điều
không bình thường xảy ra trong cộng đồng
người Pashtun. Cha mẹ cô đã đồng ý để cô đi
học tại một trường ĐH ở Ấn Độ nếu cô được
nhận.
"Tôi biết mọi thứ đã được cải thiện nhiều kể
từ thời Taliban, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế
mà tôi không thích", Kakar nói. "Phụ nữ vẫn
không thể ra ngoài nhiều, chúng tôi vẫn phải
mang khăn trùm đầu khi ra ngoài. Chúng tôi
thậm chí không được tham gia những buổi
picnic ngoài trời. Nhưng tôi biết tôi may
mắn, tôi không phải lo lắng về tiền. Và tôi
có thể rời khỏi nơi này, ít nhất là trong
một thời gian ngắn nếu tôi có bằng cấp".
Từ chỗ phụ thuộc trở thành trụ cột gia đình!
Một thực tế là việc nới lỏng những ràng buộc
xã hội cho nhiều phụ nữ đã dẫn tới các vấn
đề kinh tế. Giờ đây, phụ nữ được phép làm
việc, dù lúc miễn cưỡng. Nhưng với tỷ lệ
thất nghiệp ở nam giới đang tăng cao, họ đôi
lúc trở thành trụ cột chính trong gia đình.
Sadia Kamrani, 23 tuổi, làm việc tại Bộ các
công việc xã hội. Mức lương 150 USD/tháng
của cô là nguồn thu nhập duy nhất đối với
gia đình mở rộng ấy ngoài thu nhập hiếm hoi
của cha chồng. "Tôi không thể có con. Tôi
đang có vấn đề sức khoẻ và cần phẫu thuật,
nhưng tôi không có tiền. Chồng tôi bị thất
nghiệp trong khi tôi phải phụ giúp anh ấy.
Nhưng tôi cũng biết rằng anh ấy sẽ ly dị tôi
nếu tôi không có con".
Khi cuộc nội chiến bắt đầu, gia đình Kamrani
chạy sang Iran. Hai năm sau, họ quay trở lại
Afghanistan. "Người ta nói rằng Iran là nước
bảo thủ, nhưng chúng tôi không phải mang
khăn trùm kín mặt ở đất nước ấy. Trong vài
tuần đầu tiên, tôi đã phải mặc thứ này và
liên tục bị ngã vì không thể nhìn được mình
đang đi đâu. Trên người tôi đầy vết thâm
tím. Tôi không hề thích mặc nó và tôi không
biết có người phụ nữ nào khác thích mặc
không trừ phi bị ép buộc".

"Nhiều người cũng không thích phụ nữ đi làm.
Do đó chúng tôi phải đi đường riêng, nếu
không tôi sẽ gặp vấn đề. Hàng ngày vẫn xảy
ra các vụ bắn giết. Đó lại là điều chúng tôi
không gặp phải khi ở Iran".
Sherifa Popal, 30 tuổi là một thợ may tại
một vùng nghèo đói thuộc Kandahar. Cô từng
tham gia vào quá trình bầu cử, đầu tiên là
tới các lớp học và sau đó tham gia huấn
luyện một đội gồm 42 người giám sát các cuộc
bỏ phiếu. Nhưng giờ đây, cô bị thất nghiệp
và với một người chồng ốm yếu, cô phải lo
chu cấp cho cả gia đình.
"Tôi học tới lớp 10 nhưng đến lúc đó xảy ra
nội chiến và chính quyền Taliban làm tôi
dang dở việc học hành. Tôi phải tham gia các
khoá giáo dục dân sự về bầu cử và cũng mở
một vài lớp dạy may. Giờ đây tất cả các bộ
trong chính phủ đều thiếu tiền cho dự án và
tôi không có việc làm. Nguồn thu duy nhất mà
tôi có hiện nay là từ việc may quần áo tại
gia. Số tiền ấy chẳng đủ chút nào vì cuộc
sống tại Kandahar đang trở nên rất đắt đỏ".
Một trong những dự án hiện vẫn đang hoạt
động là các lớp dạy may do ADA điều hành.
Nassema Ali, hướng dẫn tại các lớp học này
nhớ lại những ngày dưới chế dộ Taliban khi
chồng cô phải đóng cửa tiệm quần áo vì giới
giáo sĩ Hồi giáo ra sắc lệnh: đàn ông không
được bán quần áo phụ nữ, kể cả những miếng
vải trùm đầu không hình thù cụ thể. "Những
cô gái tôi đang dạy sẽ rời nơi này và trở
thành thợ may. Họ sẽ tìm ra cách để tự nuôi
sống bản thân".
Đăng lần
đầu 07/03/2005
Cập nhật lần
1
09/03/2007
Cập nhật
lần 2
08/03/2008
Cập nhật lần 3
08/03/2009
|