Lịch sử Ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8 tháng 3

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng    08/03/2009

 

A- Lịch sử ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3
   
-Nguồn gốc
    -Lịch sử
B- Những vị nữ nguyên thủ quốc gia
C- Những người nữ được giải Nobel
D- Bên lề
    - Mọi phụ nữ đã thực sự được giải phóng chưa? (ném đá, đa thê)
    - Những bạo hành trong gia đinh
    - Afghanistan - vùng đất của những người phụ nữ bị bạo hành (đọc báo)
E- Bấm vào để xem video:
  
- nghệ thuật "Women in art" của Philip Scott Johnson
   - Nghe hát: Bread and Roses

 

A- Lịch sử ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3

Trong một thế kỷ qua, người phụ nữ đã giành được sự bình đẳng trước pháp luật  trong  hầu hết các nước trên thế giới. Tuy thế, hiện  nay phụ nữ vẫn   còn tiếp tục tranh đấu ở nhiều nơi. Ngày Quốc tế Phụ nữ, được  Liên Hiệp Quốc chính thức hóa vào ngày 8 tháng 3 năm 1977.  Ngày này cho chúng ta nhớ lại những thành quả đó và cũng để ta suy nghĩ về hoàn cảnh của người phụ nữ  trên toàn thế giới .


1- Nguồn gốc

Ngày Phụ Nữ Quốc tế cũng như những  ngày lễ tượng trưng  khác, không  phải có một nguồn gốc hay một sự việc duy nhất, mà  là thành quả của biết bao là đấu tranh và cũng là cuộc hành trình lặng lẽ của hàng triệu phụ nữ trên thế giới.

Thời cổ Hy Lạp, Lysistrata  bắt đầu cho cuộc tranh đấu chống lại nam giới để chấm dứt chiến tranh.

Lịch sử của ngày Quốc Tế Phụ nữ bắt đầu từ năm 1857 đến 1911.

Ngày 8 tháng 3 năm 1857 các công nhân ngành dệt chống  lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại New York: 12 giờ làm việc một ngày. Hai năm sau, cũng trong tháng Ba, các nữ công  nhân Mỹ trong  hãng dệt thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên để được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.

tại Lawrence, Hoa kỳ. Affiche ngày 08 tháng 03 năm 1908Năm mươi năm sau, ngày 8 tháng 3 năm 1908, 15.000 phụ nữ diễu hành trên các đường phố New York để đòi  được giảm giờ làm việc, lương cao hơn và hủy bỏ việc bắt trẻ con làm việc. Khẩu hiệu của họ "Bread and Roses". Bánh mì tượng trưng cho bảo đảm kinh tế gia đình, Hoa hồng tượng trưng cho đời sống tốt đẹp hơn.

Sau đó, đảng Xã hội Mỹ tuyên bố ngày Quốc tế phụ nữ ngày 28 tháng 02 năm 1909

Phụ nữ cử hành lễ này vào ngày chúa nhật cuối của tháng 2 cho tới năm 1913

 

 

Clara Zetkin Trong buổi họp mặt Quốc tế, kỳ thứ II các Phụ nữ đảng xã hội, 8 tháng 3 năm 1910 ,100 đại biểu phụ nữ thuộc 17 nước đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Chủ tịch là Clara Zetkin, người Đức, đã đề nghị thành lập một ngày quốc tế phụ nữ để nhớ ơn những  người đàn bà đã đầu tranh trên toàn thế giới. Do đó, buổi họp đã chọn ngày 19 tháng 3 năm 1911 để làm ngày phụ nữ quốc tế.  Ngày này đã được hơn một triệu người tham gia trong các nước Áo, Ðan mạch, Ðức và Thụy sĩ.

 Không đầy một tuần sau, ngày  25 tháng 3 năm 1911, 145 nữ công nhân, phần lớn là di dân Ái nhĩ lan và Do thái  của hãng Triangle Shirtwaist Company tại  New York  đã chết trong một vụ cháy trong xưởng dệt.  Họ không có ngõ thoát ra ngoài được: cửa xưởng đã được khóa chặt  để công  nhân không được ra ngoài trước khi hết giờ làm việc (Ðiều này đã thúc đẩy việc sửa đổi luật lệ lao động).

80.000 người diễu hành trong các đường phố đễ đưa đám tang lớn của 145 nạn nhân chết cháy

Bài hát sáng tác năm 1912 với  cuộc đình công của 14.000 người chống lại lương đói khát và bắt trẻ em làm việcMột năm sau, 1912, 14.000 công nhân hãng dệt đình công và la lớn "Better to starve fighting than starve working"  (Chết đói vì chiến đấu hơn chết đói vì làm việc). Nữ công nhân nghỉ việc 3 tháng.

Sự can đảm của họ đã làm James Oppenheim cảm hứng bài thơ Bread and Roses, bài này thường đi hát trong ngày Quốc tế Phụ nữ.

 

 

Nghe hát: Bread and Roses

As we go marching marching in the beauty of the day
A million darkened kitchens, a thousand mill lots gray
Are touched with all the radiance that a sudden sun discloses
For the people hear us singing:  bread & roses, bread & roses!

As we go marching, marching, we battle too for men
For they are women's children & we mother them again
(For men can ne'er be free til our slavery's at an end)
Our lives shall not be sweated from birth until life closes
Hearts starve as well as bodies, give us bread but give us roses
>

As we go marching, marching, unnumbered women dead
Go crying thru our singing their ancient call for bread
Small art & love & beauty their drudging spirits knew
Yes it is bread we fight for, but we fight for roses too

As we go marching, marching, we bring the greater days
The rising of the women means the rising of the race
No more the drudge & idler, ten that toil where one reposes
But a sharing of life's glories - bread & roses, bread & roses!

Năm 1912, nhà thơ Mỹ  James Oppenheim (1882 - 1932) viết bài thơ Bread and Roses sau lần diễu hành của 14.000  người đình công tại Lawrence,  Massachusetts.

 

2- Lịch sử

8 tháng 3 năm 1914

Phụ nữ Đức đòi quyền bầu cử nhưng đến ngày 12 tháng 10 năm 1918 mới được chấp thuận.

 Ngày 23 tháng 2 năm 1917 theo lịch Nga, nhằm ngày 8 tháng 3 dương lịch  các nữ công nhân Nga đã ra đường biểu tình  đình công, đòi bánh mì và đòi trả chồng con họ trờ về từ chiến trận. Cuộc đình công này đã khiến Sa hoàng Nicolas đệ nhị phải thoái vị và góp phần rất lớn vào cuộc Cách mạng tháng 10 ở Nga.

21 tháng 4 năm 1944 Quốc hội Pháp chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ Pháp.  Phụ nữ Pháp đã đi bầu hội đồng thành phố lần đầu tiên vào ngày 20 tháng Tư năm 1945. Trong lúc đó  đàn ông  Pháp đã được đi bầu từ năm 1848 tức là từ một thế kỷ trước 8 tháng 3 năm 1948, tại nước Pháp, 100.000 phụ nữ đã tổ chức một cuộc diễn hành tại Paris, từ  Place de la République đến tượng Jeanne d’Arc

Từ năm 1950 tại Việt Nam, vào ngày mùng 6 tháng hai âm lịch mỗi năm đều có tổ chức ngày lễ Hai Bà Trưng ở Sài gòn, và sau đó đã dùng ngày lễ này làm ngày Phụ nữ.  Mỗi năm dều chọn một nữ sinh trường Trưng Vương và một nữ sinh trường Gia Long đóng vai Hai Bà Trưng ngồi trên bành voi trong dịp cử hành lễ.

1971, Thụy Sĩ  chấp nhận quyền bầu cử cho phụ nữ.

8 tháng  3 1975, Liên Hiệp quốc bắt đầu chú ý và tổ chức ngày Quốc tế Phụ nữ 

Năm 1977, nghĩa là hai năm sau ngày Quốc tế Phụ nữ, Liên Hiệp Quốc quyết định mời các nước dành một ngày để nói lên quyền lợi của người phụ nữ và hòa bình thế giới.

Ngày 8 tháng 3 trở thành ngày lễ chung cho nhiều quốc gia.

 

Brot und Rosen

Wenn wir zusammen gehen, geht mit uns ein schöner Tag,
durch all die dunklen Küchen und wo grau ein Werkshof lag,
beginnt plötzlich die Sonne uns're arme Welt zu kosen,
und jeder hört uns singen: Brot und Rosen. Brot und Rosen! ...

Wenn wir zusammen gehen, kommt mit uns ein bess'rer Tag.
Die Frauen, die sich wehren, wehren aller Menschen Plag.
Zu Ende sei: daß kleine Leute schuften für die Großen.
Her mit dem ganzen Leben: Brot und Rosen! Brot und Rosen!

 

Du Pain et des Roses

Pendant que nous marchons par cette splendide journée
Un million de cuisines sombres et d'usines sont arrêtées
Toutes touchées par l'éblouissement d'un soleil soudain
Au son de nos voix qui scandent «Des roses et du pain!»


Pendant cette marche, nous luttons aussi pour les hommes
Aussi enfants des épouses et mères que pour eux nous sommes
Nous n
e travaillerons pas éternellement à la sueur de nos fronts
Le cœur a faim lui aussi : du pain, mais aussi des roses nous voulons

b

B- Những vị nữ nguyên thủ quốc gia

Gần ngày Quốc tế phụ nữ, sau khi nghiên cứu  trong số 42 quốc gia người ta thấy, tỷ lệ phần trăm trung bình của phụ nữ bộ trưởng là 28,6%, trong khi đó tại quốc hội chỉ chiếm 21,7%

Chỉ ba nước thành viên đã đạt tới mức tối thiểu được đề nghị vào quốc hội là: Thụy Điển (46%), Phần Lan (41,5%) và Hà Lan (41,3%).

Tại Pháp nam giới chiếm 81,5%, nữ giới bị dưới mức trung bình so với châu Âu.

Phần Lan (60%) và Tây Ban Nha (52,9%) là hai nước duy nhất mà nữ giới giữ chức vụ bộ trưởng nhiều hơn nam giới.

Châu Âu có hai phụ nữ đứng đầu nhà nước, là Finland và Ireland, và hai phụ nữ đứng đầu chính quyền ở Đức và Ukraina.

Trong số 635 thành viên của nghị viện Hội đồng Châu Âu chỉ có 29,3% phụ nữ được bổ nhiệm hoặc được bầu vào quốc hội.
 

Vị nữ nguyên thủ quốc gia đầu tiên của thế giới: : Suhbaataryn Yanjmaa, nước Mongolia , năm 1953

 

Victoria Anh quốc, Irlande, Ấn độ Nữ hoàng Victoria, nữ hoàng  các nước :Anh quốc và Irlande (1837-1901), Ấn độ (1876-1901)
Wilhelmine, Juliana, Beatrix Hòa Lan Nữ hoàng 3 đời nữ hoàng: Wilhelmine trị vì từ 23/11/1890  -  4/9/1948. Truyền ngôi cho con gái duy nhất Juliana (6/9/1948-30/4/1980). Juliana truyền ngôi cho con gái đầu Beatrix (trong 4 người con gái) 30/4/1980  cho đến nay
Elizabeth II Anh quốc, Canada, Úc, New Zealand, Jamaica, Barbados, Bahamas, Grenada, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, của Tuvalu, Saint Lucia, Saint Vincent & Grenadines, Antigua & Barbuda, Belize và Saint Kitts & Nevis Nữ hoàng 2/6/1953 cho đến nay
Suhbaataryn Yanjmaa Mongolia Tổng thống 23/9/1953-7/7/1954
Marguerite II Danemark Nữ hoàng 14/1/1972 cho đến nay
Isabel Peron Argentina Tổng thống 1974-1976
Vigdís Finnbogadóttír Iceland Tổng thống 1980-96
Agatha Barbara Malta Tổng thống 1982-1987
Corazon Aquino Philippines Tổng thống 1986-92
Sirimavo Bandaranaike Sri Lanka Thủ tướng 1960-1965, 1970-1977, 1994-2000.
Indira Gandhi Ấn độ Thủ tướng 1966-77, 1980-1984.
Golda Meir Israel Thủ tướng 1969-1974
Elisabeth Domitien Cộng hòa Trung Phi Thủ tướng 1975-1976
Margaret Thatcher Anh quốc Thủ tướng 1979-1990
Maria da Lourdes Pintasilgo Portugal Thủ tướng 1979-1980
Lidia Gueiler Tejada Bolivia Thủ tướng 1979-1980
Dame Eugenia Charles Dominica Thủ tướng 1980-1995
Gro Harlem Brundtland Norway Thủ tướng 1981, 1986-1989, 1990-1996
Milka Planinc Yugoslavia Thủ tướng liên bang 1982-1986
Maria Liberia-Peters Netherlands Antilles Thủ tướng 1984-1986, 1988-1993
Benazir Bhutto Pakistan Thủ tướng 1988-1990, 1993-1996

Kazimiera Danuta Prunskiena
Lithuania Thủ tướng 1990-91
Violeta Barrios de Chamorro Nicaragua Thủ tướng 1990-1996
Mary Robinson Ireland Tổng thống 1990-1997
Ertha Pascal-Trouillot Haïti Tổng thống lâm thời từ 3/1990-2/1991
Sabine Bergmann-Pohl Cộng hòa dân chủ Đức Tổng thống 1990
Aung San Suu Kyi

 

Myanmar (Burma) Thủ tướng Đảng của bà thắng 80% trong lần tuyển cử tự do 1990 nhưng quân đội từ chối kết quả. Bà được giải Nobel Hòa bình năm 1991
Khaleda Zia Bangladesh Thủ tướng 1991-1996
Edith Cresson Pháp Thủ tướng 1991-1992
Hanna Suchocka Poland Thủ tướng 1992-1993
Kim Campbell Canada Thủ tướng 25/6 đến 4/11 năm 1993
Sylvie Kinigi Burundi Thủ tướng 1993-1994
Agathe Uwilingiyimana Rwanda Thủ tướng 1993-1994
Susanne Camelia-Romer Netherlands Antilles Thủ tướng 1993, 1998-
Tansu Çiller Turkey Thủ tướng 1993-1995
Reneta Indzhova Bulgaria Thủ tướng lâm thời 1994-1995
Claudette Werleigh Haiti Thủ tướng 1995-1996
Sheikh Hasina Wajed Bangladesh Thủ tướng 1996-2001 và nhiệm kỳ tiếp 1996-6/1/2009
Chandrika Bandaranaike Kumaratunge Sri Lanka Tổng thống Thủ tướng1994, Tổng thống, 2/11/1994-19/11/2005
Mary McAleese Ireland Tổng thống 1997-tái đắc cử 1/10/2004-2011
Janet Jagan Guyana Tổng thống Thủ tướng, 1997, Tổng thống, 1997-1999
Pamela Gordon Bermuda Thủ tướng 1997-1998
Jenny Shipley New Zealand Thủ tướng 1997-1999
Jennifer Smith Bermuda Thủ tướng 1998-2003
Nyam-Osoriyn Tuyaa Mongolia quyền Thủ tướng tháng 71999
Helen Clark New Zealand Thủ tướng 5/12/1999-19/11/2008
Rosalia Arteaga Ecuador Tổng thống phó tổng thống  và tổng thống 1997-1999
Ruth Dreifuss Thụy sĩ Tổng thống 1999-2000
Helen Clark New Zealand Thủ tướng 5/12/1999-19/11/2008
Mireya Elisa Moscoso de Arias Panama Tổng thống 1/9/1999-30/8/2004
Vaira Vike-Freiberga Latvia Tổng thống 1999-tái đắc cử 2003-2007
Tarja Kaarina Halonen Finland Tổng thống 2000-tái đắc cử 2006
Gloria Arroyo Phi Luật Tân Tổng thống 1/2001-tái đắc cử 2004
Michaëlle Jean Canada Toàn quyền 27/9/2005
Luisa Diogo Mozambique Thủ tướng 4/2/2004
Angela Merkel Đức Tổng thống 22/11/2005
Portia Simpson-Miller Jamaïque Thủ tướng 30/3/2006 - 11/9 2007
Ellen Johnson Sirleaf Liberia Tổng thống 23/11/2005
Michelle Bachelet Chili Tổng thống 15/01/2006
Pratibha Patil Ấn độ Tổng thống tổng thống nữ đầu tiên, đắc cử ngày 21/07/2007
Cristina Kirchner Argentina Tổng thống tổng thống phu nhân từ 25/5/2003-10/10/2007.

Đắc cử tổng thống ngày 28/10/2007

Ioulia Timochenko Ukraine Thủ tướng từ tháng 1 đến tháng 9 2005,  và được tái nhiệm từ 18/12/2008
Zinaida Greceanii Moldavie Thủ tướng  từ 31/3/2008
Rosa Zafferani San Marin Tổng thống từ 1/4/2008 đến 1/10/2008 . Bà cũng đã giữ chức vụ này từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1999

 

 

Những nước theo chế độ quân chủ:


Arabie Saoudite, Australie, Belgique, Bhoutan, Cambodge, Canada, Danemark, Émirats Arabes Unis, Espagne, Jamaïque, Japon, Jordanie, Koweït, Lesotho, Luxembourg, Malaisie, Maroc, Népal, Norvège, Nouvelle-ZélandeOman, Papouasie-Nouvelle-G, Pays-BasQatar, Royaume-UniSuède, Swaziland, Thaïlande.
 

C- Những vị nữ được giải Nobel

 

Giải Nobel Vật lý:

1903 : Marie Curie e
1963 : Maria Goeppert-Mayer
 

Giải Nobel Hóa học:

1911 : Marie Curie
1935 : Irène Joliot-Curie
1964 : Dorothy Crowfoot Hodgkin
 

Giải Nobel Y học

1947 : Gerty Theresa Cori
1977 : Rosalyn Yalow
1983 : Barbara McClintock
1986 : Rita Levi-Montalcini
1988 : Gertrude Elion
1995 : Christiane Nüsslein-Volhard
2004 : Linda B. Buck
 

Giải Nobel Văn chương

1909 : Selma Lagerlöf
1926 : Grazia Deledda
1928 : Sigrid Undset
1938 : Pearl Buck
1945 : Gabriela Mistral
1966 : Nelly Sachs
1991 : Nadine Gordimer
1993 : Toni Morrison
1996 : Wislawa Szymborska
2004 : Elfriede Jelinek
2007 : Doris Lessing
 

Giải Hòa bình

1905 : Bertha von Suttner
1931 : Jane Addams
1946 : Emily Greene Balch
1976 : Betty Williams
1976 : Mairead Corrigan
1979 : Mère Térésa
1982 : Alva Myrdal
1991 : Aung San Suu Kyi
1992 : Rigoberta Menchú
1997 : Jody Williams
2003 : Chirine Ebadi
2004 : Wangari Maathai

 

B- Bên lề

1- Mọi phụ nữ đã thực sự được giải phóng  chưa?

       a- Niger, xử tử ném đá đến chết

Thế nhưng  trong lúc trên thế giới có nhiều người đàn bà la khoa học gia, phi hành gia, chính trị gia, đại thương  gia  tầm cỡ quốc tế thì vẫn còn nhiều nước chậm tiến mà người đàn bà bị đối xử  như một món hàng, như một nô lệ. Năm 1999 luật hồi giáo charia được áp dụng tại các bang miền nam Niger. 12 trong số 36 bang ở Niger áp dụng luật charia. Theo luật này, người phụ nữ nào ngoại tình hay không chồng mà có con đều bị ném đá cho đến chết. Đối với đạo luật charia thì sanh con ngoại hôn có tội nặng như tội giết người, phải bị án tử hình. Hai người đàn bà đầu tiên bị kết án là  Safiya Husseini Lamina Lawal. Cả hai đều được quốc tế can thiệp mạnh mẽ.

 Safiya Husseini được nghị viện nước Bỉ xin tòa án ân xá nhân ngày quốc tế phụ nữ 8/3/2002 còn Amina Laval được những hiệp hội quốc tế  bảo vệ quyền lợi phụ nữ thu thập hàng triệu chữ ký để xin ân xá cho chị. Những vụ án thường kéo dài gây căng thẳng cho mọi người, nhất là những bị cáo đang ở trong tình trạng lo lắng không biết mình còn sống  bao nhiêu lâu nữa để nuôi con còn non nớt- kết quả của tình yêu hoặc bị đàn ông phá hoại. Đem lại sự sống cho một người để rồi chính mình bị giết!  Trong khi toà án xử giết đàn bà thì họ lại bảo vệ đàn ông một cái công khai và vô lý. Những người đàn ông  này, dù sống chung rõ ràng với "bị can" hàng  năm trời, vẫn  chối một cách dễ dàng trong lúc chỉ cần thử ADN bằng PCR là biết rõ ngay.  Nếu không nhờ sự can thiệp rầm rộ của quốc tế xin ân xá thì đã có biết bao nhiêu người mẹ phải chết trong đau đớn để lại con dại mồ côi.

Kỳ thi hoa hậu thế giới năm 2001 diễn ra tại Niger  có 9 nước phản đối bằng cách tẩy chay cuộc thi, đó là Bỉ, Costa Rica, Đan Mạch, Kenya, Nam Phi, Panama, Pháp, Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ. Hoa hậu thế giới năm đó là Agbani Darego, người Niger. 

Nhờ sự can thiệp quốc tế mà từ năm 2001 tới nay chưa có người nào bị tử hình ném đá. Thường thì tới tòa phúc thẩm là họ được  tha bổng.

                             

Safiya Husseini Lamina Lawal

Hajara Ibrahim, 18 tuổi, có mang 7 tháng

Trong khi tòa án islam xử đàn bà tàn tệ như vậy, thì đàn ông được quyền lấy nhiều vợ!

 

       b- Chế độ đa thê

Hiện nay vẫn còn nhiều nước cho phép đàn ông đa thê như

- Afghanistan
- Algérie
- Bahreïn
- Bangladesh
- Bénin
- Birmanie
- Burkina Faso
- Cameroun
- Cộng hòa Trung Phi
- Comores
- Congo
- Djibouti
- Égypte
- Gabo
- Gambie
- Inde
- Indonésie
- Irak
- Iran
- Jordanie
- Koweït
- Liban
- Liberia
- Libye
- Malaisie
- Mali
- Maroc
- Mauritanie
- Niger
- Nigeria
- Oman
- Ouganda
- Pakistan
- Qatar
 
- Sénégal
- Sierra Leone
- Somalie
- Soudan
- Syrie
- Tanzanie
- Tchad
- Togo
- Yémen
- Zaïre
- Zambie
Ngay cả trên nước  Pháp, cũng có từ 10 000 đến 20 000 gia đình đa hôn từ nước ngoài tới cư trú.

 

Bangladesh

Phụ nữ ở Bangladesh ngoài việc sống nghèo khổ, còn bị cha hay chồng đối xử tàn bạo. Acid ở đó rất rẻ, trở thành khí giới tuyệt đối của đàn ông khi họ muồn trừng phạt con gái của họ hay vợ họ về việc từ chối hôn nhân hay những sự cãi vả thường ngày. Phần đông những người bị tạt acid chết vì những vết bỏng acid ăn sâu trên cơ thể gây đau đớn vô cùng. Những người chỉ bị  tạt acid nơi mặt sẽ bị biến dạng và mù mắt.

 

Albanie

Tại Albanie phụ nữ là nạn nhân thường ngày của những sự hung bạo. Từ sự bất bình đẳng với nam giới trong sự  giáo dục, việc làm, lương bổng đưa đến việc buôn bán phụ nữ. Họ là những  miếng  mồi ngon và dễ kiếm của truyền thống và tham nhũng.  Truyền thống là vì  đàn bà là sở vật hữu của đàn ông, đàn ông có quyền giết chết họ mà không bị tội (Kanun) . Tham nhũng  là vì chính quyền muốn làm giàu trên thân xác những người đàn bà albanie khốn khổ.

 

2- Những bạo hành trong gia đình

 

Pháp

Ngay cả trên nước  văn minh như Pháp, những bạo hành trong gia đình vẫn xảy ra thường xuyên vìcó rất nhiều di dân từ Á Rập và Phi Châu tới định cư.

Vào những  năm 2000, nhiều cuộc điều tra quốc gia để làm bảng thống kê, nhưng kết quả của các cuộc điều tra chỉ là phần nổi lên của tảng băng.

Tại Pháp, theo thống kê năm 2006 của bộ nội vụ

1 người đàn bà trên 10 là nạn nhân của bạo hành trong gia đình

Trung bình cứ 3 ngày là một phụ nữ chết vì bị chồng đánh

Cứ 14 ngày là có một người đàn ông chết vì vợ phản kháng bằng khí giới

41% vụ giết người liên quan đến sự li dị

23% tác giả giết người tự tử sau khi hành động

10% số con cái là nạn nhân đồng thời của những vụ giết cha hoặc mẹ chúng

Năm 2004 phí tổn của những bạo hành giữa vợ chồng lên tới 1 tỉ euro  http://www.femmes-egalite.gouv.fr

Người ta phỏng đoán có trên 1,5 triệu đàn bà là nạn nhân của sự bạo hành giữa vợ chồng.

Năm 2004 có 162 phụ nữ là nạn nhân của những vụ giết người hay bị thương tích cho đến chết.

Theo Liên Hiệp Quốc:

Đức:

Một phần ba số phụ nữ bị chồng đánh ít nhất 1 lần trong đời

40 - 80% phụ nữ alban bị chồng đánh

Pologne

 theo điều tra năm 1997, có 9% phụ nữ bị chồng đánh thường xuyên

Kết quả những sự bạo hành: 1/3 trẻ con sau này trở thành tàn ác.

 

3- Afghanistan - vùng đất của những người phụ nữ bị bạo hành
 

Nguồn: tintuconline.com.vn


Đàn bà Afghan xếp hàng chờ mua thực phẩm dưới chế độ Taliban

Gần bốn năm sau khi chế độ Taliban bị lật đổ tại Afghanistan, những người phụ nữ ở Afghanistan vẫn phải chịu đựng cảnh đối xử bất công: bị cưỡng hiếp, sát hại và ép gả. Nguyên nhân chính là sự cuồng tín và sức ép tôn giáo vẫn còn rất nặng nề tại vùng đất Trung Á này.

Trong lịch sử hiện đại, hiếm có nơi nào được ví như vùng đất của những người phụ nữ bị đàn áp hơn Afghanistan dưới thời Taliban. Và cũng không có nơi nào sự ngược đãi lại thô bạo như ở Kandahar, quê hương của tâm lý quá khích, cuồng tín Hồi giáo.

5 năm kể từ sau khi chế độ Taliban bị lật đổ, báo cáo của Uỷ ban Nhân quyền độc lập Afghanistan vẫn cho thấy sự tiếp diễn của những hành động đối xử bất công - cưỡng hiếp, sát hại, ép gả và kết cục là những vụ tự tử.

Có tới 230 trường hợp tự sát. Hơn 38% số phụ nữ được hỏi đều cho biết họ bị ép phải lấy người mà họ không muốn và có tới 50% cho rằng họ không hạnh phúc với hôn nhân vì tình trạng bạo hành trong gia đình. Con số này còn cao hơn ở Kandahar và khu vực miền nam Afghanistan. Dường tất cả những kết quả đạt được cho tới nay trong cuộc đấu tranh vì sự bình đẳng đang đứng trước nguy cơ bị đe doạ.

Năm ngoái, khi tổng số cử tri đăng ký đi bỏ phiếu trên cả nước đạt 42% thì tại Kandahar, con số này chưa đạt tới 20%. Tại những vùng nông thôn của tỉnh này, tình hình còn tệ hại hơn. Người Hồi giáo phân phát các bưu thiếp trong đó có hình phụ nữ bị đánh đập cùng những bàn tay bị chặt rời của kẻ trộm và bức tượng Phật bị phá huỷ tại Barniyan.

Giờ đây, trên các đường phố tại thành phố lớn thứ hai của Afghanistan, người ta vẫn không thể nào tìm ra một phụ nữ không mặc áo choàng trùm kín mặt - biểu tượng của sự thống trị về giới dưới chính quyền Taliban.

Chế độ Taliban đang hồi sinh tiếp đốt trường học và chặt đầu giáo viên vì dám dạy chữ cho các nữ sinh. Những vị quan toà lâu nay ngập chìm trong hàng thập kỷ của đạo luật Sharia cứng nhắc liên tục tống giam phụ nữ vào tù vì không tuân theo sự lựa chọn của người cha về hôn nhân, hay vì họ từ bỏ những người chồng thô bạo. Ngay như các nạn nhân bị cưỡng hiếp cuối cùng cũng bị kết tội ngoại tình.

Hôm mùng 8/3 vừa qua, để chào mừng ngày Phụ nữ Quốc tế, Tổng thống Hamid Karzai đã ra lệnh thả những nữ tù nhân bị giam ngắn hạn nhằm sửa chữa sự bất công này.

Khi phụ nữ không cam chịu cuộc đời tù túng

Song bất chấp những sự bất công đang đè nén họ, phụ nữ tại Kandahar vẫn chống chọi lại. Nữ sinh vẫn tới lớp học khi nào các em có thể, phụ nữ lao động vẫn tới xưởng làm sau lưng người đàn ông trong gia đình. Càng ngày, phụ nữ càng vận dụng chính hệ thống luật pháp từng được sử dụng để trừng phạt họ trước đây làm công cụ đòi hỏi quyền lợi.

Họ đã nhận được sự khích lệ của Malalai Kakar, nữ sĩ quan cảnh sát cao cấp nhất tại Kandahar, người đang chỉ huy một đội gồm 10 nữ sĩ quan cảnh sát đặc trách các vấn đề phụ nữ. Chỉ huy Kakar chính là người lãnh đạo các cuộc tấn công nhằm giải phóng những người vợ, con gái bị gia đình giam cầm và văn phòng của cô trở thành nơi trú ẩn cho nhiều phụ nữ bị ngược đãi, đe doạ.

 

phunuAfganistan1.jpg
Một buổi gặp mặt mừng ngày 8/3 của phụ nữ Afghanistan.



"Tôi bị buộc tội thô bạo với những người chồng đánh đập vợ, và tôi thừa nhận điều này có xảy ra vài lần. Tôi đã rất phẫn nộ. Nhưng điều chúng tôi đang cố gắng làm là áp dụng luật pháp một cách đúng đắn để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ".

Hàng sáng, Kakar nấu bữa sáng cho chồng và 6 con nhỏ trước khi đi làm. Cô từng là sĩ quan cảnh sát trong các chính phủ cánh tả của Afghanistan trước khi Taliban lên cầm quyền. Cũng như nhiều phụ nữ khác, cô bị trói buộc vào gia đình theo đạo luật Hồi giáo. Nhưng cô đã trốn sang Pakistan sau khi biết mình đang bị truy đuổi.

"Tôi từng phải mang khăn choàng trùm kín mặt cho tới 8 tháng trước. Tôi quyết định phải dứt khoát. Và tôi đã dùng các phương tiện thông tin đại chúng để nói cho phụ nữ đất nước này biết về quyền lợi của họ. Tôi nghĩ các đồng nghiệp nam của tôi rất tò mò khi thấy hình dạng của tôi. Tôi phải tuyên bố rằng tôi không hề khác biệt so với họ".

Một cô gái 18 tuổi đã tìm đến viện nhờ sự giúp đỡ của Rosina. Cha cô đã bán gả cô cho một người đàn ông 50 tuổi và cô bỏ nhà khi ông ta đánh đập cô vì không chịu làm lễ cưới.

"Tôi sẽ không bao giờ trở lại để kết hôn với người đàn ông đó, không bao giờ", Rosina nói. "Cha và anh trai tôi đã dùng gậy đánh đập tôi thậm tệ khi tôi từ chối. Họ có thể tống tôi vào tù nhưng tôi cũng sẽ không cưới ông ta".

Cảnh sát sẽ cố gắng thương lượng với gia đình Rosina. Hiện tại không có các trung tâm trú ẩn dành cho phụ nữ và Rosina rất có thể sẽ phải cầu xin lòng thương hại của một vị quan toà đầy ác ý nào đó.

Để thay đổi, phụ nữ cần tham gia chính trường

Một trường hợp khác là Trung uý Jamilla Mujahid Barzai, 35 tuổi. Cô cũng từ bỏ ngành cảnh sát khi Taliban lên cầm quyền. Nhưng sau đó, cô bị thuyết phục quay trở lại nghề sau khi người ta bắt giữ và đánh đập anh trai cô. Cô bỏ nghề sau khi chứng kiến cuộc hành hình một phụ nữ tại sân vận động Kabul. Vụ hành quyết này đã được ghi hình và phát trên toàn thế giới, để chứng minh sự tàn ác của chế độ Taliban.

"Tôi biết người tù này, tên cô ta là Zarmina. Cô ấy bị toà kết án sát hại chồng. Tôi sẽ không bao giờ quên cách cô ấy bị giết. Họ bắt cô ta quỳ gối trên sân vận động, ngay trước mặt tất cả mọi người. Sau đó, một người đàn ông đeo kính đen xuất hiện và bắn vào đầu cô ấy", Barzai kể lại.
 

phunuAfganistan2.jpg
Nữ sinh Afghanistan trong trang phục truyền thống mừng ngày 8/3.



"Zamina đã sinh đôi trong tù, hai đứa con 6 tháng tuổi. Anh trai của người chồng đã đem hai đứa bé đi. Tôi không thể làm gì. Thế là tôi rời khỏi ngành cảnh sát. Tôi biết đã có nhiều sai phạm xảy ra, nhưng không ai có thể tin chuyện diễn ra đêm đó. Tôi nghĩ phụ nữ nên tham gia vào đời sống chính trị để ngăn chặn những việc tương tự tái diễn".

Hai trong số những người cô của Asma Kakar vừa thực hiện điều ấy. Họ đã được bầu vào hội đồng lập pháp tỉnh và quốc gia. Cô sinh viên 17 tuổi này muốn trở thành bác sĩ, điều không bình thường xảy ra trong cộng đồng người Pashtun. Cha mẹ cô đã đồng ý để cô đi học tại một trường ĐH ở Ấn Độ nếu cô được nhận.

"Tôi biết mọi thứ đã được cải thiện nhiều kể từ thời Taliban, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế mà tôi không thích", Kakar nói. "Phụ nữ vẫn không thể ra ngoài nhiều, chúng tôi vẫn phải mang khăn trùm đầu khi ra ngoài. Chúng tôi thậm chí không được tham gia những buổi picnic ngoài trời. Nhưng tôi biết tôi may mắn, tôi không phải lo lắng về tiền. Và tôi có thể rời khỏi nơi này, ít nhất là trong một thời gian ngắn nếu tôi có bằng cấp".

Từ chỗ phụ thuộc trở thành trụ cột gia đình!

Một thực tế là việc nới lỏng những ràng buộc xã hội cho nhiều phụ nữ đã dẫn tới các vấn đề kinh tế. Giờ đây, phụ nữ được phép làm việc, dù lúc miễn cưỡng. Nhưng với tỷ lệ thất nghiệp ở nam giới đang tăng cao, họ đôi lúc trở thành trụ cột chính trong gia đình.

Sadia Kamrani, 23 tuổi, làm việc tại Bộ các công việc xã hội. Mức lương 150 USD/tháng của cô là nguồn thu nhập duy nhất đối với gia đình mở rộng ấy ngoài thu nhập hiếm hoi của cha chồng. "Tôi không thể có con. Tôi đang có vấn đề sức khoẻ và cần phẫu thuật, nhưng tôi không có tiền. Chồng tôi bị thất nghiệp trong khi tôi phải phụ giúp anh ấy. Nhưng tôi cũng biết rằng anh ấy sẽ ly dị tôi nếu tôi không có con".

Khi cuộc nội chiến bắt đầu, gia đình Kamrani chạy sang Iran. Hai năm sau, họ quay trở lại Afghanistan. "Người ta nói rằng Iran là nước bảo thủ, nhưng chúng tôi không phải mang khăn trùm kín mặt ở đất nước ấy. Trong vài tuần đầu tiên, tôi đã phải mặc thứ này và liên tục bị ngã vì không thể nhìn được mình đang đi đâu. Trên người tôi đầy vết thâm tím. Tôi không hề thích mặc nó và tôi không biết có người phụ nữ nào khác thích mặc không trừ phi bị ép buộc".



phunuAfganistan3.jpg


"Nhiều người cũng không thích phụ nữ đi làm. Do đó chúng tôi phải đi đường riêng, nếu không tôi sẽ gặp vấn đề. Hàng ngày vẫn xảy ra các vụ bắn giết. Đó lại là điều chúng tôi không gặp phải khi ở Iran".

Sherifa Popal, 30 tuổi là một thợ may tại một vùng nghèo đói thuộc Kandahar. Cô từng tham gia vào quá trình bầu cử, đầu tiên là tới các lớp học và sau đó tham gia huấn luyện một đội gồm 42 người giám sát các cuộc bỏ phiếu. Nhưng giờ đây, cô bị thất nghiệp và với một người chồng ốm yếu, cô phải lo chu cấp cho cả gia đình.

"Tôi học tới lớp 10 nhưng đến lúc đó xảy ra nội chiến và chính quyền Taliban làm tôi dang dở việc học hành. Tôi phải tham gia các khoá giáo dục dân sự về bầu cử và cũng mở một vài lớp dạy may. Giờ đây tất cả các bộ trong chính phủ đều thiếu tiền cho dự án và tôi không có việc làm. Nguồn thu duy nhất mà tôi có hiện nay là từ việc may quần áo tại gia. Số tiền ấy chẳng đủ chút nào vì cuộc sống tại Kandahar đang trở nên rất đắt đỏ".

Một trong những dự án hiện vẫn đang hoạt động là các lớp dạy may do ADA điều hành. Nassema Ali, hướng dẫn tại các lớp học này nhớ lại những ngày dưới chế dộ Taliban khi chồng cô phải đóng cửa tiệm quần áo vì giới giáo sĩ Hồi giáo ra sắc lệnh: đàn ông không được bán quần áo phụ nữ, kể cả những miếng vải trùm đầu không hình thù cụ thể. "Những cô gái tôi đang dạy sẽ rời nơi này và trở thành thợ may. Họ sẽ tìm ra cách để tự nuôi sống bản thân".
 

Đăng lần đầu 07/03/2005

Cập nhật lần 1  09/03/2007

Cập nhật lần 2  08/03/2008

Cập nhật lần 3  08/03/2009

 

©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org  Võ Thị Diệu Hằng