Thời
kỳ vương quốc Phù Nam, từ 200 B.C đến thế kỷ thứ 7
Trong những năm biến loạn giữa
thế chiến thứ hai, có một sự kiện ít ai bận tâm nhưng có ý nghĩa
quan trọng trong lịch sử và khảo cổ vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu
Long. Đó là di chỉ Óc Eo và sự khám phá của nhà khảo cổ Louis Malleret
về thành phố cảng quan trọng của một nền văn minh chưa được biết
đến nhiều, nền văn minh Phù Nam.
Trước đó ta chỉ biết về Phù
Nam qua sử liệu Trung quốc nói về vương quốc này ở vùng Thủy Chân
Lạp. Vị trí trung tâm của Phù Nam được nhiều nhà nghiên cứu cho
là ở vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long hiện nay bao gồm Rạch Giá,
Hà Tiên, Long Xuyên, Sambor Prei Kuk, Banteay Prei Nokor và Angkor
Borei. Lãnh thổ và ảnh hưởng của Phù Nam thì rộng lớn từ Mon-Dvaravati
(Miến Điện, Thái Lan ngày nay), Nam Lào đến cả vùng Nam bộ.
Phù Nam bắt đầu được chú ý khi
vào năm 1903, P. Pelliot đã dịch các thư tịch trong sử Trung Quốc
nói về vương quốc Phù Nam, cho thấy đây là một vương quốc Ấn hóa
hùng mạnh đầu tiên ở Đông Nam Á và có sự liên hệ với Trung Quốc
và các vùng khác vào thế kỷ 1 đến thứ 5 sau công nguyên. Một số
khám phá và công trình nghiên cứu của các học giả Pháp ở trường
Viễn Đông bác cổ vào các thập niên đầu thế kỷ 20 như Parmentier,
Claeys, Malleret, Coedes, De Lajonquiere… ở các di chỉ tìm được
ở hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long cho chúng ta biết thêm là vùng
này có một nền văn hóa cổ xưa ở các thế kỷ đầu công nguyên. Các
di tích khảo cổ này được cho là các di chỉ kiến trúc thuộc văn hóa
Phù Nam “tiền Angkor”, di sản để lại cho văn minh Khmer Chân Lạp
khi Phù Nam biến mất, và là bước đầu làm nền tảng cho văn hóa Khmer
Angkor phát triển rực rở ở thế kỷ 12.
Ngay ở tại Saigon, ở gần giao
lộ đường 3/2 và đường Hùng Vương là chùa Phung Sơn hay còn gọi là
chùa Gò. Nơi đây là di tích của một di chỉ đền thờ thuộc nền văn
hóa Óc Eo hay còn gọi là “tiền Angkor”. Di tích gò ở chùa Phụng
Sơn nằm trên gò đất hình gần vuông mỗi cạnh khoảng 100m có hào nước
chung quanh. Di tích được biết khoảng năm 1930-1940. Tại gò này
năm 1938 đã phát hiện một tượng thần Vishnu bằng đá tìm được ở một
giếng phía đông bắc ngôi đên trên gò. Cuộc khai quật nghiên cứu
năm 1991 đã làm rõ di chỉ kiến trúc điện thờ, thu thập thêm được
những đồ gốm Óc Eo điển hình, tượng bán thân và linga ở khu mộ táng
dưới và quanh miếu Ông Tà, về phía bên trái của chùa gò Linh Sơn
ngày nay. Ở phía bên phải của chùa, cũng tìm được di tích gạch đá
của cửa chính ở phía đông và cửa hậu ở phía tây (Đền Phù Nam luôn
có cửa chính hướng về phía đông nơi mặt trời mọc, nhận ánh sáng
thần linh)
Vậy ta biết gì về Phù Nam và
con người của vương quốc này, đã cư trú hay ít nhất có ảnh hưởng
trực tiếp vào các thế kỷ đầu công nguyên ở vùng đất Saigon mà ta
biết ngày nay?
Phù Nam (扶南) là tên sử Trung
quốc gọi tên vương quốc này, hiện nay ta không biết người Phù Nam
gọi họ và đất nước của họ là tên gì (Phù Nam có thể là phiên âm
từ chữ Môn-Khmer phnom, có nghĩa là núi). Vào giữa thế kỷ thứ 3
A.D, vào thời Tam Quốc hai sứ giả nước Ngô (Wu, 222-280), Khang
Thái (康泰, Kang Tai) và Chu Ứng (朱應, Zhu Ying), đã đến viếng thủ
đô huyền thoại của Phù Nam là Đặc Mục (T’e-mu). Thủ đô này cách
bờ biển khoảng 500 li (200km). Theo bia ký bằng chữ Phạn
sanscrit (khoảng 655 A. D) thì thủ phủ của Phù Nam hay ít nhất là
một thành phố lớn là Vyadharapura (thành phố thợ săn). Theo Pelliot
và Vickery (17) thì thủ đô của Phù Nam là Angkor Borei vì gần với
núi Phnom Da tương ứng với sự mô tả của sứ giả Phù Nam đến Trung
quốc là Nagasena cho biết thủ đô cạnh chân núi gọi là Mayentiram,
và Vyadharapura không phải là thủ đô mà có thể chỉ là Banteay Prei
Nokor, một thành phố phía đông bắc Angkor Borei. Coedes thì cho
rằng thủ đô của Phù Nam là Ba Phnom (giữa Angkor Borei và Óc Eo)
vì tên núi tương ứng với Vrah Vnam, một tên gọi xưa của Ba Phnom.
Những quan sát về Phù Nam được
hai ông Khang Thái và Chu Ứng viết trong quyển Ngô thì Ngoại quốc
truyện (Wu shi Waiguo Zhuan, 吳時外國傳) và sau đó được nhiều bộ sử khác
sau này ghi lại vào trong một phần nói về vương quốc Phù Nam như
trong bộ “Lương Sử”. Pelliot năm 1903 là người đầu tiên đã dùng
những tư liệu này để viết về những nước cổ ở Đông Nam Á được đề
cập trong thư tịch Trung quốc.
Bộ sử “Lương thư” (635 A.D)
trong sách sử Trung quốc viết về Phù Nam, thu thập từ nhiều nguồn,
như sau (14)
“Vương quốc Phù Nam ở phía
nam của quận Nhật Nam (Rinan, bắc Việt Nam), nằm trong một vịnh
ở phía tây của vùng biển (Nam Hải). Vương quốc này cách Nhật Nam
7000 lý (li) và hơn 3000 lý về phía tây nam của Lâm Ấp (Champa).
Thủ đô cách biển 500 lý. Có một con sông lớn, bề ngang rộng 10 lý,
chảy từ tây bắc và đổ ra biển ở phía đông. Vương quốc này có đường
kính hơn 3000 lý, và đất ở vùng thấp và phẳng. Khí hậu và phong
tục nói chung giống như ở Lâm Ấp. Nơi đây sản xuất vàng, bạc, đồng,
thiếc, gỗ trầm hương (降真香, giáng chân hương,
lakawood, Liana Indiana), ngà voi, ngọc và các con két 5 màu. (ghi
chú: 1 lý trong “Lương thư” tương đương với khoảng 77 mét)
Người dân Phù Nam lúc ban
đầu có tục ở trần truồng, xâm mình và để tóc xỏa dài không búi.
Thủ lãnh của họ là một người đàn bà tên là Liễu Diệp (柳葉, Liuye,
Lá Liễu, còn gọi là Soma ở truyền thuyết Chăm tương tự). Người đàn
bà này trẻ và khỏe mạnh, như một người đàn ông. Ở phía nam có một
vương quốc Ji,(徼, kiêu) nơi có một thầy tu phù phép thần thánh tên
là Hỗn Điền (Huntian, tương đương với Kaundinya trong truyền thuyết
Ấn độ tương tự). Ông ta mơ trong một giấc mộng có một vị thần cho
ông một cây cung, và đi trên một thuyền buôn. Lúc buổi sáng khi
tỉnh dậy, ông đi đến đền và tìm thấy một cây cung ở dưới một gốc
cây thiêng. Vì thế ông làm theo như trong mộng và đi ra biển trên
một tàu, đến vùng ngoại biên của Phù Nam. Liễu Diệp (Liuye) và đoàn
tùy tùng thấy thuyền đến gần và muốn bắt thuyền này. Hỗn Điền rút
cung ra và bắn vào thuyền của Liễu Diệp, đâm thủng một bên và trúng
một người hầu. Liễu Diệp sợ hãi và cùng với thần dân đầu hàng Hỗn
Điền. Hỗn Điền dạy Liễu Diệp làm một lỗ ở giữa mãnh vãi và để đầu
xuyên qua lỗ này, dùng làm quần áo để che than. Sau đó Hỗn Điền
ngự trị trên toàn lãnh thổ và cưới Liễu Diệp làm vợ. Họ có bảy người
con trai, mỗi người con được làm vua ở mỗi vùng khác nhau. Sau này,
vua Hỗn Bàn Huống (Hun Pankuang) dùng mưu mẹo để gây mâu thuẫn giữa
các vùng, làm cho họ nghi ngờ và ngăn cản. Sau đó Bàn Huống mang
quân lính tấn công và thống trị tất cả, và gởi con và cháu của mình
ngự trị mọi vùng với tước hiệu tiểu vương...”
Đoạn miêu tả về đặc tính của
nền công lý Phù Nam:
“Họ nuôi cá sấu trong hào
chung quanh thủ đô, và một chuồng thú dữ ngoài cửa thành. Những
người bị kết tội phạm bị cho thú dữ hay cá sấu ăn, và nếu họ không
bị thú vật ăn trong vòng 3 ngày, họ được coi là vô tội và được thả.
Những con cá sấu lớn dài hơn 2 trượng (zhang) và giống loại cá sấu
ở sông Dương Tử với 4 chân và mõm dài từ 6 đến 7 chi, răng ở hai
bên sắt như kiếm. Chúng thường ăn cá nhưng cũng nuốt ăn nai hay
người nếu đến ngang gần chúng. Có những cá sấu ở phía nam quận Cangwu
và ở nước ngoài (ở phía nam).“
Sau thời huyền thoại lập quốc,
là đến thời kỳ có sử liệu ghi lại sự kiện qua thư tịch và sử Trung
quốc (14):
“Trong thời nhà Ngô (thời
kỳ Tam Quốc), tướng vệ binh Khang Thái và quan Chu Ứng được gởi
là sứ giả đến vương quốc Phù Nam của vua Phạm Tần (Fan Xun). Người
dân ở đây vẫn còn trần truồng, trừ đàn bà mặc vải có lổ để đầu xỏ
vào. Khang Thái và Chu Ứng nói với họ, ‘Đây là một nước tốt đẹp,
nhưng thật không tốt để người dân không có gì mặc như vậy’. Vì thế
lần đầu tiên, người đàn ông ở xứ này được lệnh mặc hengfu. Hengfu
là y phục mà nay gọi là ganman (tức sarong). Người giàu làm hengfu
từ bông vải, nhưng người nghèo chỉ dùng vải thường (hemp) đơn giản.
Vào thời Thái Khang (太康,Taikang
280-289 AD) trị vì của Tấn Vũ đế (晋武帝, Jin Wudi), Phù Nam gởi sứ
bộ triều cống đầu tiên. Trong năm đầu (357 A.D) thời Thăng Bình
(升平, Shengping) của Tấn Mục đế (晉穆帝, Jin Mudi), vua Zhuzhantan (Chu
Chan-T’an) gởi vật triều cống là một con voi thuần. Vua Mục đế ra
chỉ thị cho vua Phù Nam “Con thú này rất khó chuyên chở, ngươi không
cần phải gởi cống con voi nào nữa”...
Vào thời Vĩnh Minh (永明, YongMing,
483-493) của triều đại nhà Nam Tề (南齐), vua Sheyebamo (Jayavarman)
gởi sứ bộ triều cống.
Vào năm thứ hai của thời
Thiên Giám (天監, Tianjian, 503 A.D) của vua Lương Vũ đế (Liang Wudi),
Jayavarman lần nữa gởi vật triều cống là một bức tượng Phật làm
băng san hô và các sản vật Phù Nam. Nhà vua đã ra dụ, “Vua Phù Nam
Qiaochenru Sheyebamo (Kaundinya Jayavarman) sống cạnh biển và vương
quốc của nhà vua đã thần phục chúng ta từ nhiều đời. Sự thành khẩn
của nhà vua được biết lan ra xa ngoài nước và nhà vua đã coi trọng
công việc dịch ra các kinh kệ và triều cống các vật quí. Ta rất
quí nhận chúng và thưởng cho nhà vua, phong chức cao cho nhà vua.
Nhà vua có thể được phong chức là Tướng bình định phương Nam và
Vua của Phù Nam."
Dân ở vương quốc này tất
cả đều xấu và đen, với tóc quăn. Nơi họ sống, họ không có đào giếng
và vài chục hộ dân dùng một ao chung để lấy nước. Họ thờ thần thiên
giới, qua tượng đồng có hai mặt và bốn tay. Hay bốn mặt và tám cánh
tay. Mỗi bàn tay cầm một vật – một đứa trẻ hay con chim, thú hay
mặt trời hoặc mặt trăng. Nhà vua cởi voi đi ra vào cung, cũng như
các thê thiếp. Nhà vua ngồi với đầu gối phải thẳng đứng và đầu gối
trái trên đất và một dĩa trắng đặt trước mặt nhà vua trên đó có
một bồn vàng với hương đèn. Tục lệ ở vương quốc này là lúc đau buồn
để tang, người ta cạo râu mép, râu hàm và tóc. Người chết được chôn
bằng bốn cách: bằng nước, quẳng xác xuống sông; bằng lửa, đốt ra
tro; bằng đất, chôn dưới đất; bằng chim, để ở ngoài chổ hoang dại
cho chim ăn. Dân xứ này tham lam và nhỏ nhen, không hổ thẹn, và
đàn ông đàn bà liên hệ ăn ở với nhau không giới hạn...
Trong năm thứ năm Đại Thông
(大通, Datong, 539), một sứ bộ được gởi đến với một con tê giác. Qua
đó cũng được biết là vương quốc Phù nam này có một sợi tóc của Đức
Phật, dài 1 trương và 2 chi, và hoàng đế Lương Vũ đế đã cho gởi
nhà sư Shi Yunbao đi cùng với sứ giả trở về Phù Nam để mang tóc
đức Phật đến Trung quốc“
Ngày 11/4/1942, nhà nghiên cứu
Louis Malleret ở viện bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là Bảo
tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), xuống vùng núi Ba Thê gần Rạch
Giá xem xét sau khi có tin rất nhiều người đổ sô đến cánh đồng và
các gò chung quanh núi Ba Thê để đào bới tìm vàng và cổ vật quí
giá qua sự tình cờ khám phá các hiện vật nữ trang vàng của một nông
dân gần gò Cây Thị. Đoàn khảo cổ do Malleret đứng đầu đã đi tìm
và mua lại các di vật đã bị mất cắp và khởi công khai quật các di
chỉ mới tìm thấy đã bị đào xới bởi các người tìm vàng.
Những khám phá qua khai quật
các di vật ở Óc Eo như đồng tiền La Mã có hình của hoàng đế Antonious
Pious và hoàng đế Marcus Aurelus, các tiền hình vua Ba Tư, các hạt
chuổi, lưu ly, thủy tinh cho thấy Óc Eo có liên hệ thương mại với
vùng Đông Nam Á và Ấn Độ (chuyển tiếp với thế giới La Mã ở Địa Trung
Hải). Nhiều học giả cho rằng Óc Eo tương ứng với Kittigara (hay
Cattigara) mà Ptolemy có đề cập trong quyển Geographia của ông soạn
khoảng 150 A.D mà nhiều nhà hàng hải trong nhiều thế kỷ đã tranh
luận và tìm hiểu về cảng này trong sử sách.
Óc Eo ở vị trí thuận tiện trong
nền thương mại hàng hải giữa Ấn Độ, vùng Đông Nam Á và Trung quốc
từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến đầu thế kỷ thứ 5 sau công
nguyên.
P. Paris năm 1931 đã cho thấy
qua các không ảnh chụp trong các tỉnh Takeo, Châu Đốc, Long Xuyên
và Rạch Giá có sự hiện diện dấu vết của một hệ thống kênh đào xưa
chung quanh Óc Eo, Angkor Borei và hai nơi này nối với nhau qua
các kênh rạch và từ đó chảy ra cửa biển gần Rạch Giá ngày nay. Gần
các di chỉ đền và mộ táng trên các gò ở Óc Eo có (rạch) Lung Giếng
Đá (Lung từ tiếng Khmer “stung” nghĩa là rạch) chảy 20km về phía
Đông Bắc đến di chỉ Tráp Đá (Brai Angrun, tiếng Khmer nghĩa là “bãi
lầy đá”) và phía Tây Nam đến di chỉ Nền Chùa ở Kiên Giang. Di chỉ
văn hóa Óc Eo ở Nền Chùa (Takev) gần Rạch Giá được Malleret coi
là vị trí “tiền cảng” của “thành phố Óc Eo” (15).
Qua kết quả khai quật của Malleret,
G. Coedes cho là Óc Eo là thị cảng lớn nhất của văn hóa Óc Eo với
đền đài theo tôn giáo thờ thần Shiva, Vishnu là chủ yếu và Phật
giáo có ảnh hưởng mạnh. Malleret cho là Óc Eo còn có tên là Naravaranagara
(Na-Phật-Na) và là nơi vua Phù Nam dời đến khi kinh đô Đặc Mục (T’emu)
bị vua Chân Lạp là Isanavarman (Y-Chư-na) chiếm đóng (15). Thủ đô
của Chân Lạp lúc đó là Isanapura (Sambor Prei Kuk, gần Kompong Thom
ngày nay). Theo thư tịch Trung quốc thì vua Phù Nam chạy từ Đặc
Mục đến nơi gọi là “na-fu-na/na-fu-na/*nã-piuet-nã” mà Coedes
cho là naravaranagara, và là thành phố Angkor Borei ngày
nay.
Hình 9 - Gò Cây
Thị nơi Malleret khảo sát và khai quật năm 1944 (1)
Hình 10 - Di tích
Gò Cây Thị ngày nay nằm giữa đồng gần núi Ba Thê về hướng Đông Nam.
Để ý 4 ngăn trong hình của Malleret nằm ở bên trái hình trên, tức
là phía chính điện (ở hướng tây). Tiền điện ở hướng đông, bên phải
hình trên. Tỉnh An Giang đã cho xây rào bảo vệ di tích gò Cây Thị
và khuôn viên chùa Linh Sơn trên triền núi Ba Thê. Tuy vậy các di
tích khác chưa có được bảo vệ. (Anh của tác giả năm 2011)
Hình 11 - Nhẫn
và trang sức vàng tìm được ở di chỉ Gò Xoài (Đức Hòa, Long An) (9)
Ngoài các di tích ở Óc Eo, trong
cánh đồng Giồng Cát và Giồng Xoài, có rất nhiều di chỉ khảo cổ thuộc
nền văn hóa Phù Nam được khám phá khắp vùng đồng bằng Nam bộ và
cho đến vùng chung quanh Angkor Borei ở Cam Bốt. Hầu hết các di
chỉ là năm trên các gò (cũng dễ hiểu là vì đây là nơi cao ráo không
bị nước ngập trong mùa nước lũ). Di chỉ Gò Xoài (Chòm Mã) ở Đức
Hòa, Long An trước kia được Henri Parmentier khám phá năm 1910,
sau đó J. Cleays khai quật năm 1931 di tích Gò Tháp Lấp cạnh đó,
và năm 1987 các nhà khảo cổ Việt Nam đã khai quật lại khu Gò Xoài
cho thấy nhiều hiện vật vàng như nhẫn, vàng lá có hình các thú,
và một lá vàng có chữ cổ sanscrit. Tất cả được xác định là thuộc
nền văn hóa Óc Eo, Phù Nam.
Trong khu vực Saigon-Chợ Lớn,
ở gò Cây Mai tìm được những gạch vỡ, các mãnh sa thạch và tượng
thần Vishnu bốn tay thời tiền Angkor làm bằng sa thạch và gần đấy
ở Rạch Lò Gốm, trong một thửa ruộng ở Phú Thọ vào năm 1928 chủ nhà
đã tìm thấy hai pho tượng bằng đá. Một trong hai pho tượng là tượng
Lokesvara thời tiền Angkor.
Các nhà khảo cổ Việt nam từ
năm 1977 đến 1993 đã có nhiều khai quật và nghiên cứu (15) ở các
di chỉ trước đây và mới tìm được ở nhiều nơi như An Giang (Óc Eo,
Ba Thê, Đá Nổi), Đồng Tháp (Gò Tháp hay Tháp Mười), Kiên Giang (Nền
Chùa hay Ta kev, Đá Nổi, Kè Một, Cạnh Đền hay “Cent Rues” Trăm Phố),
Long An (Gò Hàng, Gò Gòn, Gò Chàm, Gò Sao, Tho Mo, Bình Tả gồm Gò
Xoài hay Chòm Mã, Gò Đồn, Cái Tháp, Gò Năm Tước hay Cái Gò và Gò
Sáu Huấn), Tiền Giang (Gò Thành), Trà Vinh (Lưu Cừ), Cần Thơ (Nhơn
Thành, Thạnh Lợi), Bạc Liêu (Vĩnh Hưng hay tháp Trà Long), Vĩnh
Long (Thành Mới), Tây Ninh (Thanh Điền, Phước Thạnh, Phước Chỉ,
Chót Mạt), Thành phố Hồ Chí Minh (Cần Giờ gồm Giồng Am, Giồng Cá
Trăng, Giồng Cháy... và di chỉ trong khuôn viên chùa Linh Sơn tự,
Saigon), Đồng Nai (Cây Gáo, Miếu Ông Chồn, Gò Bường hay Nhà Mát),
Lâm Đồng (Đồng Nai, gò Quảng Ngãi, Cát Tiên).
Qua những di tích, các di vật
tìm thấy, các công trình nghiên cứu mới này đã xếp loại các di chỉ
thành 3 loại: di chỉ mộ táng, di chỉ đền và di chỉ cư trú. Các nhà
khảo cổ Việt nam đã gọi các di chỉ với các di vật tìm thấy như hoa
văn gốm, tượng đá, gỗ, nhẫn vàng, bông tai vàng, vàng lá có chạm
hình thần, người, các thú như voi, rùa, rắn, nai, hoa sen… đều có
sự liên hệ gần gủi chung với nhau là thuộc một nền văn hóa gọi là
văn hóa Óc Eo (15). Cũng như trước đây thời Pháp thuộc, từ năm 1977
rất nhiều các di chỉ được khám phá và khai quật sau khi đã có nhiều
người đã đào xới tìm vàng làm hư hại các di tích và nhiều hiện vật
bị mất cắp. Hiện nay một số di chỉ không được bảo quản hoặc
nằm trong khu đất nhà hay ruộng dân và bị xuống cấp trầm trọng hay
mất hẳn.
Đặc biệt ở nhiều di tích cư
trú văn hóa Óc Eo tìm thấy rất nhiều hạt chuỗi hình cầu tròn bằng
đá quí mã não, ngọc, thủy tinh nhiều màu, nhiều hình như lục lăng,
lục giác, hình thoi…, hạt chuỗi bằng đất nung, hạt chuổi nhỏ tròn
dẹt bằng lưu ly, các đá quí nhiều màu. Đây có khả năng là các sản
phẩm được nhập từ các tàu thương mại trong vùng thế giới Austronesian
hải đảo qua thương mại hạt chuổi, đá quí, ngọc. Ngoài ra ở các di
chỉ văn hóa Óc Eo còn tìm thấy các vòng tay, khuyên tai, nhẫn, lục
lạc, huy chương, bùa đeo bằng kim loại, thủy tinh, bằng đá.
Trong các di chỉ mộ táng, có
tìm thấy được các xương sọ người và thú. Hiên nay chưa được xác
định rõ chính xác nhân chủng người Phù Nam mà chỉ được các nhà khảo
cổ Việt Nam cho biết là “có đặc điểm người Thượng (mà nhiều tác
giả gọi là “Indonesian”) với rất nhiều đặc điểm của đại chủng Australoid”
(tr. 55, (15)). Malleret cho rằng người Phù Nam ở các thành phố
cảng là thuộc chủng Mã Lai Austronesian ở đầu thế kỷ 1 sau công
nguyên. Hall và Thurgood cho rằng người Austronesian cư trú
ở cảng Óc Eo và theo Võ Sĩ Khải thì các sọ tìm thấy ở di chỉ Cạnh
Đền có lẽ là thuộc người Austronesian.
Ngược lại Vickery cho rằng cơ
bản người Phù Nam là Mon-Khmer Austroasiatic có thể thuộc nhóm Môn
(16) và chỉ ở các cảng gần biển có thể có người Austronesian như
Chăm, Mã Lai đến cư trú do sự tiếp xúc buôn bán thương mại hàng
hải giữa Phù Nam với Austronesian hải đảo. Qua thương mại giữa thế
giới Ấn độ và vùng Đông Nam Á, người Austronesian hải đảo có thể
là yếu tố chính làm thuận lợi sự du nhập mang văn hóa Ấn độ đến
Phù Nam. Vì vậy theo Vickery thì ngoài các cảng buôn bán thì đa
số người Phù Nam là Môn-Khmer austroasiactic.
Một số các đồng tiền tìm thấy
ở Óc Eo có hình đền và mặt trời mọc lên cũng được tìm thấy ở U-Thong
(Thái Lan) và Halin, Pegu (Pyu, Miến Điện). Hai nơi này cũng là
xứ sở của người Môn. Vì thế, trái với Aymonier, Pelliot và Coedes
cho là Phù Nam chủ yếu ở nam Cam Bốt và Việt Nam, Jean Boisselier
cho rằng trung tâm của Phù Nam là U-Thong, ở phía bắc trung điểm
Thái Lan ngày nay, trong khi Hoshino lại cho là trung tâm Phù Nam
ở đông bắc Thái Lan ngày nay (17). Cả hai nơi này đều là xứ sở của
người Môn- Dvaravati.
Miksic và Vickery cho rằng có
thể là vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long chủ yếu là người thuộc
ngôn ngữ Mon-Khmer cư trú và sau đó tiếp xúc với thuyền buôn người
Austronesian (Mã Lai, Java, Phi Luật Tân) và từ đó phát triển cơ
cấu xã hội, tôn giáo, kinh tế, văn hóa của Phù Nam (16). Kinh tế
sản xuất chủ yếu ở Phù Nam là trồng lúa gạo như thư tịch Trung quốc
đã cho ta biết.
Về nghệ thuật các tượng với
khuôn mặt hình thái có nét giống với nghệ thuật Mon-Dvaravathi hơn
là phong cách Phnom Da, tiền Angkor. Vickery (17) cho rằng dân Phù
Nam có thể là Môn thuộc chủng Austroasiatic có liên hệ mật thiết
với người Khmer. Các hạt chuỗi, ngọc, đồ trang sức vàng, thiết,
loại gốm ở Óc Eo rất giống với nghệ thuật Môn-Dvaravati nhưng ở
Chân Lạp thì hoàn toàn không có.
Vì vậy ta có thể tạm kết luận,
vùng đất Saigon-Đồng Nai được cư trú bởi người Mạ, một tộc thuộc
hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, và trong thời kỳ Phù Nam có ảnh hưởng lan
tỏa từ hạ lưu sông Cửu Long, người Phù Nam đã có đến hay ít nhất
ảnh hưởng đến vùng đất này. Người Phù Nam, cũng thuộc hệ ngôn ngữ
Mon-Khmer, có văn hóa và tổ chức kinh tế xã hội cao hơn. Và không
lâu sau đó đã được tiếp thay bởi người Khmer Chân Lạp. Người Khmer
coi người Mạ anh em ở vùng phía trong miền đông Nam bộ cho đến cao
nguyên Lâm Đồng là sơ khai. Người Mạ thường bị các tộc khác bắt
làm tù binh, nô lệ trong các trận bắt đánh nhau, vì thế trong ngôn
ngữ họ có từ “bắt Mạ” để chỉ chiến tranh, đánh nhau.
Giai đoạn vào cuối thế kỷ thứ
5, là lúc vương quốc Champa bắt đầu có ảnh hưởng lan rộng từ miền
trung và nam trung bộ xuống miền đông Nam bộ. Từ đó giữa Phù Nam
và Champa đã có những xung đột tranh chấp xảy ra. Thư tịch Trung
quốc có nói đến sứ giả Phù Nam đã kêu gọi nhờ Trung quốc giúp đỡ
đánh Champa nhưng bị từ chối. Chiến tranh giữa hai dân tộc, một
có nguồn gốc là Austroneasian hải đảo (Champa) và một là thuộc Mon-Khmer
trên lục địa (Phù Nam-Chân Lạp-Khmer Angkor), nhưng có cùng một
nền văn minh Ấn hóa đã xảy ra liên tục mà cao điểm là trong thời
kỳ Angkor. Đông Nam bộ trở thành vùng độn giữa hai thế giới Austronesian
Champa và Mon-Khmer.
Cuối cùng, vào thế kỷ 17 thì
bắt đầu có lưu dân người Việt và Hoa đến vùng đất Saigon-Đồng Nai.
Thời
kỳ Chân Lạp, đế quốc Angkor và vương quốc Champa
Vết tích của văn hóa Chân Lạp-Angkor
và Champa tìm được ở nhiều nơi trong vùng Saigon Gia Định xưa. Ở
ngay Saigon, tại góc đường Lê Hồng Phong và Trần Hưng Đạo trước
đây có lộ ra các tấm đan bằng sa thạch hay phiến thạch và năm 1940
Malleret đã khai quật địa điểm này. Ông đã phát hiện một bức tường
xây bằng gạch cở lớn và một pho tượng nhỏ bằng đồng của một nhân
vật quì gối, hai tay nâng chậu lớn đầu đội mũ hình chóp, y phục
ngắn có sọc theo phong cách Baphuon thuộc thế kỷ 11 thời kỳ Angkor
(19).
Ở chùa Bửu Sơn, Biên Hòa có
một tượng Champa Vishnu bốn tay bằng đá, tạc trong tư thế ngồi,
lưng dựa vào một phiến đá hình vòng cung đỉnh nhọn có khắc 9 dòng
chữ Champa cổ nói về chiến công của hoàng tử Nauk Glaun Vijaya (con
của Sri Jaya Simhavarman) đánh thắng người nước Việt (Yvan) và chiếm
nước (nagara) Brah Kanda (19) (20). Hoàng tử đánh thắng nhiều trận,
trở về vương quốc Champa vào năm (?) caka, xây tượng Tribbhuvanã-krãnta
này từ chiến lợi phẩm sau khi thắng người Khmer (Kvir) (chú thích:
dòng chữ về năm thuộc lịch caka không đọc rõ, năm theo lịch caka
sau dương lịch 78 năm). Đây là một bia ký quan trọng, giúp vào nổ
lực của các nhà khảo cổ và sử học trong sự xác định các triều vua
trong lịch sử Champa, đối chiếu với sử liệu Việt Nam và Trung Quốc.
Niên đại của tượng có lẽ vào
cuối thế kỷ 14 (sử liệu theo Coedes cho biết hoàng tử Nauk Glaun
Vijaya lên ngôi năm 1400 với vương hiệu Vira Bhadravarman, tức Ba
Đích Lai, và sau này là Indravarman VII) (19) (21). E. Aymonier
cho là Brah Kanda là tên gọi nước Chân Lạp xưa và niên đại trong
dòng chữ là 1282 caka (1360 A. D) (nếu như Aymonier đúng thì thời
kỳ này tương ứng với Chế Bồng Nga và hoàng tử Nauk Glaun Vijaya
là vua Chế Bỗng Nga sau này chứ không phải Indravarman VII) (20)
Ngoài ra ở chùa Giác Quan (tổng
Bình Trị, Gia Định nay thuộc Bình Thạnh) có tượng đá sư tử theo
phong cách Chăm đứng với tư thế tấn công, tượng hiện nay được lưu
trữ ở viện bảo tàng Saigon.
Các di tích Chân Lạp-Khmer và
Champa ở rãi rác nhiều nơi quanh Saigon vùng miền đông nam bộ cho
thấy đây là vùng tranh chấp và đệm giữa vương quốc Champa và Khmer.
Quả thật trong lịch sử đã có những hồi chiến tranh kịch liệt giữa
hai dân tộc. Năm 1145 vua Suryvarman II, người xây dựng Angkor Wat,
mang quân qua đường theo ngã vùng đông nam bộ đánh Champa chiếm
thành phố Vijaya (Trà bàn, Bình Định ngày nay), tiến lên đến bắc
Champa phá hủy đền đài ở Mỹ Sơn và chiếm đóng Champa cho đến năm
1149 thì vua Champa Jaya Harivarman ở Pandugara mới thu phục lại
được xứ sở. Năm 1177 thì đến phiên Champa đánh vào vương quốc Angkor,
vua Champa Jaya Indravarman IV mang quân và chiến thuyền theo ngược
sông Mekong vào Biển Hồ Tonlé Sap đánh úp Yasodharapura (“thành
phố thiêng” hay “thủ đô”) ở vùng Angkor, giết vua Khmer và cướp
phá thành phố. Trên tường của đền Angkor Thom (Bayon) vẫn còn hình
khắc các chiến thuyền cùng binh lính Champa đánh thủy chiến với
quân Khmer.
Không lâu sau đó, năm 1190,
vua Khmer Jayavarman VII, người xây Angkor Thom, đã chỉ định một
hoàng tử Champa tên là Vidyanandana chỉ huy quân Khmer mang đi đánh
Champa và đã chiếm được Vijaya và không lâu sau năm 1203 cả Champa.
Champa bị cai trị như một tỉnh của đế quốc Khmer Angkor cho đến
năm 1220 thì Champa tìm lại độc lập. Thời kỳ này cũng là thời kỳ
mà văn hóa kiến trúc Khmer có ảnh hưởng nhiều đến nghệ thuật Champa.
Chiến tranh triền miên giữa Champa và Angkor cũng là một nguyên
nhân làm suy yếu thêm Champa và cuối cùng dẫn đến mất nước và diệt
phong với Đại Việt sau này.
Châu Đạt Quan, trong đoàn sứ
giả Mông Cổ, đi đến vương quốc Angkor Khmer vào thế kỷ 13. trong
quyển “Chân Lạp phong thổ ký” (24) (25) đã để lại cho ta một vài
thông tin về vùng đất gần Saigon và ở Nam bộ khi ông đi tàu đến
Angkor qua Chen-P’u (Chân Bồ, tức là Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay) đến
cửa sông Cửu Long và từ đó đi ngược dòng đến Biển Hồ và tới Angkor.
“.. Từ đó, rời Chiêm Thành,
khi thuận gió, trong mười lăm ngày là có thể tới Chen-p’u (Chân
Bồ (25), theo P. Pelliot là Vũng Tàu, Bà Rịa ngày nay), nơi mà biên
giới của Cambodia bắt đầu. Từ Chân Bồ, đi theo hướng tây nam, chúng
tôi băng qua biển K’un-lun (biển Côn Sơn) và tới vùng châu thổ của
một con sông (Mekong). Có vài chục cửa sông đổ ra biển, nhưng chỉ
có cửa sông thứ tư là cho phép ta lưu thông dễ dàng, còn tất cả
các cửa sông khác đều có các cồn cát mà các tàu lớn không thể băng
qua được. Trong mọi hướng thì ta chỉ thấy các đợt sóng cao, các
cây bị chết, cát vàng, và các sậy màu lợt; rất khó biết được phương
hướng và ngay các thủy thủ cũng gặp khó khăn để chấm định được đúng
luồng nước.”
“.. Sau khi đi qua
khỏi biên giới ở Chân Bồ (Chen-P'u, Vũng-tàu hay Bà-Rịa), ta thấy
mọi nơi um tùm các cây đan chen nhau trong khu rừng thấp, những
cửa sông rộng lớn của con sông (Mekong) chạy dài hàng trăm lí, bóng
mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây leo quanh dài tạo thành
nhiều chỗ trú ẩn xum xê. Tiếng chim hót và tiếng thú vật kêu vang
liên tục khắp nơi. Ở khoảng nửa đường trong chuyến đi vào từ cửa
sông, thình lình người ta mới thấy vùng đất mở ra với cánh đồng
hoang, không thấy có một gốc cây nào. Khắp nơi trong tầm mắt có
thể nhìn được, không có gì ngoài cỏ kê đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn
trâu rừng tựu họp từng bầy ăn cỏ trong vùng nầy. Đi tiếp theo đó,
là vùng đất cao dần trãi dài hàng trăm lí. Từ các khúc nối của các
cây cây tre nầy có gai mọc và măng tre thì lại có vị rất đắng. Ở
chân trời chung quanh bốn phía có các dãy núi cao.”
Qua mô tả trên của Châu Đạt
Quan vào thế kỷ 13 thì Nam bộ lúc này là vùng rừng rậm nhiều thú,
chim. Cánh đồng hoang bát ngát rộng lớn tận chân trời với hàng ngàn
trâu rừng ăn cỏ. Và dĩ nhiên có nhiều cọp săn mồi, voi rừng và con
người thì thưa thớt. Nói về người thổ dân sống ở Chân Lạp (và Nam
bộ), Châu Đạt Quan cho ta biết (24)(25):
“Có hai loại người thổ dân:
loại đầu là những người hiểu ngôn ngữ của xứ Chân Lạp và họ được
bán làm nô lệ trong các thành phố. Loại hai là những người sống
hoang dã từ chối nền văn minh và không thông hiểu ngôn ngữ xứ sở
Chân Lạp. Họ không có nhà cửa, dẫn gia đình lang thang trong vùng
núi đội các bình thực phẩm bằng đất sét trên đầu của họ. Nếu họ
tìm thấy một con thú hoang, họ sẽ giết nó bằng cung tên hay cây
giáo, nhóm lửa bằng cách đánh các viên đá vào nhau, nấu con thú,
cùng nhau ăn nó, và sau đó tiếp tục đi lang thang. Bản chất của
họ là hung dữ, và các thuốc độc chất của họ rất nguy hiểm. Ngay
cả trong nhóm của họ, họ giết lẫn nhau là thường tình. Trong vùng
gần với văn minh, trong số họ có người chuyên tâm vào trồng cây
bạch đậu khấu, bông vải và dệt vải. Tuy vậy vải của họ trông còn
thô với các kiểu mẫu kỳ lạ đạp mắt.”
Các người hoang dã có thể
được mua để dùng làm nô lệ đầy tớ trong nhà. Các gia đình giàu có
có thể có hơn một trăm đầy tớ, còn những gia đình có phương tiện
khiếm tốn hơn thì hài lòng với số mười hay hai mươi nô lệ; chỉ có
những người nghèo thì không có đầy tớ nào. Những người hoang dã
này bị bắt ở các vùng núi hoang dại và họ thuộc vào một loại chủng
tộc hoàn toàn khác; họ được gọi là “Chuang” (“Chàng” nghĩa là kẻ
trộm cướp theo Lê Hương là tiếng của người Hoa phiên âm lại tiếng
thổ ngữ Chân Lạp (25)). Khi họ được mang đến thành phố, họ không
dám ra khỏi nhà chủ lộ diện trên đường phố. Những người khốn khổ
này rất bị khinh miệt đến nổi, khi trong một cuộc cãi cọ, một người
Chân Lạp bị đối thủ gọi là “Chàng”, thì đó là một sự sỉ nhục nặng
nề gây căm phẩn tận đáy tủy.
Khi còn trẻ và khỏe mạnh,
nô lệ có thể có giá một trăm mảnh vải; khi già và yếu, họ chỉ còn
giá ba hay bốn mươi mảnh vải. Họ chỈ được nằm và ngồi xuống ở dưới
nhà sàn mà thôi. Khi được lên trên nhà để làm việc, nhưng trước
hết họ phải quỳ, cuối xuống đất, hai tay đan lai tỏ vẽ cung kính.
Họ gọi chủ nhân của họ là “pa-t’o (cha) hay mi (mi: mẹ). Nếu họ
phạm lỗi lầm, họ bị đánh. Khi bị trừng phạt đánh, họ cúi đầu xuống
nhận đánh mà không dám làm một cử động nhẹ nhàng nhất.”
Các người đàn ông và đàn
bà nô lệ ăn ở với nhau, nhưng không bao giờ nghe thấy chủ nhân nào
lại ngủ với một nữ nô tì bao giờ. Nếu tình cờ có một người
Trung Hoa, đến cư trú lâu năm tại xứ sở đó, vì thèm khát và do đó
có các quan hệ với một phụ nữ nô lệ và việc này được chủ nhân của
cô ta biết được, thì vị chủ nhân từ đó trở đi sẽ cự tuyệt không
ngồi xuống chung cùng với người Trung Hoa bởi người đó đã tự hạ
mình với một người dã man. Và nếu một người nô lệ mang thai bởi
một người lạ đến trọ ở nhà, thì chủ nhân không cần biết đến ai là
người cha, bởi vì người mẹ không có vị trí gì trong xã hội. Ông
chủ chỉ thấy lợi là đứa bé như một nô lệ khác cho gia đình của ông
ta. Khi một nô lệ chạy trốn và bị bắt lại, mặt của anh ta bị xâm
bằng một dấu màu màu xanh da trời, them nữa một vòng sắt được buộc
quanh cổ anh ta, hay tay và chân anh ta bị xiềng lại.”
Một trong những người nô lệ
mà Chu Đạt Quan tả trên rất có thể là người Mạ. Người Mạ ở miền
Đông Nam bộ và vùng Tây nguyên thường bị các dân tộc khác đánh cướp
và bắt làm nô lệ. Người Chăm, Chân Lạp và ngay cả Stieng thường
tổ chức những trận cướp bóc, đánh vào vùng Tây Nguyên và chung quanh
nơi người Mạ sinh sống để bắt nô lệ.
Trước khi lưu dân người Việt
đến miền Nam, người Mạ sống ở lưu vực sông Đồng Nai và vùng phụ
cận, từ Lâm Đồng, Long Khánh, Bình Thuận, Biên Hòa, Đồng Nai đến
Bà Rịa-Vũng Tàu và Cần Giờ. Vì thế khi đến vùng đất mới, rừng
rậm phía nam Bình Thuận, ở đại phận Bà Rịa và Cần Giờ, lưu dân Việt
cũng đã xử dụng họ như nô tì, đầy tớ như trong Phủ Biên Tạp Lục
của Lê Quí Đôn có ghi (6) là từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Rạp
đi vào toàn là những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng
có thể rộng hơn nghìn dặm, nhà Nguyễn cho dân được tự nhiên chiếm
đất, cho họ thâu nhận những người Mọi từ trên đầu nguồn xuống để
mua làm đầy tớ, đứa ở, sai khiến, hầu hạ.
Ngày nay khu vực Saigon và Nam
bộ là vùng dân cư đông đúc, do khai hoang từ thế kỷ 17, rừng rậm
đã biến mất, các thú như voi, cọp, tê giác, hươu nai lúc trước có
mặt khắp Nam bộ, cá sấu, cá heo sông trên sông Đồng Nai,… đã tuyệt
chủng. Người bản sứ đã biến mất ở đồng bằng, chỉ còn sót lại ở thượng
lưu sông Đồng Nai và Lâm Đồng và rừng cuối cùng ở nam Cát Tiên,
mặc dù là vườn quốc gia, trên thượng lưu sông Đồng Nai còn sót lại
vài con tê giác cuối cùng của Đông Dương cũng bị đe dọa tuyệt chủng.
Tổng
luận
Saigon là giao điểm của vùng
Đông Nam bộ và Tây Nam bộ và cũng là vùng giao thoa của hai chủng
tộc và nền văn minh lớn ở Đông nam Á: Môn-Khmer với nền văn minh
Phù Nam-Chân Lạp-Angkor có nguồn gốc lục địa và Austronesian Chăm
với nền văn minh Champa có nguồn gốc hải đảo hàng hải. Trong hai
chủng tộc và nền văn minh trên thì ảnh hưởng của Môn-Khmer và Angkor
có phần mạnh hơn.
Người tiền sử đã đến vùng đất
Nam bộ và Tây nguyên cách đây khoảng 40000 năm (BP). Tuy không có
di tích hang động cư trú như trong các vùng khác ở Đông Nam Á nhưng
di tích cự thạch Hàng Gòn và các sọ cổ tìm được ở Cần Giờ, ở hạ
lưu sông Cửu Long như An Sơn, Gò Tháp, Óc Eo cho thấy sinh hoạt
thời tiền sử ở vùng Saigon và Nam bộ. Các sọ cũng cho thấy họ rất
gần gủi với loai hình sọ người Thượng (Stieng, Mạ) hiện nay, chứng
tỏ người Stieng và Mạ là hậu duệ của cư dân tiền sử vùng Nam bộ
và địa bàn của họ xưa kia tản rộng từ Đông Nam Bộ đến đồng bằng
sông Cửu Long.
Từ khi lưu dân người Việt bắt
đầu từ thế kỷ 17 ồ ạt di dân xuống vùng Đông và Tây Nam bộ, người
Mạ dần bị biến mất, dân số từ đa số đến thiểu số và mất hẳn bắt
đầu từ đồng bằng ở Bà Rịa, Cần Giờ đến Biên Hòa–Đồng Nai do môi
trường sống của họ chủ yếu là rừng, thú đã bị khai hoang phá hủy
bởi lưu dân từ phương bắc xuống mang dấu ấn văn hóa Việt-Trung.
Hiện nay họ còn lại một số ít
sống ở vùng thượng nguồn sông Đồng Nai và tỉnh Lâm Đồng, nhưng nguy
cơ bị hủy diệt của họ cũng không kém xưa mà họ đã đối diện lúc lưu
dân đến đồng bằng vào thế kỷ 17. Rừng tiếp tục bị tàn phá, dân thiên
cư người Việt tiếp tục lan tỏa đến định cư càng nhiều trên Tây nguyên.
Làng, bản, văn hóa bản sứ càng bị xâm nhập và sức ép ảnh hưởng bên
ngoài càng tăng. Phá rừng, khai hoang, khai thát quặng bauxite,
đô thị hóa nhanh chóng huyện, xã… và vì thế sự tuyệt chủng của người
bản sứ cuối cùng còn sót lại của Nam bộ chỉ là vấn đề thời gian
không lâu.
Tham
khảo
(1)
Louis Malleret, Les fouilles d'Oc-èo (1944).
Rapport préliminaire, Les fouilles d'Oc-èo (1944).
Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, 1951, Vol.
45, No. 45-1, pp. 75-88.
(2)
George Dürrwell , Ma chère Cochinchine, trente années d'impressions
et de souvenirs, février 1881-1910, E. Mignot (Paris), 1911.
(3)
Ludovic-Henry Jammes, Souvenir du pays d’Annam, Challamel
(Paris), 1900.
(4)
Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale,
ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort
de l'auteur par Antoine Cabaton, Societé d’editions, Geographiques,
Maritimes et Coloniales, Paris, 1935
(5)
Henri Parmentier, Vestiges megalithiques à Xuân-Lộc, Bulletin
de l'Ecole française d'Extrême-Orient, 1928, no. 3-4, p. 479-485,
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k934010/f511.tableDesMatieres
(6)
Lê Qúy Đôn, Phủ biên tạp lục, dịch : Ngô Lập Chí, Khoa
Xã Hội
Truờng Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. 1959,
http://www.vietnamvanhien.net/phubientapluc.html
(7)
Bình Nguyên Lộc, Lột trần Việt ngữ,
http://www.binhnguyenloc.de/pages/NghienCuu/LotTranVietNgu/LotTranVietNgu_00.html
(8)
Bình Nguyên Lộc, Việc mãi nô dưới vòm trời Ðông Phố và chủ
đất thật của vùng Ðồng Nai, tập san Sử Ðịa, Sài Gòn, số 19-20, 1970.
(9)
James Khoo, Art and Archeology of Fu Nan, ed. by J. Khoo,
Bangkok 2004.
(10)
Michael Vickery, Funan reviewed: Deconstructing the Ancients,
Bulletin de l' Ecole Francaise d' Extreme Orient, 101–143, 2003,
2004.
(11)
Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 1.
L’Exploration Archéologique et Les Fouilles d’Oc-Èo, Paris, École
Française d'Extrême-Orient, 1959
(12)
Louis Malleret, L'Archéologie du Delta
du Mékong, Part 2.
La Civilisation Matérielle d’Oc-Èo. 2 vols., Paris, École Française
d'Extrême-Orient, 1960.
(13)
Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 3.
La Culture du Fou-Nan. 2 vols, Paris, École Française d'Extrême-Orient,
1963.
(14)
The Virtual museum of Khmer art, The Wintermeier collection,
http://www.funan.de/collection.php?lang=en
(15)
Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Văn hóa Óc Eo, những
khám phá mới, Nxb Khoa học Xã hội, 1995.
(16)
Dougald J. W. O'Reilly, Early civilizations of Southeast
Asia, AltaMira Press, Plymouth, 2007
(17)
Michael Vickery, Deconstructing the ancients, Bulletin de
L’école francaise d’Extrême-Orient, 2003, Volume 90,
Numéro 90-91, pp. 101-143.
(18) Lê Trung Khả, Sài Gòn thời tiền sử, trong “Địa chí văn
hóa thành phố Hồ Chí Minh”, tr. 13-77, Nxb thành phố Hồ Chí Minh,
1987.
(19)
Võ Sĩ Khải, Đất Gia Định thế kỷ 7 đến thế kỷ 16, trong trong
“Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, tr. 81-124, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh, 1987.
(20)
Antoine Cabaton, L’inscription Chame de Bien-Hoa, Bulletin
de L’école francaise d’Extrême-Orient, 1904, Vol. 4, No. 4, pp.687-690.
(21)
G. Coedes, The Indinanized states of South East Asia, East
West Center Press, University of Hawai, Honolulu, 1968.
(22)
Kevin Pope, John Terrel, Environmental setting of human migrations
in the circum-Pacific region, Journal of Biogeography, 2008, 35,
pp.1-21.
(23) Nguyễn Đức Hiệp, Người cổ Đông
Nam Á,
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=5333&LOAIID=17&LOAIREF=5&TGID=869
(24)
Chou Ta-Kuan, The Customs of Cambodia, transl. by John Gilman
d'Arcy Paul, Bangkok: The Siam Society 1993.
(25)
Lê Hương, Chân Lạp phong thổ ký, 1973,
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,7478
Nguyễn Đức Hiệp
|