Le Serment du Jeu de Paume
(1791), tác phẩm của Jacques-Louis David, Bảo tàng viện Carnavalet,
Château de Versailles.
1- Các cải cách của Quốc
Hội.
Ngày 17 tháng 6 năm
1789, giai cấp thứ ba tự nhận mình là Quốc Hội (the
National Assembly) và sau bản "Lời thề tại Sân Đánh
Banh"
(Le Serment du Jeu de Paume),
các đại biểu của giai cấp thứ ba thề rằng sẽ không
giải tán cho đến khi nào viết xong một bản Hiến Pháp
(a constitution). Đây cũng là một hành động "cách
mạng" đòi hỏi chủ quyền quốc gia vào tay một nhóm
người từ trước kia không có thẩm quyền pháp lý.
Sau biến cố phá
Ngục Bastille vào ngày 14/7, Quốc Hội đầu tiên này
đã làm các công việc để thỏa mãn các đòi hỏi của
giới nông dân. Một nhóm nhỏ các đại biểu trong Quốc
Hội đã chọn một buổi họp ban đêm, khi đó nhiều đại
biểu khác đã vắng mặt: đó là đêm hôm mồng 4 tháng 8.
Đêm này đánh dấu sự bắt đầu của tinh thần bình đẳng.
Do sự xếp đặt trước, một số nhà quý tộc cấp tiến đã
đứng lên, tuyên bố từ bỏ đặc quyền săn bắn
(banalité), từ bỏ các quyền lợi tại các tòa án thái
ấp, các đặc quyền phong kiến và lãnh chúa. Tất cả
các hình thức nô lệ cá nhân đều bị tuyên bố bãi bỏ.
Mọi ưu tiên về miễn thuế và các đặc quyền khác bị
chấm dứt. Các nông dân sẽ làm chủ đất đai và sẽ trả
bồi thường cho chủ đất là giới quý tộc và tư sản
giàu có. Như vậy, nhờ có cách mạng, giới nông dân đã
thoát khỏi các bổn phận đối với chủ đất địa phương
và sau đó, họ còn không trả bồi thường cho các chủ
đất khiến cho về sau, vào năm 1793, trong một giai
đoạn cấp tiến của thời kỳ cách mạng, việc đòi trả
bồi thường kể trên đã được nhắc lại.
Quốc Hội đầu tiên
của nước Pháp đã tuyên bố vào đêm hôm mồng 4 tháng 8
rõ ràng rằng "chế độ phong kiến bị bãi bỏ" đồng thời
đặt ra các nguyên tắc dùng cho nền trật tự mới. Ngày
26 tháng 8, Quốc Hội đó lại ra "Bản Tuyên Bố các
Quyền Lợi của Con Người và Công Dân" (the
Declaration of the Rights of Man and Citizen) với
các điểm chính như sau: (1) Mọi người đều được sinh
ra bình đẳng cùng với các quyền lợi bằng nhau. (2)
Mọi công dân có quyền bầu các đại biểu để làm ra
luật pháp. (3) Mọi người được tự do nói, viết, hay
in ra các ý kiến miễn là người đó không lạm dụng đặc
quyền này. (4) Số tiền thuế mà một người phải đóng
sẽ được căn cứ vào số lượng tài sản mà người đó có.
Bản Tuyên Bố năm
1789 này xác nhận các nguyên tắc của một quốc gia
mới, quyền công dân bình đẳng và chủ quyền tập thể
của nhân dân. Điều I của Bản tuyên Bố viết rằng "Con
Người được sinh ra Tự Do và Bình Đẳng về các Quyền
Lợi" (Men are born and remain free and equal in
rights). Các quyền lợi tự nhiên của con người là "tự
do, có tài sản, được an toàn và chống lai mọi áp
bức" (liberty, property, security and resistance to
oppression). Cũng từ lúc này, tự do tư tưởng và tôn
giáo được bảo đảm. Tự do được định nghĩa là có quyền
làm mọi công việc mà không tổn hại đến các người
khác và Luật Pháp phải công bằng với mọi người và là
biểu hiện của nguyện vọng chung, được mọi công dân
hay các đại biểu làm ra.
Tư tưởng Bình Đẳng
của thời kỳ cách mạng ban đầu như vậy đã bị thay thế
bằng chiều hướng Tự Do, một thứ quyền lợi linh
thiêng và không thể bị xâm phạm. Từ nay, không một
ai bị bắt bớ hay trừng phạt ngoại trừ do Luật Pháp,
mọi người có quyền làm các công vụ nếu hội đủ các
điều kiện đòi hỏi. Chỉ có Quốc Gia có chủ quyền tối
thượng và các viên chức chính phủ cùng các lực lượng
quân sự hành động vì Quốc Gia. Quyền lực của chính
phủ phải được phân chia cho các ban ngành và các
công chức phải có hành vi tốt tại các nhiệm sở. Quốc
gia vì các mục đích chung và theo luật pháp, có thể
tịch thu tài sản của một số cá nhân nhưng phải hành
động công bằng và hợp pháp, trong khi thuế vụ có thể
được gia tăng một cách hợp lý.
Bản Tuyên Bố các
quyền lợi của Con Người và Công Dân được coi là một
hiến chương về nền Dân Chủ, đã được in thành hàng
ngàn tờ truyền đơn, tập sách mỏng và sách học, được
đọc lớn tại các nơi công cộng, được đóng khung treo
tường và đã trở nên tập sách "giáo lý" của cuộc Cách
Mạng Pháp. Khi được dịch sang các ngôn ngữ khác, bản
Tuyên Bố này đã lan truyền thứ tự do tư tưởng ra
khắp châu Âu, và sự đề cao cuộc Cách Mạng Pháp do
Thomas Paine đề cập qua cuốn sách "Các Quyền Lợi của
Con Người" (the Rights of Man) xuất bản năm 1791, đã
ảnh hưởng tới các xứ nói tiếng Anh.
Thomas Paine (1737-1809) là người thúc đẩy
cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Vào tháng 1 năm 1776, các
thuộc địa châu Mỹ còn đang chia rẽ về việc tuyên bố
độc lập khỏi nước Anh. Một số người đòi hỏi Quốc Hội
Lục Địa phải hành động chống lại việc tách ra khỏi
mẫu quốc Anh. Hàng ngàn người khác còn do dự. Ngày
10 tháng 1 năm đó, Paine cho phổ biến một tập sách
mỏng có tên là "Lương Tri" (Common Sense). Để đoàn
kết lại các người còn đang bị nao núng tinh thần,
Thomas Paine đã viết rằng: "Nàng Tự Do đang bị săn
tìm ở khắp địa cầu. Châu Á và châu Phi đã trục xuất
Nàng và nước Anh đang bảo Nàng phải ra đi. Ôi, hãy
nhận vào kẻ trốn chạy đó và hãy chuẩn bị đúng lúc sự
tị nạn dành cho nhân loại". Các người thuộc địa châu
Mỹ đã đọc được lời kêu gọi này và chính ông George
Washington đã nói rằng lời đó đã chuyển sự nghi ngờ
thành lòng quyết tâm về nền Độc Lập.
Thomas Paine sinh
ngày 29-1-1737 tại Thetford nước Anh. Mẹ ông theo
đạo Anh Giáo và cha ông là một thợ may làm nịt ngực
phụ nữ, theo đạo Quaker. Gia đình này khá nghèo nên
năm 13 tuổi, Thomas phải làm việc phụ giúp cha rồi
tới năm 19 tuổi, phục vụ trên một con tầu chiến
trong cuộc chiến tranh 7 năm. Sau đó Thomas làm thợ
học nghề tại London rồi người thu thuế môn bài.
Trong các thời gian đổi nghề, Thomas vẫn tự học về
Khoa Học và Cơ Khí rồi tới năm 1772, bị sa thải khỏi
sở thuế vì đã cho phổ biến một bài viết theo đó, nên
tăng lương cho nhân viên để tránh sự tham nhũng
trong lúc phục vụ.
Do gặp
Benjamin
Franklin tại London và được thư giới thiệu của ông
Franklin, Thomas Paine đã xuống tầu qua Bắc Mỹ, tới
Philadelphia làm phó biên tập cho Tạp Chí
Pennsylvania. Trong thời gian này ông đã cho phổ
biến nhiều bài viết và bài thơ, dưới ẩn danh và các
biệt hiệu. Một trong các bài viết đã bài bác chế độ
nô lệ.
Thomas Paine đã
phục vụ Quân Đội Lục Địa (the Continental Army), đã
chịu đựng nhiều thiếu thốn và gian lao cùng quân đội
Mỹ và nhận thấy sự chán nản gia tăng trong binh sĩ,
nên vào ngày 19-12-1776, Paine đã cho phổ biến 16
tập sách mỏng có tên là "Khủng Hoảng" (the Crisis)
trong đó có câu mở đầu: "Đây là thời gian thử thách
tâm hồn của con người" (These are the times that try
men's souls). Ông Washington vì thế đã ra lệnh đọc
các tập sách mỏng này cho mọi người chỉ huy cấp thấp
của quân đội cách mạng Mỹ.
Thomas Paine đựơc
giao cho một chức vụ trong Quốc hội Lục Địa rồi do
tiết lộ một số tin tức bí mật, ông bị bắt buộc từ
chức vào năm 1779, sau đó lại được bổ nhiệm làm thư
ký cho Quốc Hội của miền Pennsylvania. Trong thời
gian này, ông đã dùng một phần tiền nhuận bút để
giúp đỡ các người lính thiếu thốn.
Năm 1787, Paine trở về nước Anh và tại đây, ông cho
xuất bản cuốn sách có tên là "Các Quyền Lợi của Con
Người" (the Rights of Man) vào năm 1791 để ủng hộ
cuộc Cách Mạng Pháp. Cuốn sách này đã làm khuấy động
tại Anh Quốc khiến cho ông bị kết tội phản bội.
Paine bỏ chạy qua nước Pháp và được bầu vào Hội Nghị
Quốc Ước (the National Convention). Chính tại đây
ông đã phản đối việc xét xử Vua Louis 16 rồi vì lập
trường nhân đạo, ông cũng bị nhóm Jacobin bắt giam
trong 10 tháng và tránh khỏi bị chặt đầu khi
Robespierre bị lật đổ. Khi ra khỏi tù, Thomas Paine
đã giúp việc cho ông James Monroe, khi đó làm
Đại Sứ Hoa Kỳ tại Pháp rồi sau này làm Tổng Thống
Hoa Kỳ. Tác phẩm "Thời Đại của Lý Trí" (the Age of
Reason, 1794-96) của Thomas Paine đã chỉ trích các
tổ chức tôn giáo, vì ông chỉ là một người theo thần
giáo (deist), việc này đã khiến ông bị mất đi nhiều
bạn bè. Thomas Paine trở về Hoa Kỳ vào năm 1802 rồi
chết tại thành phố New York trong cảnh yếu đuối và
túng thiếu vào ngày 8-6-1809.
Danh từ "quyền lợi
của Con Người" do Thomas Paine nêu ra đã là các ý
tưởng cách
mạng.
Con người ở đây mang ý nghĩa trừu tượng, không chỉ
rõ một quốc tịch, giòng giống hay giới tính nào.
"Con Người" là danh từ chỉ nhân loại nói chung và
không có ý định áp dụng cho nam giới. Tuy nhiên vào
thời đại đó, người ta mới ở trình độ cho rằng người
nam mới có quyền bỏ phiếu và giữ các chức vụ dân cử,
hưởng các đặc quyền về giáo dục, tài sản, luật gia
đình... Ít người đã tranh cãi sự bình đẳng về pháp
lý giữa hai phái tính. Tuy thế, Olympe de Gouges
là một nữ văn sĩ chuyên viết về kịch trường cũng đã
cho xuất bản một cuốn sách có tên là "Các quyền lợi
của Phụ Nữ" (the Rights of Woman) trong đó bà Gouges
đã áp dụng tất cả 17 điều của "Bản Tuyên Bố" vào
quyền lợi của phụ nữ kể cả nền giáo dục, việc ly dị
trong một số trường hợp, việc kiểm soát tài sản
trong hôn nhân và việc làm các công vụ.
Tại nước Anh cũng có cô Mary Wollstonecraft
cho xuất bản cuốn sách vào năm 1792 có tên là "Bào
chữa cho các quyền lợi của Phụ Nữ" (Vindication of
the Rights of Woman) trong đó cho rằng người phụ nữ
phải có nhiều cơ hội hơn, ít nhất là về phạm vị giáo
dục. Và trong các nhà tư tưởng cấp tiến thời đó chỉ
có Hầu Tước Condorcet vào năm 1790 biện hộ cho sự
bình đẳng về pháp lý giữa hai phái nam và nữ với tác
phẩm "Về sự chấp nhận Phụ Nữ có các Quyền Công Dân"
(On the Admission of Women to the Rights of
Citizenship).
Sau Bản Tuyên Bố về
các Quyền Lợi của Con Người, nhóm lãnh đạo cuộc Cách
Mạng Pháp đã chia rẽ. Một số nhân vật muốn nhà Vua
nước Pháp có quyền phủ quyết mạnh và có hai Viện lập
pháp như tại nước Anh trong khi một số nhà "ái quốc"
lại muốn chỉ có một Viện lập pháp với quyền hành của
nhà Vua tạm thời bị trì hoãn. Các nhà ái quốc đã
nghi ngờ giới quý tộc sẽ trở thành một sức mạnh tập
thể tại viện cao cấp, họ e ngại nhà Vua phối hợp với
các nhà quý tộc trong việc dùng quyền phủ quyết. Vào
lúc này, Vua Louis 16 cũng do dự chấp thuận các
quyết định của Bản Tuyên Bố về các Quyền Lợi của Con
Người trong khi đó, một người em của nhà Vua là bá
tước Artois đã chạy ra khỏi nước, cùng một số nhà
quý tộc khác đang vận động các chính phủ của châu Âu
chống lại cuộc Cách Mạng. Hai nhóm "bảo thủ" và "ái
quốc" vì thế đã không chịu nhượng bộ lẫn nhau.
Ngày 4 tháng 10,
một đám đông phụ nữ và các binh lính cách mạng đã
theo quân cảnh vệ Paris (the Paris national guard)
tiến từ Paris tới Cung Điện Versailles. Họ đã vây
lâu đài, đòi hỏi Vua Louis 16 phải mang gia đình về
Paris để họ canh chừng. Quốc Hội cũng di chuyển về
Paris và chịu ảnh hưởng của các thành phần cấp tiến.
Vì thế đề nghị về chế độ hai Viện với quyền phủ
quyết của nhà Vua đã bị dẹp bỏ. Các người bảo thủ
trong Quốc Hội từ nay trở nên thất vọng trước các
vấn đề tổ chức lập hiến dù cho họ đã ký tên vào bản
"Lời Thề của Sân Đánh Banh". Họ đã trốn dần ra khỏi
nước, tạo nên một sức mạnh phản cách mạng.
Những người còn lại
bắt đầu tổ chức thành các nhóm, quan trọng nhất là
Câu Lạc Bộ Jacobin. Nhóm này vốn là Câu Lạc Bộ
Breton, được thành lập vào năm 1789 với các hội viên
là đại biểu của miền Brittany tại Quốc Hội. Lúc đầu,
lệ phí của câu lạc bộ này khá cao, khiến cho các
người nghèo không thể gia nhập được, nên chỉ gồm một
số nhà quý tộc và nhiều nhà chuyên nghiệp trong số
đó có các luật sư, một vài người cũng là nông dân.
Khi được mở rộng cho nhiều người tham gia, câu lạc
bộ này lại mang tên là "Hội các người Bạn của Hiến
Pháp" (the Society of Friends of the Constitution)
trong số đó có một số nhân vật quá khích, một số bảo
thủ. Họ thường hội họp để thảo luận về các chính
sách và đặt kế hoạch.
Một người trong nhóm cách mạng kể trên là bà Rosalie
Julien, có chồng và con đều là những người tham gia
Cách Mạng, đã viết về những người trong câu lạc bộ
nhân dịp tham dự buổi họp ngày 5-8-1792 như sau: "họ
là tinh hoa của giới tư sản Paris nếu xét về loại áo
mặc ngoài của họ. Cũng có từ 200 tới 300 phụ nữ hiện
diện, ăn mặc như đi dự dạ hội với dáng diệu hãnh
diện và lời nói mạnh mẽ".
Vào tháng 10 năm
1789, sau khi Vua Louis 16 và Quốc Hội đã dọn
về Paris rồi, câu lạc bộ kể trên được đặt tại một tu
viện trên đường St. Jacques, trước kia của các tu sĩ
dòng Dominican và các tu sĩ này có tên là Jacobin.
Câu lạc bộ vì thế đã có tên này và đã có Robespierre
làm thủ lãnh. Do sự quá khích của những người cực
đoan trong câu lạc bộ, nhiều người bảo thủ đã rút
lui và một số khác bị trục xuất khỏi câu lạc bộ
2- Các thay đổi về Hiến Pháp.
Trong 2 năm từ
tháng 10 năm 1789 tới tháng 9 năm 1791, Quốc Hội Lập
Hiến của nước Pháp vẫn tiếp tục vừa cai trị xứ sở,
vừa soạn thảo Hiến Pháp, vừa phá hủy chế độ cũ. Các
nghị viện cũ, các bộ sở cũ, cách tổ chức hành chánh
cũ, các loại thuế khóa cũ và các danh xưng quý tộc
cũ... tất cả đều bị những kẻ cuồng tín muốn xóa
sạch. Quốc Hội Lập Hiến cũng ấn định việc chia nước
Pháp ra thành 83 khu vực hành chánh chính
(departments). Các viên chức mỗi miền, kể cả các
quan tòa và người thu thuế, đều được bầu cử theo địa
phương. Sự phân quyền này rất bất lợi một khi quốc
gia tham chiến.
Theo Hiến Pháp năm
1791, quyền hành quốc gia thuộc về "Quốc Hội một
viện" được gọi là Quốc Hội Lập Pháp (the Legislative
Assembly), nhà Vua chỉ được quyền phủ quyết tạm
thời, ngành hành pháp gồm có Vua và các bộ trưởng có
quyền hạn rất yếu kém vì các nhà cách mạng khi đó đã
không tin tưởng Vua Louis 16.
Tháng 6 năm 1791,
Vua Louis 16 trốn tới Varennes thuộc vùng Lorraine
để dự mưu tham gia cùng các nhà quý tộc di tản và
trông nhờ vào các thế lực ngoại quốc. Nhà Vua cũng
để lại một bản văn phủ nhận cuộc Cách Mạng. Không
may, Vua Louis 16 và gia đình đã bị bắt tại Varennes
và bị đưa trở về Paris để chấp nhận một chế độ quân
chủ lập hiến.
Do trình độ của
người dân nước Pháp vào thời đại đó, với phần lớn
dân chúng còn mù chữ, chưa có được các quan điểm
chính trị hợp lý nên các nguyên tắc của "Bản Tuyên
Bố" đã bị sửa đổi vì các lý do thực dụng. Người dân
bình thường thời đó thuộc loại người hầu, kẻ giúp
việc trong các cửa hàng nên bị coi là những người lệ
thuộc vào chủ nhân. Vì lý do này, Hiến Pháp đã phân
chia các công dân ra làm hai loại: loại "hoạt động"
và loại "thụ động" (active and passive citizens). Cả
hai thứ công dân này đều có cùng các quyền lợi dân
sự nhưng chỉ có các công dân "hoạt động" mới được
quyền đi bầu cử. 100 công dân hoạt động được phép
chọn một cử tri (elector) rồi các cử tri lại hội
họp, chọn ra đại biểu ngồi vào Quốc Hội Lập Pháp hay
làm các viên chức địa phương. Các người nam trên 25
tuổi và đã đóng một loại thuế trực thu nhỏ được coi
là "công dân hoạt động". Vào khoảng năm 1790-91, đã
có 50,000 người được chọn làm cử tri.
Đồng thời với chính
sách bầu cử và ứng cử, các đường lối kinh tế cũng ưu
đẵi giai cấp trung lưu hơn là các tầng lớp thấp kém
khác. Để có tiền, chính quyền cách mạng đã ra lệnh
tịch thu tất cả tài sản của nhà thờ và bán đi vì
không môt mảnh đất nào thuộc loại này được tặng
không, đồng thời chính quyền cũng phát hành một loại
chứng khoán có tên là "assignat". Người có chứng
khoán assignat có thể mua đất do chính quyền bán ra.
Nông dân thời đó, dù cho có tiền cũng khó mua nổi
đất vì nơi bán đấu giá ở xa, và mỗi lô đất rất rộng
lớn. Họ chỉ có thể mua được đất qua những kẻ trung
gian.
Các nhà lãnh đạo
cách mạng cũng ưa thích nền kinh tế tự do cá thể
(free economic individualism) nên các phường thợ đã
bị giải tán vì bị cho là các tổ chức độc quyền của
giới thương nhân hay thợ thủ công. Tư tưởng về tổ
chức kinh tế thời đó tại châu Âu cũng như tại nước
Anh đã bị ảnh hưởng bởi Adam Smith qua cuốn sách
"Tài Sản của các Quốc Gia" (the Wealth of Nations)
xuất bản năm 1776. Đây là một tác phẩm đơn độc gây
ảnh hưởng lớn lao nhất về cách phát triển kinh tế.
Với cách trình bày trong sáng, Adam Smith đã mô tả
một nền kinh tế thị trường (a market economy) hoạt
động ra sao, sự phân phối lao động trong sản xuất,
sự khác nhau giữa lao động sản xuất và lao động
không sản xuất, bản chất của tài sản liên hệ tới
tiền bạc, sự bất lực của chính quyền trong việc điều
hành các nền kinh tế...
Adam Smith
(1723-1790) có lẽ sinh vào khoảng đầu năm 1723 tại
Kirkcaldy, xứ Tô Cách Lan do căn cứ vào lễ rửa tội
ngày 5 tháng 6 năm đó. Năm 1737, Smith theo học Đại
Học Glasgow về môn Triết Học Luân Lý (moral
philosophy). Sau đó 3 năm, ông đổi về trường Balliol
College tại Oxford và cư ngụ tại nơi này cho tới năm
1746. Năm 1748, Adam Smith bắt đầu diễn thuyết về
kinh tế với các đề tài chẳng hạn như tài sản và sự
gia tăng. Năm 1751, ông Smith được cử làm Giáo Sư
Luận Lý (Professor of Logic) tại Glasgow rồi trở nên
Giáo Sư Triết Học Luận Lý vào năm sau. Ông đã giảng
dạy nhiều môn học như Luật Học, Tu Từ Pháp
(rhetoric), Đạo Đức (ethics) và Chính Trị Kinh Tế
Học (political economy). Cuốn sách đầu tiên của ông
có tên là "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (the
Theory of Moral Sentiments) xuất bản năm 1759 rồi
sau đó, ông chuyên tâm hơn về Kinh Tế Học và Luật
Học.
Năm 1763, Adam
Smith trở nên phụ giáo cho Quận Công Buccleuch và
cùng ông này qua châu Âu trong 2 năm. Chính vào thời
gian này ông đã gặp các nhà lý thuyết về chính trị
và kinh tế nổi danh như Francois Quesney, Jacques
Turgot, Jean le Rond d'Alembert... Khi trở về
London, Adam Smith đã bỏ ra gần 10 năm để viết cuốn
"Tài Sản của các Quốc Gia". Năm 1778, ông Smith được
bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế vụ và cư ngụ tại
Edinburg. Ông sống tại nơi này cho đến khi qua đời
vào ngày 17-7-1790.
Adam Smith đã chủ
trương rằng mọi giá cả và lương bổng phải được xác
định do cách dàn xếp tự do giữa các cá nhân liên hệ,
tức là không có sự kiểm soát. Vào thời đó, giới thợ
thuyền gồm các loại: thợ mộc, thợ nề, thợ làm giấy,
thợ khóa, thợ làm kính, thợ thuộc da..., họ đã tổ
chức thành các nghiệp đoàn lao động gọi là
"compagnonnages" để mặc cả lương bổng và các đền bù
với giới chủ nhân. Năm 1791, Quốc Hội Pháp thời cách
mạng đó đã ra lệnh ngăn cấm các nghiệp đoàn lao động
hay "compagnonnages" bằng bộ luật Le Chapelier và bộ
luật này là một phần của bộ môn Luật Học của nước
Pháp trong 3/4 thế kỷ.
Quốc Hội Lập Hiến
của nước Pháp thời đó trong việc cải cách, đã va
chạm với nhà thờ Catholic. Việc tịch thu tài sản
khiến cho các tu viện, các trường học, các đất đai
của Nhà Thờ đều thuộc về "quốc gia" (nation). Vào
thời đó chưa có ý niệm phân cách giữa Nhà Thờ và
Quốc Gia (separation of church and state) nên các
nhà cách mạng Pháp thuở ban đầu đã coi Nhà Thờ là
một loại công quyền (public authority), cộng tác với
vương quyền (sovereign power).
Việc tịch thu các
cơ sở của Nhà Thờ đã ảnh hưởng đến sự giáo dục của
hàng ngàn trẻ em và các cơ sở từ thiện cũng như nơi
thờ phượng cùng việc tổ chức hàng giáo phẩm. Các
giáo sĩ từ nay không được theo lệnh của Giáo Hoàng
và không được phép hoạt động nếu không có phép của
chính quyền mới. Mọi giáo sĩ được hưởng lương bổng
của quốc gia và một chương trình tổ chức giáo phẩm
được hoạch định trong bản "Hiến Pháp Dân Sự của giới
Tu Sĩ" (the Civil Constitution of the Clergy) năm
1790.
Giáo Hoàng khi đó
đã lên án cuộc Cách Mạng Pháp khiến cho Quốc Hội
Pháp đã bắt các giáo sĩ phải thề trung thành với
Hiến Pháp, kể cả Hiến Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ.
Một nửa số giáo sĩ đã tuyên thệ, họ tự coi là những
người ái quốc, bảo vệ các quyền lợi của Con Người và
được tự do khỏi Giáo Hội La Mã, nửa kia không theo,
họ đã nhận tài trợ từ các nước ngoài, theo đường lối
của Giáo Hoàng và trở nên phe chống đối Cách Mạng,
trong số này có cả Vua Louis 16 vì nhà Vua tin rằng
nếu không sẽ bị mất đi thứ linh hồn vĩnh cửu.
3- Ảnh hưởng của cuộc Cách Mạng Pháp tại châu
Âu.
Cuộc Cách Mạng
Pháp, cũng như cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ trước kia, đã
gây ra ảnh hưởng tới các xứ khác của châu Âu, đã trở
nên một thứ triết học phổ biến, tuyên bố về các
quyền lợi của con người bất kể chủng tộc, quốc gia
và thời gian. Tại Ba Lan, những người muốn tổ chức
lại đất nước, đã hoan nghênh kiểu mẫu này còn tại
nước Anh, số nghị viên kiểm soát Quốc Hội cũng muốn
bắt chước các đường lối thay đổi của nước Pháp gồm
các nhân vật cấp tiến như Thomas Paine, Dr. Richard
Price và những người không có đại diện tại Hạ Viện
(the House of Commons). Qua xứ Hungari, các địa chủ
tìm cách chống lại Vua Joseph II trong khi đó tại xứ
Ái Nhĩ Lan, người dân cũng xao động. Đã có các cuộc
đình công tại Hamburg nước Đức và nông dân Đức nổi
loạn tại nhiều nơi. Tại nước Bỉ, người dân nổi dậy
chống Vua nước Áo...
Nếu có những người
ủng hộ đường lối cách mạng thì cũng có nhiều người
khác chống lại phong trào đó. Edmund Burke do e ngại
khuynh hướng cấp tiến của nước Anh hướng về cuộc
Cách Mạng Pháp, nên đã cho phổ biến một tác phẩm có
tên là "Suy Nghĩ về cuộc Cách Mạng tại Pháp"
(Reflections on the Revolution in France) trong đó
tác giả tiên đoán rằng nước Pháp sẽ gặp cảnh vô
chính phủ và nền độc tài. Ông Burke cũng phủ nhận
nền triết lý chủ trương rằng căn bản chính trị của
người dân phải dựa vào các hoàn cảnh kinh tế, lịch
sử và đặc tính quốc gia. Ông Burke cũng chống lại sự
bạo động, sự man rợ và bạo lực của cuộc Cách Mạng
Pháp. Cuốn "Suy Nghĩ " này đã được phiên dịch ra
nhiều thứ tiếng và được nhiều người tìm đọc.
Tại nước Nga, Nữ
Hoàng Catherine đã cấm đoán các tác phẩm của
Voltaire, nhà văn cấp tiến người Pháp, và đưa đi đầy
tại Siberia nhà văn người Nga Radischev, tác giả
cuốn "Du lịch từ thành phố Petersburg tới thành phố
Moscow" (Voyage from St. Petersburg to Moscow) trong
đó tác giả người Nga đã tố cáo các tội ác của chế độ
nông nô. Tại Thụy Điển, Vua Gustavus III nhận đứng
ra lãnh đạo cuộc thánh chiến chống lại phong trào
cách mạng. Những đường hướng chống đối Cách Mạng
Pháp lại càng lên cao khi có những nhà quý tộc Pháp
bỏ chạy ra khỏi xứ, cầm đầu là Bá Tước Artois, một
người em của Vua Louis 16. Các lời cầu cứu của nhà
Vua Pháp và bà hoàng hậu Marie Antoinnette đã làm
xao động các nhà quý tộc tị nạn tại khắp châu Âu.
Châu Âu vào thời kỳ
này bị chia làm hai phe: một phe có cảm tình với
cuộc Cách Mạng Pháp còn phe kia trung thành với chế
độ cũ, và tại bên ngoài nước Pháp, các chính phủ bảo
hoàng e ngại các thành phần cách mạng và thân Pháp
trong xứ. Kể từ cuộc Cải Cách Tôn Giáo Tin Lành (the
Protestant Reformation), chưa bao giờ có sự chia rẽ
rõ ràng đến như thế. Vào lúc này, nước Nga và nước
Phổ (Prussia) đưa quân xâm lăng xứ Ba Lan và xóa đi
Hiến Pháp năm 1791 của xứ sở này, tuy nhiên Nữ Hoàng
Nga chỉ muốn can hiệp vào các nước láng giềng của
nước Nga mà không muốn vươn tới nước Pháp tại phía
tây của châu Âu.
Tại nước Anh, Thủ
Tướng thời đó là ông William Pitt đang bận tâm về
các chương trình cải cách với chính sách tập trung
vào tài chính và kinh tế theo hệ thống. Nếu xẩy ra
cuộc chiến tranh với nước Pháp thì các chương trình
dài hạn của ông Pitt sẽ bị tác hại, vì thế ông Pitt
chủ trương các vấn đề nội bộ của nước Pháp không
liên quan gì tới chính phủ của nước Anh. Bận tâm về
nước Pháp thời đó chỉ có Hoàng Đế Leopold II của
nước Áo, người anh của hoàng hậu Marie Antoinnette.
Các nhà cách mạng
Pháp thời đó lại theo các chính sách một chiều. Họ
tự ý sát nhập miền Avignon vào nước Pháp theo lời
yêu cầu của một số nhà cách mạng địa phương, bất
chấp chủ quyền trước kia của miền này thuộc về Giáo
Hoàng. Tại miền Alsace giữa nước Pháp và nước Đức,
Quốc Hội Lập Hiến tuyên bố hủy bỏ chế độ phong kiến
và cách nạp tô thái ấp, sát nhập miền này vào nước
Pháp mà không kể gì tới Hiệp Ước Hòa Bình Wesphalia
ký năm 1648 (the Peace of Wesphalia). Trong nước
Pháp, nhóm của các người cấp tiến được gọi là đảng
Girondin. Những đảng viên này tuyên bố rằng cuộc
Cách Mạng của nước Pháp chỉ ổn định một khi làn sóng
cách mạng lan tràn ra khắp thế giới. Họ trông chờ
các cuộc nổi dậy tại các xứ Hòa Lan, Áo, Thụy Sĩ, Ba
Lan... và khi cao trào cách mạng thế giới nổ ra,
quân đội Pháp sẽ giúp đỡ các người dân các nước với
mầm mống cách mạng sẵn có, lật đổ các chính quyền đã
được thiết lập, để tạo nên một liên bang các nước
cộng hòa.
Tháng 6 năm 1791, Vua Louis 16 và gia đình bị bắt
tại Varennes, trước khi tới được biên thùy
Luxembourg. Nhà vua và hoàng hậu từ nay rõ ràng trở
nên tù nhân tại Điện Tuileries của các nhà cách
mạng. Kết quả của sự bỏ trốn bất thành của nhà vua
đã khiến cho mưu sự về một chế độ quân chủ lập hiến
trở nên yếu kém hẳn đi. Tháng 8 năm đó, Vua Leopold
II của Đế Quốc Habsburg nước Áo, đã gặp Vua nước Phổ tại Pillnitz thuộc miền
Saxony và kết quả là Bản Tuyên Bố Pillnitz (the
Declaration of Pillnitz) ra đời, theo đó Vua Leopold
sẽ dùng võ lực để vãn hồi trật tự tại nước Pháp nếu
có các xứ khác tham gia. Việc công bố này đã làm các
nhà quý tộc Pháp lên tinh thần, họ đe dọa sẽ dùng
các đội quân nước ngoài trở về đất Pháp để trừng trị
các kẻ có tội.
Bản Tuyên bố
Pillnitz đã không làm cho các nhà cách mạng Pháp lo
sợ mà trái lại, càng làm lợi cho đảng Jacobin. Nhóm
nhà cách mạng của thời kỳ này gồm những người như
nhà triết học Condorcet, vợ chồng ông bà Roland,
luật sư về nhân quyền Brissot... cùng các nhân vật
ngoại quốc như Thomas Paine người Anh, Anacharsis
Cloots người Đức, James Watt người Anh và là con
trai của nhà phát minh ra máy hơi nước... Chính vào
lúc này, Hoàng Đế Leopold II qua đời, nối ngôi là
Vua Francis II, một người rất muốn phục hồi chế độ
quý tộc cũ. Vua Francis II đã nối tiếp các thảo luận
với nước Phổ, điều này khiến cho tinh thần chiến
tranh tại nước Pháp càng thêm sôi sục. Ngày 20 tháng
4 năm 1792, Quốc Hội Pháp trong đó phe chống đối
không đáng kể, đã tuyên chiến với nền quân chủ của
nước Áo, tức là với Vua của xứ Hungari và Bohemia.
4- Cuộc Cách Mạng thứ hai:
10 tháng 8 -1792.
Giai đoạn chuẩn bị
chiến tranh càng làm cho các giai cấp không có tài
sản bất mãn và náo loạn. Giới nông dân thời đó cho
rằng Quốc Hội đã không xúc tiến việc cải cách ruộng
đất, giới công nhân thành thị ngao ngán trước cảnh
vật giá gia tăng. Vàng đã từ từ ra khỏi xứ do các
nhà quý tộc di tản mang theo, loại tiền giấy dùng
trong nước (assignats) mất dần giá trị vì tương lai
của chính phủ càng trở nên bất chắc. Nông dân đã dấu
đi các nông phẩm, không chịu bán ra để lấy vào loại
tiền mất giá. Vật giá càng lên cao, chiến tranh cùng
với sự đe dọa trở về và trả thù của các nhà quý tộc
lưu vong càng làm cho các giới tư sản, nông dân và
công nhân lo sợ, họ đã sát cánh với phe nhóm cách
mạng.
Mùa hè năm 1792,
hai lực lượng quân sự Áo và Phổ đang ở ngưỡng cửa
của nước Pháp. Họ cho dân chúng Pháp biết qua bản
"Tuyên Ngôn Brunswick" (the Brunswick Manifesto)
ngày 25-7 rằng các xâm phạm tới Vua Louis 16 và
hoàng hậu sẽ mang lại hậu quả tai hại cho cư dân
Pháp một khi họ tiến vào thành phố Paris. Lời đe dọa
này càng làm sôi sục các người chủ trương bạo động.
Tinh thần ái quốc cuồng tín đã được thúc động bởi
các nhà lãnh đạo tư sản Jacobin như Danton, Marat,
Robespierre, Saint Just, Couthon...
Mùa hè năm 1792,
nhiều người dân đầu quân đổ dồn về thành phố Paris
rồi các toán binh lính hăng hái lên đường ra biên
giới. Tại thành phố Marseille, Rouget de Lisle đã
sáng tác ra bản nhạc "La Marseillaise", kêu gọi toàn
dân đứng lên chống lại bạo quyền.
Ngày 10 tháng 8 năm 1792, nhiều nhóm rất
đông dân lao động của thành phố Paris, được sự trợ
giúp của các binh lính mới tuyển từ vùng Marseilles
và các vùng khác, đã tiến tới Điện Tuileries. Bạo
động đã xẩy ra làm thiệt mạng 600 quân sĩ canh phòng
người Thụy Sĩ và 400 thường dân. Vua Louis 16 và gia
đình phải bỏ trốn vào khu nhà Quốc Hội rồi về sau bị
chuyển về nhà ngục Temple cai quản do chính quyền
cách mạng mới của thành phố Paris vừa được thiết lập
nên. Chính quyền mới này tự gọi là
Công Xã Paris (Commune).
Thành phố Paris tràn ngập cảnh cuồng loạn, vô chính
phủ và khủng bố. Một số người nổi loạn tuyên bố rằng
họ sẽ chiến đấu chống kẻ ngoại xâm ở biên thùy sau
khi đã thanh toán các kẻ thù ngay tại thành phố
Paris. Các tu sĩ Catholic bất hợp tác và các kẻ
chống lại cách mạng, tất cả vào khoảng 1,100 người,
đã bị lôi ra từ các nhà giam, bị xét xử sơ qua và bị
tàn sát. Biến cố này được gọi là "các cuộc tàn sát
tháng 9" (the September massacres).
Vào
lúc này, nước Pháp ở trong tình trạng vô chính phủ.
Sự tự do báo chí và hội họp chính trị đã cho phép ra
đời nhiều tờ báo và hội đoàn chính trị. Các người
quân chủ lập hiến tham gia vào Hội Feuillant (the
Feuillant Club) do Hầu Tước De Lafayette đứng đầu,
trong khi các người cấp tiến tích cực hoạt động
trong đảng Jacobin, một tổ chức đã gây được nhiều
ảnh hưởng. Về giới phụ nữ, một số tham gia vào đảng
Jacobin, một số khác ôn hòa hơn, là hội viên của
"Hội Bạn của Chân Lý" (the Friend of Truth). Tại các
tỉnh cũng có hàng trăm hội chính trị hoạt động.
Hầu
tước De Lafayette là nhân vật lãnh đạo của Hội
Feuillant, là một trong các vị anh hùng của cuộc
Cách Mạng Bắc Mỹ với địa vị chỉ đứng sau ông George
Washington. Ông Lafayette có tên thật là Marie
Joseph Paul Yves Roch Gilbert du Motier, thuộc một
trong các gia đình quý phái cổ kính của nước Pháp.
Cha của ông bị chết trong trận Minden vào năm 1759
nên ông được thừa hưởng từ người cha danh hiệu Hầu
Tước (marquis) và một lâu đài, và từ người mẹ một
tài sản to lớn. Khi lên 16 tuổi, ông De Lafayette
kết hôn với một thiếu nữ thuộc một trong các gia
đình danh giá nhất của nước Pháp.
Năm
1776 khi được 19 tuổi và trở nên Đại Úy trong quân
đội Pháp, ông De Lafayette nghe được tin loan báo
rằng các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập khỏi
tầm tay người Anh, ông đã ghi lại rằng: "khi mới
nghe tin tức này, lòng tôi rất rộn ràng". Rồi bất
tuân lệnh Vua của nước Pháp và của người cha vợ, ông
đã bỏ tiền túi ra mua tầu biển cùng các phương tiện
khác để rồi vào năm 1777, ông De Lafayette qua Bắc
Mỹ, phục vụ cho xứ sở này mà không nhận lương bổng.
Quốc Hội Bắc Mỹ đã phong cho ông cấp bậc Thiếu Tướng
(major general) và ông George Washington đã trở nên
vừa là một người bạn, vừa là một người cha đỡ đầu
cho Hầu Tước De Lafayette.
Hầu
Tước De Lafayette là một sĩ quan tài giỏi, một cố
vấn khôn ngoan. Ông đã bị thương nhẹ trong trận đánh
tại giòng sông Brandywine vào tháng 9 năm 1777.
Ông cũng dự nhiều chiến trận tại Monmouth
Court House, tại Rhode Island. Công trạng đáng kể
nhất của ông là lời khuyên chính quyền Pháp ký thỏa
ước đồng minh với các thuộc địa Bắc Mỹ vào năm 1778
vì nếu không có thỏa ước này, xứ Hoa Kỳ chưa chắc đã
giành được Độc Lập. Năm 1779, Tướng De Lafayette trở
lại Pháp rồi quay về Bắc Mỹ, dự chiến dịch Virginia
và cuộc đầu hàng của Tướng Cornwallis vào năm 1781
tại Yorktown.
Do lòng ham chuộng
Tự Do, Hầu Tước De Lafayette đã tham gia cùng với
các nhà quý tộc vào cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789,
được bầu làm đại biểu của Hội Nghị các Giai Cấp và
là một thành viên soạn ra "Bản Tuyên Bố về các Quyền
Lợi của Con Người và Công Dân" (the Declaration of
the Rights), dập theo khuôn mẫu là "Bản Tuyên Ngôn
Độc Lập" của Hoa Kỳ.
Sau khi Ngục
Bastille bị phá vỡ và cuộc Cách Mạng Pháp khởi đầu
vào ngày 14-7-1789, Hầu Tước De Lafayette được cử
làm Tổng Tư Lệnh các lực lượng cảnh vệ mới, có mục
đích bảo vệ Cách Mạng. Hầu Tước De Lafayette cũng là
người cứu hoàng hậu Marie Antoinnette khi đám đông
dân chúng xông vào Cung Điện Versailles năm 1789 và
cũng là người ra lệnh bắt giữ gia đình Vua Louis 16
khi vị vua này tìm cách trốn khỏi nước Pháp. Qua
nhiều biến cố chính trị xẩy ra thời đó, Hầu Tước De
Lafayette đã chán nản trước các hành động thái quá
của cuộc Cách Mạng rồi do là chỉ huy trưởng của các
lực lượng quân sự Pháp chống lại quân đội Áo, ông đã
dự mưu lật đổ nhóm Jacobin để thiết lập nên một nền
quân chủ lập hiến giới hạn. Nhưng chế độ quân chủ đã
bị tuyên bố chấm dứt kể từ ngày 22-9 và kết quả là
Hầu Tước De Lafayette bị coi như một kẻ phản bội.
Ông đã trốn khỏi bị bắt và không bị đưa lên máy
chém, qua đất Bỉ rồi bị quân đội Áo tại đó cầm tù
trong 5 năm, từ 1792 tới 1797, sau được thả ra nhờ
Napoléon can thiệp.
Hầu Tước De
Lafayette đã không cộng tác với chính quyền Napoléon
cho tới khi đế chế này bị lật đổ, thay thế bằng nền
quân chủ Bourbon. Năm 1830, Hầu Tước De Lafayette đã
tham dự vào cuộc Cách Mạng thứ ba, lãnh đạo Quân Đội
Cảnh Vệ Quốc Gia (the Army of National Guards) để
đưa lên ngai vàng Vua Louis Philippe.
Hầu Tước De
Lafayette qua đời năm 1834, để lại danh tiếng vừa là
một chính khách lỗi lạc, vừa là một vị tướng lãnh có
tài, suốt đời yêu chuộng Tự Do và đã đóng góp vào 3
cuộc Cách Mạng quan trọng của Nhân Loại.
Khác với Hội
Feuillant do ông De Lafayette lãnh đạo với đường lối
quân chủ lập hiến, đảng Jacobin có khuynh hướng cực
đoan, vào năm 1792 đã cho phân phát thực phẩm và
tiền bạc cho dân chúng và tổ chức các cuộc tranh
luận công khai, nhờ thế đã thu hút được đông đảo các
đảng viên. Trên toàn đất Pháp, mạng lưới đảng
Jacobin đã hoạt động với 2,000 đảng viên, phần lớn
thuộc giai cấp trung lưu khá giả, có lý tưởng về
công bằng và cải tiến xã hội hơn là đấu tranh giai
cấp vì họ thuộc giới trí thức hiểu rõ về tư tưởng
của J. J. Rousseau, về nguyện vọng chung của tập
thể.
Khác với những
người cực đoan Jacobin, còn có đảng Girondin do các
nhà lãnh đạo xuất phát từ tỉnh Gironde ở gần thành
phố Bordeaux. Đây là những người nông nổi, hơi lý
tưởng. Họ đòi hỏi phải có cuộc chiến tranh nổi dậy
tại các vùng còn bị cai trị độc tài tại các miền
biên thùy của nước Pháp và xa hơn nữa, và họ trông
đợi sự hưởng ứng của dân chúng địa phương tại các
vùng đó khi các đoàn quân giải phóng của nước Pháp
tiến đến. Họ cũng muốn áp dụng nghiêm ngặt bản Hiến
Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ và cách trừng trị các nhà
quý tộc đã bỏ chạy qua xứ khác. Không giống như đảng
Jacobin, các đảng viên Girondin thuộc các tỉnh, bao
gồm các người có nghề chuyên môn cấp thấp như thợ
thủ công, người bán hàng hay các nông dân khá giả.
Các đảng viên Girondin muốn quyền lực trung ương
phải được chia xẻ bớt về các tỉnh, giảm bớt sự can
thiệp của chính phủ vào nền kinh tế của cả nước nhờ
đó tài sản của Quốc Gia không tập trung vào thành
phố Paris.
Đồng thời với các
vụ tàn sát xẩy ra tại Paris, cuộc bầu cử của các nhà
cách mạng đã được triệu tập nhưng số người tham dự
để bỏ phiếu chỉ chiếm một phần mười. Phe nhóm Paris
do đảng Jacobin dẫn đầu với Danton làm thủ lãnh, còn
phe các đại biểu của các tỉnh thuộc về đảng Girondin
có uy tín đang lên nhờ việc thắng trận của đội quân
cách mạng tại Valmy vào ngày 20 tháng 9.
Ngày 21 tháng 9 năm
1792, một Quốc Hội mới được thành lập, lấy tên là
Hội Nghị Quốc Ước (National Convention), theo khuôn
mẫu của Hội Nghị Hiến Pháp Hoa Kỳ (the American
Constitutional Convention). Kể từ ngày 22-9-1792,
nước Pháp trở nên một nước Cộng Hòa và chế độ quân
chủ lập hiến đã chỉ tồn tại được một năm.
Kể từ thời Cộng Hòa
1792 này, đã có nhiều thay đổi xã hội. Vào thời kỳ
Cách Mạng 1789, các người thuộc giới quý tộc được
gọi bằng "ông" (monsieur) hay "bà" (madame), chẳng
hạn như "ông Baptiste" hay "bà Catherine", còn dân
thường chỉ được gọi bằng tên trơn. Tới thời kỳ Cách
Mạng, người ta thường đề cập tới khẩu hiệu "Tự Do,
Bình Đẳng và Huynh Đệ" (liberty, equality and
fraternity). Bình đẳng có nghĩa là dẹp bỏ sự cách
biệt giữa các giai cấp trong xã hội, mọi người được
coi như ngang hàng với nhau và vì thế, ông Baptiste
được gọi là "công dân Baptiste" (citoyen Baptiste)
cũng như bà Catherine được gọi là "nữ công dân
Catherine" (citoyenne Catherine). Để làm tăng thêm
tình huynh đệ (fraternity), mọi người dân được
khuyến khích dùng từ " tu = anh, chị" thay vì từ
"vous = ông, bà". Tại các thành phố và thị xã, đường
xá và đại lộ với tên các vua chúa được thay bằng tên
của các vị anh hùng, của các lý tưởng như Tự Do, Độc
Lập... Nhiều người có tên Louis đã đổi sang dùng các
tên khác.
Ngày 22 tháng 9 năm
1792 là ngày tuyên bố mở đầu nước Cộng Hòa Pháp nên
Hội nghị Quốc Ước chấp nhận năm thứ nhất của nước
Cộng Hòa bắt đầu từ 1792 tới 1793, năm thứ hai Cộng
Hòa từ 1793 tới 1794... Một năm được chia ra làm 12
tháng, mỗi tháng có 3 kỳ, mỗi kỳ 10 ngày, ngày cuối
cùng của mỗi kỳ là ngày nghỉ. Như vậy vào cuối năm
còn lại 5 ngày hay 6 ngày nếu là năm nhuận, những
ngày dư này là các ngày nghỉ lễ và được gọi là
"sans-culottides" (ngày của hạng người bình dân).
Các ngày và tháng được mang các tên mới. Các ngày
được gọi bằng tên của các loại trái cây, rau cỏ, hoa
tươi, gia vị, cá, chim và các con vật, chẳng hạn như
ngày hoa Tulip, ngày cá chép, ngày con gà, ngày bò
cái... Các tháng được kể như sau:
Mùa Thu: Vendemaire
= tháng hái nho, Brumaire = tháng sương mù, Frimaire
= tháng sương giá,
Mùa
Đông: Nivôse = tháng tuyết, Pluviôse = tháng mưa,
Ventôse = tháng gió,
Mùa
Xuân: Germinal = tháng mầm lá, Floreal = tháng hoa,
Prairial = tháng cánh đồng,
Mùa
Hạ: Messidor = tháng gặt hái, Thermidor = tháng
nhiệt, Fructidor = tháng trái cây.
Loại
lịch cách mạng này đã được dùng cho tới khi Hoàng Đế
Napoléon ra lệnh hủy bỏ vào năm 1806.
Tại Hội Nghị Quốc
Ước, các đảng viên Girondin là các nhà xã hội bảo
thủ ngồi tại bên phải của phòng họp, họ nhận được sự
ủng hộ của các đại biểu độc lập ngồi tại phần giữa
và trên nền của căn phòng, còn ngồi tại bên trái và
phía cao (the Mountain) là các đảng viên Jacobin.
Các thủ lãnh của
đảng Jacobin phần lớn sinh trưởng tại các tỉnh lẻ
nhưng lại là các đại biểu của thành phố Paris, họ
được sự ủng hộ của các phần tử cấp tiến và bình dân.
Những người này mặc loại quần dài của giai cấp thợ
thuyền, không có loại dây thung buộc hai ống quần
nên được gọi là những người "sans-culotte", tức là
không thuộc giai cấp trung lưu hay thượng lưu. Giai
cấp thợ thuyền thời đó gồm loại chủ tiệm và các
người giúp việc, các thợ thủ công có tay nghề, các
chủ nhân nhà máy hay xưởng máy nhỏ và các công nhân
của thời kỳ tiền kỹ nghệ. Trong thời gian hai năm,
họ đòi hỏi sự bình đẳng, và các hoạt động cùng
khuynh hướng quân sự của họ đã thúc đẩy trào lưu
cách mạng tiến về phía trước.
Đảng Jacobin tuy
được sự ủng hộ của giới phụ nữ bình dân Paris là
những người thường xuyên xao động trước giá cả gia
tăng và sự thiếu hụt thực phẩm, nhưng các nhà lãnh
đạo đảng như Robespierre lại không hoan nghênh các
hoạt động chính trị của phụ nữ, họ nghi ngờ sự đại
diện của phụ nữ tại Quốc Hội, một phần có lẽ do họ
đã theo quan niệm của J. J. Rousseau chủ trương rằng
người phụ nữ phải phục tùng nam giới.
Các đảng viên
Girondin chủ trương nên tăng cường các chính quyền
địa phương hay một loại phân quyền liên bang
(federal decentralization) trong khi đó họ lại cho
rằng nên thúc đẩy chiến tranh sang các nước ngoài,
một việc làm đòi hỏi loại kiểm soát từ trung ương.
Lúc đầu, việc chống các lực lượng ngoại xâm của quân
dân Paris đã có kết quả. Tướng Dumouriez đã chỉ huy
binh lính cách mạng, đánh thắng quân Phổ tại Valmy
vào tháng 9, đè bẹp đội quân Áo tại Jemappes nước Bỉ
vào tháng 11. Binh lính Pháp cũng chiếm đóng miền
Savoy thuộc quyền của Vua xứ Sardinia, lúc bấy giờ
tham gia với Vua nước Áo, họ cũng kiểm soát miền
Mainz và các thành phố bên bờ phía trái của giòng
sông Rhine, nước Đức.
Việc chiến thắng
của binh lính cách mạng Pháp đã khiến cho Hội Nghị
Quốc Ước ban ra một đạo luật hứa hẹn giúp đỡ "mọi
dân tộc muốn thu hồi Tự Do". Các vị tướng chỉ huy
Pháp cũng được lệnh giải tán chính quyền của các
vùng chiếm đóng, tịch thu tài sản của chính phủ cũ
và nhà thờ, hủy bỏ việc nạp tô, các loại thuế và các
quyền săn bắn đồng thời thiết lập nên các nền hành
chính quản trị mới.
Hội Nghị Quốc Ước
cũng mang Vua Louis 16 ra xét xử vào tháng 12 năm
1792 về tội âm mưu với các nước ngoài để xâm lăng
nước Pháp. Ngày 15-1-1793, các đại biểu của Hội Nghị
Quốc Ước đều biểu quyết Vua Louis 16 có tội, rồi vào
ngày hôm sau, trong số 721 đại biểu, 361 người đã bỏ
phiếu phải xử tử ngay nhà Vua. Vua Louis 16 với tên
là công dân Louis Capet, đã chết trên máy chém
guillotine vào ngày 21-1-1793 tại Quảng Trường La
Concorde.
Việc hành quyết Vua
Louis 16 đã gây chấn động khắp châu Âu cùng lúc với
việc chiến thắng của binh lính Pháp tại đất Bỉ. Nước
Anh và Hòa Lan bắt đầu phản ứng bằng cách liên lạc
với hai nước Phổ và Áo. Thủ Tướng Anh William Pitt
tuyên bố rằng nước Anh không thể làm ngơ trước việc
quân đội Pháp chiếm đóng nước Bỉ. Nước Pháp liền
tuyên chiến với các nước của châu Âu vào ngày
1-2-1793 vì vào thời đó, hai nước Anh và Hòa Lan
không có các lực lượng quân sự trên bộ còn hai nước
Phổ và Áo lại đố kỵ nhau và đang bận tâm về xứ Ba
Lan, và không nước nào muốn đưa ra khối quân lực để
đối đầu với nước Pháp.
5- Thời kỳ khủng bố 1793-94.
Vào tháng 4 năm
1793, ông Dumouriez là vị tướng Pháp thắng trận tại
đất Bỉ, đã đào thoát qua nước Áo. Các lực lượng
ngoại quốc đang đẩy lui binh lính Pháp ra khỏi đất
Bỉ và đang đe dọa xâm lăng nước Pháp. Các kẻ phản
cách mạng mừng rỡ trong khi các nhà cách mạng Pháp
lại la hoảng là "chúng ta đang bị phản bội". Vật giá
gia tăng, thực phẩm khan hiếm, dân chúng nhốn nháo.
Giới tư sản cấp thấp, giới công nhân và nông dân đòi
hỏi phải kiểm soát giá cả, phân phối thực phẩm,
trừng trị các kẻ đầu cơ tích trữ. Họ tố cáo giới tư
sản đã trục lợi lúc tình hình bất ổn. Trong khi các
đảng viên Girondin còn đang do dự thì các đảng viên
Jacobin đã hợp tác với lớp người bình dân (the
sans-culottes), một phần để giành lấy sự ủng hộ, một
phần để tranh chấp với đảng Girondin.
Ngày 31 tháng 5 năm
1793, Công Xã Paris dưới áp lực của giới bình dân,
đã tập hợp được một nhóm rất đông các người biểu
tình, kéo tới và tràn vào Hội Nghị Quốc Ước, vây bắt
các đảng viên Girondin. Những người này bỏ trốn về
các tỉnh lẻ, kể cả ông Condorcet và nhà triết học
này trong thời kỳ lẩn trốn, đã viết nên tác phẩm
"Tiến Bộ của Tâm Hồn Nhân Loại" (the Progress of the
Human Mind). Đảng Jacobin từ nay khống chế được Hội
Nghị Quốc Ước nhưng các nghị viên này đang bị mang
tiếng là những kẻ giết Vua và phá hủy xã hội. Vào
lúc này, đảng Jacobin chưa nắm được thực quyền. Tại
miền Vendée ở phía tây, các nông dân nổi loạn chống
lại việc bắt lính, một phần cũng do sự xúi dục của
giới tu sĩ bất mãn, do các kẻ theo người Anh và do
những người theo phe bảo hoàng của Bá Tước Artois.
Những kẻ chống lại Công Xã Paris còn được sự tiếp
tay của các đảng viên Girondin từ Paris chạy về, họ
đã hoạt động tại các thành phố như Marseilles,
Lyons, Bordeaux và một số tỉnh khác.
Ngoài những kẻ phản
cách mạng, tại thành phố Paris còn có các kẻ khuấy
động, các kẻ chủ trương quân phiệt được gọi là
"enragés", các nhà tổ chức chính trị với quan điểm
cho rằng phương pháp nghị viện không hữu hiệu. Phía
phụ nữ có tổ chức "Phụ Nữ Cộng Hòa Cách Mạng" (the
Revolutionary Republican Women) luôn luôn biểu tình
vì các vụ tăng giá hàng và sự thiếu hụt thực phẩm.
Hàng ngàn các "xã hội bình dân" (popular societies),
các câu lạc bộ chính trị... đã lập ra các đội quân
cách mạng, các toán quân bán quân sự... họ đi tìm
kiếm thực phẩm tích trữ, các kẻ tình nghi, và họ cổ
võ phong trào cách mạng.
Trước tình hình
trong nước rối ren như vậy, Hội nghị Quốc Ước đã
không có một chương trình hành động nào rõ rệt nên
trong vòng một năm, Maximilien Robespierre là nhân
vật Jacobin đã điều hành các chính sách. Sau này,
nhiều người đã tố cáo Robespierre là kẻ độc tài,
khát máu, mị dân... nhưng cũng có những người khác
lại coi ông là một người lý tưởng, nhìn xa, một nhà
ái quốc với mục đích dân chủ. Dù cho sự phê phán có
sai biệt, song ai cũng công nhận ông ta là một người
lương thiện, thanh liêm và có nhiệt tâm cách mạng,
với từ tâm vào các năm đầu của cuộc Cách Mạng, trái
hẳn với sự tàn ác và không nhân nhượng trong các năm
về sau. Robespierre cũng là một người tin tưởng vào
sự quan trọng của các đức tính (virtues) hay tinh
thần công ích, không vụ lợi, vì ông cho rằng một
nước Cộng Hòa phải gồm có các công dân tốt và lương
thiện.
Maximilien
Robespierre (1758-94) sinh ngày 6 tháng 5 năm 1758
tại Arras, học Luật khoa tại Arras và Paris rồi hành
nghề Luật Sư tại thành phố quê hương, nơi này ông
nổi danh về khả năng trí thức và tính lương thiện.
Ông đã từng cố gắng đòi hỏi hủy bỏ án tử hình và từ
chối làm quan tòa tuyên cáo loại án đó. Robespierre
là một người hâm mộ J. J. Rousseau và khi cuộc Cách
Mạng Pháp xẩy ra, ông cho rằng đó là cơ hội để thiết
lập nên một xã hội lý tưởng theo quan niệm của vị
triết gia kể trên. Năm 1789, Robespierre được bầu
làm đại biểu tại Hội Nghị các Giai Cấp rồi trở nên
người lãnh đạo nhóm Jacobin. Robespierre cũng góp
công vào việc tổ chức ra Công Xã Paris và với tài
hùng biện, ông đã đòi hỏi phải xét xử Vua Louis 16
và hoàng hậu. Ông đã tuyên bố rằng "Nhà Vua phải
chết để Đất Nước có thể sống" (Louis 16 must die
that country may live).
Chương trình cải
cách của Robespierre thời đó là xóa bỏ tình trạng vô
chính phủ, dẹp tan các xung đột trong xã hội, chống
trả các công cuộc phản cách mạng trong nước và đánh
thắng cuộc chiến tranh với các nước ngoài bằng cách
động viên toàn dân và tất cả tài nguyên, rồi về sau
mới thiết lập nên một định chế dân chủ, khởi đầu
bằng việc lập hiến cho các giai cấp thấp kém.
Hội Nghị Quốc Ước
thời đó đã cho phép lập ra Ủy Ban An Toàn Công Cộng
(the Committee of Public Safety) điều hành chính
quyền. Ủy Ban này gồm có 12 người bầu lên mỗi tháng
trong đó Robespierre là một nhân vật có nhiều ảnh
hưởng, ngoài ra còn có George Danton, Jean Marat,
St. Just, Couthon là người bị liệt một phần, Lazaire
Carnot là một sĩ quan cách mạng Pháp...
Trong tình trang
khẩn trương đó, Ủy Ban An Toàn Công Cộng đã hoạt
động như một nội các chiến tranh, một loại độc tài
tập thể. Ủy Ban này đã cho phổ biến bản "Thông Báo
Luật Pháp" (Bulletin des lois) qua đó đòi hỏi mọi
người dân phải tuân theo các điều lệ. Ủy Ban cũng
tập trung uyền hành vào trung ương đồng thời kêu gọi
mọi người dân đầu quân qua bản văn kêu gọi "levée en
masse" (động viên tập thể). Các nhà khoa học tài
giỏi của nước Pháp thời đó cũng được mời đón giúp
sức vào các công cuộc khảo cứu hữu ích, gồm có các
nhà bác học Lagrange, Lavoisier, Lamark... Chính
quyền thời đó cũng kiểm soát số lượng vàng xuất
cảng, chặn đứng việc đầu cơ tích trữ, thực phẩm được
phân phối qua Ủy Ban Đời Sống (Subsistence
Commission) nhờ đó đồng tiền "assignat" không còn bị
mất giá.
Ủy Ban An Toàn Công
Cộng cũng tin tưởng vào nền kinh tế thị trường tự do
(free market economy), khuyến khích các nông dân làm
ăn cá thể nhưng vào thời kỳ đó, chính quyền Pháp còn
thiếu nhiều kỹ thuật và phương pháp quản trị kinh
tế. Tháng 6 năm 1793, Ủy Ban kể trên đã đề nghị một
bản Hiến Pháp Cộng Hòa theo đó có cuộc phổ thông đầu
phiếu của nam giới, nhưng rồi bản Hiến Pháp này đã
bị tạm hoãn vô hạn định. Các tập sách mỏng về nông
nghiệp được Ủy Ban cho phổ biến để dạy cho nông dân
cách trồng lúa hữu hiệu. Việc mở trường Quân Sự và
chương trình giáo dục cưỡng bách là những chương
trình hành động của Ủy Ban. Tới cuối năm 1793, Hội
Nghị Quốc Ước lập ra một kế hoạch xóa bỏ Thiên Chúa
Giáo (dechristianization) thay vào đó bằng việc tôn
thờ một Đấng Thiêng Liêng (the Supreme Being), đây
là một thứ tôn giáo tự nhiên thờ thần (a deistic
natural religion), chấp nhận sự hiện hữu của Thượng
Đế và sự vĩnh cửu của Linh Hồn.
Để dẹp tan các kẻ
chống lại Cách Mạng, Hội Nghị Quốc Ước và Ủy Ban An
Toàn Công Cộng đã cho lập ra một cơ quan cảnh sát
chính trị tối cao, gọi là Ủy Ban An Ninh Tổng Quát
(the committee of General Security) có mục đích bảo
vệ Nước Cộng Hòa, chống lại các kẻ nội thù. Ngày
17-9-1793, một đạo luật được thông qua cho phép nhóm
Jacobin hay Ủy Ban An Ninh có quyền bắt giam bất cứ
người nào bị nghi ngờ chống lại Cách Mạng.
Vào mùa thu năm
1793, các kẻ cầm đầu nhóm quân phiệt "enragés" bị
bắt và các tổ chức cách mạng của phụ nữ bắt đầu bị
cấm đoán. Các nhân vật cực đoan như Jacques Hébert,
vừa là một nhà báo, vừa là một thành viên của Công
Xã Paris, đã bị Robespierre gọi là các kẻ "cực cách
mạng" (ultra revolutionaries), một số người của bè
nhóm này đã bị đưa lên máy chém. Tháng 3 năm 1794,
Công Xã Paris bị giải tán rồi Robespierre chỉ định
nhiều người trong nhóm của ông ta nắm giữ các cơ
quan công quyền chủ yếu.
Robespierre cũng
khai trừ một số người thuộc cánh tả như George
Danton và các kẻ phục tùng, kết tội họ là bất lương
về tài chính và tiếp xúc với phe phản cách mạng.
George Danton (1759-94) là một trong các nhà lãnh
đạo của cuộc Cách Mạng Pháp và cũng là người đưa
hàng ngàn kẻ chống đối lên máy chém.
Danton sinh ngày 26-10-1759 tại Arais-sur-Aube, nước
Pháp, là con của một luật sư. Từ thuở nhỏ, Danton đã
có khả năng về hùng biện. Năm 1780, Daton lên Paris
học Luật Khoa rồi tới năm 1787, lãnh chức Luật Sư
tại Hội Đồng Hoàng Gia (the Royal Council). Năm
1790, Danton là sáng lập viên của Câu Lạc Bộ
Cordeliers, một tổ chức của các nhà cách mạng quá
khích. Năm sau, để tránh bị vây bắt, Danton phải
chạy qua nước Anh rồi trở về Pháp và vào ngày
10-8-1792, ông đã lãnh đạo cuộc tấn công vào Điện
Tuleries. Sau đó, Danton trở nên Bộ Trưởng Tư Pháp
của chính phủ lâm thời. Do có tài hùng biện, Danton
đã hô hào Hội Nghị Quốc Ước chống lại việc xâm lăng
của quân Phổ và ông cũng là một trong các người bỏ
phiếu kết án Vua Louis 16 và hoàng hậu.
Trong thời kỳ khủng bố, Danton đã cùng với Jean Paul
Marat và Robespierre điều hành Ủy Ban An Toàn Công
Cộng. Chủ đích của Danton là sau khi chính quyền
cách mạng đã ổn định, các cuộc ngoại xâm đã được đẩy
lui và các nhóm bảo hoàng đã bị dẹp tan, cần phải
phục hồi lại sự hòa dịu trong các chính sách cách
mạng. Nhưng Danton đã bị Robespierre tố cáo
là muốn phục hồi vương quyền và tham nhũng, nên bị
bắt và chết trên máy chém vào ngày 5-4-1794. Dù sao
George Danton vẫn được nhiều người coi là một trong
các lãnh tụ có khả năng nhất và không vị kỷ.
Trong thời kỳ Khủng
Bố của nước Pháp từ năm 1793 tới năm 1794, vào
khoảng 40,000 người đã bị giết, một số lớn khác bị
cầm tù. Riêng tại thành phố Paris kể từ tháng 9-1793
tới tháng 6-1794, vào khoảng 2,500 người đã bị đưa
lên máy chém guillotine. Ngày này qua ngày khác,
lưỡi máy chém này không lúc nào ngừng rơi! Trong số
các nạn nhân của các cuộc thanh trừng, 8 % thuộc
giai cấp quý tộc, 14 % là giới tư sản, nhất là những
kẻ nổi loạn tại miền Nam của nước Pháp, giới tu sĩ
có 6 % nạn nhân trong khi hơn 70 % người bị giết là
các nông dân và công nhân. Nước Cộng Hòa Pháp được
đặt căn bản trên tinh thần của "Bản Tuyên Ngôn các
Quyền Lợi của Con Người" nhưng các tàn sát trong
thời kỳ khủng bố này lại rất vô nhân đạo và tại một
vài nơi, đã cực kỳ tàn ác chẳng hạn tại miền Nantes,
2,000 người chống đối cách mạng đã bị đưa lên các
con phà và nhận chìm ngoài khơi!
Chiến thắng quân sự
của nước Pháp, sự chán nản của dân chúng đối với
việc phân phối thực phẩm của thời kỳ khủng bố, đối
với cảnh tàn sát của nhóm người cực đoan do
Robespierre lãnh đạo, nhất là sau cái chết của
George Danton, các thành viên của Hội Nghị Quốc Ước
bắt đầu lo ngại cho số phận của họ trước cảnh độc
tài khát máu của Robespierre. Họ tự hỏi: "ngay cả
một lãnh tụ của đảng Jacobin còn bị đưa lên máy chém
thì ai trong chúng ta sẽ được an toàn?". Nhiều người
đã nghi ngờ Robespierre muốn trở nên một kẻ độc tài.
Ngày 27 tháng 7,
Robespierre nói trước Hội nghị Quốc Ước, ông ta đã
chỉ trích mọi công việc còn dang dở trong thời gian
qua và đưa ra một danh sách ghi tên các kẻ phản bội
đang muốn phá hủy Nền Cộng Hòa, và Robespierre cũng
ám chỉ rằng một số kẻ này đang nằm ngay trong Hội
Nghị Quốc Ước. Chính vào lúc này, một đại biểu ngồi
phía sau trong phòng hội đã hô lớn: "Tôi đòi phải
bắt giữ Robespierre". Cả phòng hội liền vang lên câu
nói: "Đả đảo kẻ bạo quyền". Mặt Robespierre tái đi.
Ông ta cố nói lớn nhưng giọng nói đã bị tiếng hô
hoán của hội trường lấn át. Một đại biểu đã la lên:
"Máu của Danton đã làm mày nghẹt giọng".
Ngay sau đó, Hội
nghị Quốc Ước đã đồng thanh bỏ phiếu bắt giữ
Robespierre. Ngày 28 tháng 7 năm 1794 (tức là ngày 8
tháng Thermidor), Robespierre và đồng bọn 22 người
đã bị chặt đầu trên máy chém guillotine.
Cuộc Cách Mạng Pháp
1789 đã làm đổ máu hàng chục ngàn người dân vô tội,
đã giết oan hàng trăm kẻ anh hùng, những người đã hy
sinh mạng sống vì các lý tưởng Bình Đẳng, Độc Lập,
Tự Do... Họ đã tranh đấu chống lại cảnh áp bức,
tranh đấu vì sự Công Bằng Xã Hội. Trong số các nhân
vật cách mạng Pháp, có nhiều phụ nữ mà đại biểu là
bà Rolland (1754-93), vợ của một nhà chính trị cách
mạng và bà cũng là một thành viên của đảng Girondin.
Ngày 8 tháng 11 năm
1793, bà Rolland đã bị bè nhóm của Robespierre đưa
ra pháp trường. Trước khi bị chặt đầu, bà Rolland đã
cúi chào bức tượng "TỰ DO" bằng đất nung (clay
statue of Liberty) đặt gần máy chém và than: "Ôi, TỰ
DO! Người ta đã nhân danh Mi để gây ra biết bao TỘI
ÁC! " (Liberty, what crimes are committed in thy
name)./.
|
©
http://vietsciences.org
và
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences2.free.fr
- Phạm Văn Tuấn |