IRAK những di sản bị mất mát

Vietsciences- Văn Ngọc         27/05/05

 

" La Dame d’Uruk " tượng cổ ở Uruk, Irak, 3000 tr. C.N. (Bảo tàng Bagdad)

Sự kiện các bảo tàng, thư viện bị vơ vét và đốt phá tại các thành phố Bagdad, Bassora, Mossoul (Irak), từ 9-04 đến 15-04, với sự có mặt của "quân đội giải phóng" Anh-Mỹ và đồng minh, là một trong những hậu quả tai hại nhất của cuộc chiến tranh " phòng ngừa " do chính quyền Mỹ gây nên ở xứ này. Ðây không chỉ là một tổn thất to lớn về mặt di sản văn hoá đối với dân tộc Irak, mà còn đối với cả nhân loại.

Ai cũng biết, lãnh thổ Irak ngày nay - nằm giữa hai con sông Tigre và Euphrate - chính là cái nôi của nền văn minh Lưỡng Hà (Mésopotamie), một nền văn minh cổ xưa nhất của nhân loại. Tổ tiên của người Irak chính là các dân tộc Assyriens, Chaldéens, Sumériens, v.v. chủ nhân của những nền văn hoá mà ngay từ thiên niên kỷ thứ IV trước Công Nguyên đã đạt đến một trình độ phát triển rực rỡ : những đô thị đầu tiên của nhân loại đã mọc lên ở đây (Mari, Uruk, Ur, v.v.). Người ta thường nói " Lịch sử bắt đầu từ Sumer ", nơi sinh ra chữ viết (khoảng 3200 tr.C.N.), và cũng là nơi mà các nghệ thuật tạo hình như điêu khắc, hội hoạ, đã sớm có những tác phẩm có chất lượng sáng tạo cao, so với các nền văn hoá khác ở cùng thời điểm.

Vấn đề làm cho người ta không những thắc mắc, mà còn phẫn nộ là, tai hoạ này không chỉ đơn thuần là một vụ cướp bóc, hôi của, thường gặp trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, mà ngược lại, đó là một " tai hoạ đã được báo trước " từ hàng mấy tháng nay, trước khi Mỹ bắt đầu đánh Irak. Thậm chí, nó đã được lên chương trình hẳn hoi, bởi những kẻ vốn có những mưu đồ đen tối.

Chính quyền Bush và bộ tham mưu quân lực Anh-Mỹ và đồng minh, khi chuẩn bị cuộc " chiến tranh phòng ngừa " này, thừa biết những mục tiêu " phi quân sự " cần phải bảo vệ và che chở, khi lên chương trình đánh phá bằng bom và hoả tiễn với các phương tiện điện tử chính xác, song khi bộ binh của họ vào chiếm đóng các thành phố, thì đã hoàn toàn không làm cái nhiệm vụ tối thiểu của một " quân đội giải phóng " là duy trì trật tự, và ngăn cản việc cướp bóc, vơ vét các công trình phúc lợi công cộng, trong đó ưu tiên có các bảo tàng và thư viện, nơi cất giữ những kho tàng vô giá của nhân loại.

Trong vòng chưa đầy một tuần lễ, các công trình văn hoá sau đây đã bị cướp phá, vơ vét, thậm chí có nơi sau đó còn bị đốt trụi : riêng ở Bagdad, Bảo tàng Nghệ thuật và Khảo cổ học Quốc gia, Bảo tàng Nghệ thuật và Mỹ nghệ, Thư viện quốc gia, Nhà Saddam, Trung tâm Văn Khố, Thư viện của Bộ Tôn giáo. Các bảo tàng và thư viện ở Mossoul và Bassora cũng đã chịu chung một số phận.

Qua những thông tin mà cho đến nay người ta biết được về vụ việc này, thì có nhiều bằng chứng cho phép khẳng định rằng quân đội Anh-Mỹ đã được lệnh tại chỗ của cấp trên không cho phép họ ngăn cản việc cướp bóc, vơ vét, và đốt phá các bảo tàng và thư viện.

Việc bảo vệ các bảo tàng và các thư viện ở Bagdad và các thành phố khác ở Irak, thực ra vẫn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà khoa học ngay từ mấy tháng trước khi Mỹ bắt đầu đánh Irak.

Ngay từ tháng giêng, các nhà khảo cổ học danh tiếng nhất thế giới đã cảnh báo Nhà Trắng và Lầu Năm Góc về nguy cơ những kho tàng này sẽ bị tàn phá, hoặc bị mất mát, nếu chiến tranh xảy ra. Các giám đốc bảo tàng, các nhà sưu tập nổi tiếng - bằng những phương tiện truyền thông hiện đại - cũng đã trình bày cho các nhà cầm quyền Mỹ biết ít nhất 400 địa điểm (trên 7000) cần được bảo vệ trên lãnh thổ Irak.

Trong đợt vận động kêu gọi đầu tiên này, vai trò của nhà khảo cổ học McGuire Gibson đã hết sức là tích cực. Lầu Năm Góc đã phải tiếp ông đến mấy lần.

Kịp đến ngày 20-03-03, ngày đầu tiên Mỹ tấn công Irak, 100 nhà khoa học từ Mỹ, Âu châu, Nhật Bản, đã ra một tuyên bố chung trên tạp chí Science, kêu gọi các bên phải tôn trọng công ước quốc tế La Haye về việc bảo vệ các di sản văn hoá, nhất là các bảo tàng. Nhưng bản tuyên bố đã không nhận được âm vang nào từ phía Washington và London. Tuy vậy, mười ngày sau, ở Koweit, trung tá John Kuttas, người phát ngôn của quân đội Anh Mỹ và đồng minh, đã trả lời phỏng vấn của báo chí như sau : " Chính vì quan tâm đến những di sản văn hoá mà chúng tôi đã không quản ngại nguy hiểm để bảo vệ chúng tại các địa điểm cần phải bảo vệ, nhất là các viện bảo tàng ". Ở Chicago, McGuire Gibson lại lên tiếng nhắc nhở : " Năm 1991, khi xảy ra cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần đầu tiên, các bảo tàng ở phía Nam Irak cũng đã bị cướp phá rồi ". (Trong thời kỳ chiến tranh ở Afghanistan, bảo tàng Kaboul cũng đã bị vơ vét sạch). UNESCO gửi đến Washington, một bảng kê khai 4000 địa điểm cần được bảo vệ, với đầy đủ bản đồ chi tiết. Không thể bảo rằng cả Washington, London và bộ tham mưu đã không được cảnh báo trước ! Ngay trước ngày Bagdad bị chiếm, John Russell, một chuyên gia về khảo cổ học đông phương, còn cố kêu gọi : " Phải hành động ngay ! Bọn " thổ phỉ " chỉ còn chờ dịp để ra tay. Những người có phận sự bảo vệ nhà bảo tàng tại chỗ không có đủ súng ống. Phải làm sao hỗ trợ được cho họ, nếu không thì sẽ mất hết ! ".

Quả nhiên, điều người ta lo ngại đã xảy đến.

Dưới đây là lời thuật lại của người coi việc canh gác bảo tàng Bagdad : " Hôm đầu (9-04-03), 4 chiếc xe tăng được bố trí đứng chắn ở ngay trước cửa bảo tàng. Chúng tôi đã hơi yên trí. Không ai dám bén mảng tới đây, trong khi ở khắp nơi trong thành phố người ta đang đi hôi của, phá phách. Nhưng ngay sáng hôm sau (10-04-03), không còn thấy bóng một chiếc xe tăng nào nữa. Bọn " thổ phỉ " có tổ chức bắt đầu kéo đến, có bọn có vũ khí, có bọn không. Bọn chúng doạ nếu không mở cửa chúng sẽ giết . Thế là cuộc đập phá, vơ vét kéo dài hai ngày liền. Ðiều đáng chú ý là bọn có tổ chức nhất và chuyên nghiệp nhất, đã đến bằng xe hơi, xe camion, và dường như họ quen biết hết cả các nơi chỗ để các hiện vật quí nhất .

Một nhà khảo cổ học thấy tình hình đó, bèn đi đến gặp một người lính lái xe tăng ở một khu phố khác và khẩn khoản anh ta đến đây can thiệp. Anh này nhận lời và lái xe tăng đến trước bảo tàng, nổ mấy phát súng bắn chỉ thiên. Bọn thổ phỉ liền bỏ chạy. Nhưng ngay sau đó chiếc xe tăng lại nhận được lệnh phải rời đi chỗ khác. Thế là bọn kia lại trở lại, và lần này chúng hoàn toàn tự do vơ vét, đến mãi chiều ngày 11-0403 mới thôi, khi chẳng còn gì để vơ vét nữa".

 

3Bia

Bia tạc cảnh đi săn sư tử của nhà vua, ở Uruk, Irak, 3300 tr.C.N. (Bảo tàng Bagdad)

 Ngày 12-04-04 tin bảo tàng Bagdad bị cướp phá và vơ vét sạch đã được các nhà báo loan tin đi khắp thế giới.

Ðiều trớ trêu, là bộ tham mưu các lực lượng quân sự Anh- Mỹ đã giải thích với các nhà báo rằng, " vì lực lượng của họ ở Bagdad chỉ có 20000 quân, mà trong các khu phố khác còn rải rác các ổ kháng cự. Hơn nữa, họ phải ưu tiên bảo vệ cho Bộ dầu lửa " !

Báo Guardian (London) đã không ngần ngại coi sự kiện trên như dấu hiệu của " sự tận thế của nền văn minh ".

Câu nói này, ở đây, lại càng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Ðương nhiên, trước hết đó là sự đánh giá chung về cuộc " chiến tranh phòng ngừa " của Mỹ và đồng minh ở Irak. Ðó là một cuộc chiến tranh hoàn toàn vô đạo lý, và bất hợp pháp, điều này chúng ta đã thấy rõ rồi.

Nhưng ngay trong một hiện tượng riêng lẻ, như việc những người có quyền lực và trách nhiệm tại chỗ đã để cho bọn cướp ngang nhiên vơ vét hết những báu vật của nền văn minh Lưỡng Hà, di sản văn hoá chung của nhân loại, thì không phải chỉ bản thân sự mất mát các hiện vật mới là nghiêm trọng, mà điều còn nghiêm trọng hơn, chính là sự vô ý thức của con người trước sự mất mát đó.

Có một cái gì " vô sỉ " (cynique), tàn nhẫn, và đáng lo ngại trong những sự kiện mà nhân loại đang phải nếm trải những ngày qua !

Trên thực tế, hiện tượng " không ngăn cản" việc cướp phá và vơ vét các bảo tàng và thư viện ở Irak có những lý do rất thực dụng của nó.

Cách đây chỉ vài tuần, William Pearlstein, thủ quĩ của tổ chức American Council for Cultural Policy (ACCP) - được thành lập từ năm 2001, gồm các lái buôn, các nhà sưu tập nghệ thuật và các trạng sư chuyên hoạt động trong lãnh vực này, với chức năng " bảo vệ các bộ sưu tập nghệ phẩm và cổ vật phương đông " - đã đưa ra nhận xét là các luật lệ của Irak về việc xuất khẩu những cổ vật và nghệ phẩm là nhằm mục đích " giữ khư khư " những hiện vật đó ở trong lãnh thổ nước mình. Một luật gia, thành viên của tổ chức ACCP còn tuyên bố : " Sự tự do buôn bán các nghệ phẩm và cổ vật của Irak sẽ là một cách bảo vệ tốt nhất các di sản văn hoá này của nhân loại " (!).

Theo Dominique Collon, người trách nhiệm khu vực cổ vật ở British Museum, thì những lời tuyên bố trên của tổ chức ACCP chỉ càng khuyến khích sự cướp phá và vơ vét các bảo tàng và thư viện. Như vậy là, với sự đồng ý cho phép về phía Mỹ, thị trường sẽ mở rộng cửa để đón nhận những báu vật cướp được ở các bảo tàng và thư viện ở Irak ! Ngay từ trước khi có chiến tranh, Hội các nhà khảo cổ học đã lên tiếng cực lực phản đối quan niệm nguy hiểm này. Sự nguy hiểm đó đã trở thành quá rõ rệt, khi người ta thấy tổ chức ACCP đã được Lầu Năm Góc tiếp nhiều lần. Tuy nhiên Bộ quốc phòng Mỹ đã tuyên bố không có một sự biệt đãi nào đối với tổ chức này.

Mặt khác, việc mua bán chợ đen các cổ vật đào từ lòng đất lên ở Irak không phải chỉ gần đây mới có, mà đã có từ lâu, và vẫn đi theo con đường băng qua Jordanie-Israël, hoặc Syrie-Turquie, để sang tới Tokyo, New York. Ngay từ thời Saddam Hussein, đã từng có những vụ xử tử những bọn làm thất thoát các cổ vật này.

Việc tung ra thị trường quốc tế một khối lượng khổng lồ những hiện vật vơ vét được ở các bảo tàng và thư viện ở Irak, đương nhiên sẽ làm xuống giá các cổ vật trên thị trường này, nhưng chắc chắn sẽ đem lại một nguồn lợi lớn cho những con buôn, và trước hết là những kẻ đã đứng ra tổ chức cuộc vơ vét.

Song, việc này có lẽ không đáng quan tâm bằng việc các báu vật đó sẽ rơi vào tay bất cứ kẻ nào có tiền là mua được : từ các nhà sưu tập tư nhân, các nhà triệu phú, đến các con buôn. Người dân thường muốn hiểu biết, cũng như các nhà nghiên cứu, sẽ không còn dịp để tham khảo chúng trong các bảo tàng, thư viện nữa, trừ ra các cơ quan này có điều kiện mua lại các hiện vật đó qua ngả chợ đen ! Một hiện vật có giá trị văn hoá hay nghệ thuật, một khi đã không được trưng ra cho quần chúng xem, hoặc không được đưa vào quĩ đạo của sự hiểu biết, nói chung, và của giao lưu văn hoá, thì tác dụng của nó về mặt giáo dục và về mặt " di sản văn hoá " cũng sẽ bị giới hạn đi rất nhiều.

Người ta ước lượng ít nhất 80% các hiện vật và sách quí trong các bảo tàng và thư viện ở Irak đã bị thất thoát (170 000 hiện vật, chỉ riêng ở Bagdad).

Những người lạc quan tin rằng, một phần lớn các hiện vật sẽ có thể thu hồi lại được bởi các đội công an đặc vụ, và sẽ được đưa trở về Irak. Còn những người thiết thực hơn thì cho rằng chắc chỉ độ 10% các hiện vật sẽ thu hồi lại được để hoàn lại cho các bảo tàng ở Irak. Ðiều khó khăn nhất, là làm sao tìm lại được những hiện vật trước đây vẫn nằm trong các kho dự trữ, song chưa được ghi vào danh mục !

Trích từ Diễn Đàn Forum số 129 - 5/2003

 

http://vietsciences.net   và  http://vietsciences.free.fr